TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1 Các công trình nghiên cứu về làng nghề và hiện đại hóa làng nghề ở một số nước trên thế giới
Vào đầu thế kỷ XX, một số nghiên cứu quan trọng về làng nghề đã được thực hiện trên thế giới, trong đó có công trình của Bành Tử vào năm 1922, đề cập đến nhà máy làng xã.
N.H.Noace, 1928 Mô hình sản xuất làng xã và Xã hội hóa làng thủ công Năm
Năm 1964, Hội đồng Quốc tế về Nghề Thủ Công Thế Giới (WCCI) được thành lập với mục tiêu hoạt động phi lợi nhuận nhằm hỗ trợ và phát triển các quốc gia có nghề thủ công truyền thống.
Nghiên cứu của Awgichew (2010) tại Hội thảo quốc tế về “Ứng dụng khoa học và công nghệ vào phát triển các làng nghề” đã chỉ ra rằng Chính phủ Ethiopia đã chú trọng nâng cấp cơ sở hạ tầng để phát triển các làng nghề nông thôn, nơi 83% dân số sống chủ yếu từ nông nghiệp Chiến lược công nghiệp hóa phát triển nông nghiệp (ADLI) đã được áp dụng như một khung cho quy hoạch đầu tư nông thôn, tập trung vào cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội, nghiên cứu và mở rộng Kế hoạch phát triển bền vững đã tổ chức 70% dân cư nông thôn thành hợp tác xã, xây dựng 200 điểm cung cấp thông tin thị trường và 20 trung tâm ở vùng sâu, cùng với 25 trung tâm giáo dục nghề nghiệp và 18.000 trung tâm đào tạo cho nông dân Hơn 10 triệu người đã được đào tạo, tạo ra sự thay đổi lớn trong đời sống của người dân nông thôn thông qua việc sử dụng thiết bị hiện đại và kết nối với thế giới.
Dưới sự tài trợ của Tổ chức Rockefeller, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Cộng đồng (Trung Quốc) đã thực hiện dự án nghiên cứu và thương mại hóa nghề thủ công tại tỉnh Vân Nam, nhằm nâng cao thu nhập cho phụ nữ ở huyện Malutang thông qua việc thương mại hóa sản phẩm thêu truyền thống Dự án bắt đầu bằng việc thu thập mẫu thêu và điều chỉnh để phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng hiện đại, sau đó tổ chức đào tạo kỹ thuật gia công cho phụ nữ tham gia, giúp họ sản xuất các sản phẩm chất lượng cao Cuối cùng, dự án thiết lập khung chi phí hợp lý cho sản phẩm, đảm bảo thu nhập cao cho người tham gia Thành công của dự án đã được nhân rộng sang các huyện khác ở Vân Nam, biến Malutang thành địa phương nổi tiếng về thêu truyền thống Sự phát triển kinh tế làng nghề ở châu Á, như tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Thái Lan, cho thấy đây là giải pháp hiệu quả cho các vấn đề kinh tế xã hội nông thôn, với Trung Quốc đã giải quyết 12 triệu lao động dôi dư nhờ vào sự phát triển của các xí nghiệp làng nghề.
Luật nghề truyền thống năm 2004 nghiên cứu kinh nghiệm bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống ở nước ngoài, nhấn mạnh vai trò của nghề thủ công trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại Nhật Bản Bài viết đề xuất những gợi ý cho Việt Nam trong việc bảo tồn và phát triển nghề thủ công trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đặc biệt, các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm ở châu Á như Thái Lan, Malaysia, và Trung Quốc đã chú trọng đến nghề chế biến tinh bột Theo tác giả Jesuitas từ Thái Lan (1996), việc áp dụng phương pháp xử lý hiếu khí bằng bể Acroten có thể giảm tới 70% lượng hữu cơ trong nước thải chứa nhiều tinh bột.
Nhiều quốc gia đã ứng dụng khoa học kỹ thuật vào thiết kế bể biogas để tận dụng bã thải từ sản xuất tinh bột, từ đó sản xuất khí sinh học phục vụ cho các hoạt động khác như vận hành động cơ diesel Theo nghiên cứu của Thery và Dang (1979) cũng như Chen và Lee (1980), Trung Quốc đã xây dựng hơn 7 triệu bể lên men CH4, trong đó có khoảng 20.000 bể lớn chuyên sản xuất khí sinh học cho động cơ diesel, với sản lượng đạt khoảng 4.000.10^6 m³ khí mỗi năm.
Cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước, xã hội dân sự và cộng đồng để hiện đại hóa và phát triển làng nghề, từ đó bảo tồn giá trị văn hóa và nâng cao vị thế của làng nghề truyền thống Giải pháp này sẽ đảm bảo sự phát triển bền vững cho xã hội làng nghề.
1.1.2 Các công trình nghiên cứu về làng nghề và hiện đại hóa làng nghề ở Việt Nam Ở Việt Nam, vấn đề làng nghề đƣợc đề cập đến qua nhiều thời kỳ, với những khía cạnh và các mục đích khác nhau Cũng có rất nhiều tác phẩm nói đến làng nghề Việt Nam nhƣ: Bùi Văn Vƣợng, 1998 Làng nghề thủ công truyền thống Việt
Tác giả đã trình bày nhiều loại hình làng nghề truyền thống của Việt Nam như đúc đồng, kim hoàn, rèn, gốm, trạm khắc đá, dệt, thêu ren, giấy dó, tranh dân gian, dệt chiếu, quạt giấy, mây tre đan, ngọc trai và làm trống, đồng thời giới thiệu lịch sử, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, tư tưởng, kỹ thuật, bí quyết nghề và thủ pháp nghệ thuật của các nghệ nhân Trong cuốn sách của Dương Bá Phượng (2001), tác giả đã phân tích lý luận và thực trạng của các làng nghề, bao gồm đặc điểm, khái niệm, con đường và điều kiện hình thành, tập trung vào một số làng nghề tại các tỉnh với các giải pháp nhằm phát triển trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Ngoài ra, còn có các tác phẩm khác như của Mai Thế Hởn (2003) và Trần Minh Yến (2003) cũng đề cập đến phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình này.
Nghiên cứu của Vũ Tuấn Anh và Nguyễn Thu Hoà (2005) tại Viện Kinh tế Việt Nam đã chỉ ra xu hướng phát triển của các nghề phi nông nghiệp và làng nghề ở nông thôn Việt Nam Các tác giả phân tích đặc điểm và tác động của sự phát triển này đối với kinh tế, xã hội và môi trường, đặc biệt là ảnh hưởng đến hộ nghèo Dựa trên những phân tích đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm phát triển và quản lý hiệu quả các nghề phi nông nghiệp và làng nghề, góp phần giảm nghèo và thúc đẩy sự phát triển bền vững của nông thôn Việt Nam.
Ngoài ra, có một số bài viết đáng chú ý trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, chẳng hạn như bài của Chu Tiến Quang và Đinh Xuân Nghiêm (2011) về "Chính sách phát triển bền vững làng nghề ở Việt Nam" đăng trên Tạp chí Quản lý Kinh tế, số 40, cùng với bài viết của Nguyễn Thị Ngân.
2009 Xu hướng phát triển làng nghề ở khu vực đồng bằng sông Hồng Tạp chí Nông thôn kỳ 2; Đỗ Thị Hào, 1987 Làng Đại Bái – Gò đồng Bắc Ninh; Bùi Thị
Trong bài viết của Tân (1999) về hai làng nghề truyền thống Phú Bài và Hiền Lương, tác giả đã làm rõ khái niệm, lịch sử phát triển, đặc điểm và thực trạng sản xuất của các làng nghề, đồng thời đưa ra xu hướng phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và các giải pháp thúc đẩy sự phát triển bền vững Nghiên cứu của Vũ Thị Hoa (2012) cũng tập trung vào hiện đại hóa làng nghề ở Hà Nội, đánh giá thực trạng và xác định những thành tựu, hạn chế cùng các vấn đề cần giải quyết Công trình của Vũ Trung phân tích sự tồn tại của làng nghề trong nền kinh tế thị trường và những thách thức mới đối với văn hóa làng nghề, từ đó phác hoạ diện mạo văn hóa làng nghề trong bối cảnh đổi mới.
Nghiên cứu về phát triển làng nghề đã phân tích khách quan về quá trình và xu hướng phát triển, nhưng vẫn thiếu hệ thống nghiên cứu về hiện đại hóa Các nhà quản lý và doanh nghiệp chưa đầu tư đúng mức, trong khi chính sách khuyến khích còn nhiều vướng mắc Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu, nhưng chưa có nghiên cứu tổng thể về hiện đại hóa làng nghề ở huyện Gia Lâm Luận văn này sẽ tìm hiểu và đánh giá quá trình phát triển và hiện đại hóa làng nghề tại huyện Gia Lâm trong những năm gần đây, phân tích kết quả, hạn chế và nguyên nhân của những bất cập, từ đó đề xuất giải pháp cho quá trình hiện đại hóa và phát triển sản xuất gắn với bảo vệ môi trường.
Cơ sở lý luận về làng nghề và hiện đại hóa làng nghề
Cho đến nay có nhiều quan niệ m khác nhau về làng nghề , theo mô ̣t số công trình nghiên cứu, làng nghề đƣợc hiểu theo các cách sau:
Theo đề tài khảo sát một số làng nghề - chính sách và giải pháp (1996) của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, "làng nghề là một cộng đồng dân cư, một cộng đồng sản xuất nghề tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp ở nông thôn" Tuy nhiên, quan niệm này chỉ nêu lên khái niệm chung chung về mặt định tính mà chưa đề cập đến mặt định lượng của làng nghề.
Theo GS Trần Quốc Vượng, làng nghề không chỉ đơn thuần là nơi trồng trọt và chăn nuôi nhỏ lẻ, mà còn là nơi phát triển các nghề phụ truyền thống tinh xảo Tại đây, xuất hiện những thợ thủ công chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp, cùng với sự hình thành của các phường nghề, ông trùm và phó cả Những người thợ và phó nhỏ đã tập trung vào việc áp dụng quy trình công nghệ nhất định, góp phần làm phong phú thêm giá trị văn hóa và nghệ thuật của làng nghề.
“Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sống chủ yếu bằng các nghề thủ công và sản xuất hàng hóa Tuy nhiên, quan niệm này chưa hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của các làng nghề mới hiện nay.
TS Dương Bá Phượng định nghĩa làng nghề là một cộng đồng nông thôn có một hoặc một số nghề thủ công tách biệt khỏi nông nghiệp và hoạt động kinh doanh độc lập Định nghĩa này nhấn mạnh hai yếu tố cơ bản cấu thành làng nghề: làng và nghề.
Theo thông tư số 116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành ngày 18/12/2006, hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số nhằm đảm bảo việc áp dụng chính sách hiệu quả trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn Thông tư này cung cấp các quy định cụ thể về quy trình, tiêu chuẩn và trách nhiệm của các cơ quan liên quan, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và phát triển bền vững trong ngành nông nghiệp.
Nghị định 66/2006/NĐ-CP quy định về phát triển ngành nghề nông thôn xác định rằng làng nghề bao gồm một hoặc nhiều cụm dân cư như thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc, hoặc các điểm dân cư tương tự trong một xã hoặc thị trấn Các cụm dân cư này thực hiện các hoạt động ngành nghề nông thôn và sản xuất ra nhiều loại sản phẩm khác nhau.
Tƣ̀ mô ̣t số quan niê ̣m trên ta thấy , thuâ ̣t ngƣ̃ làng nghề gồm hai yếu tố làng và nghề
Làng là một tổ chức nông thôn đặc trưng của Việt Nam, hình thành từ quá trình định cư và công cư của con người Tại đây, cư dân sống, làm việc, và vui chơi, thể hiện mối liên hệ sâu sắc với văn hóa, thiên nhiên, xã hội và chính bản thân họ.
Nghề thủ công truyền thống, bao gồm các lĩnh vực như dệt, đúc đồng, khảm trai và gốm sứ, đã từng chỉ là hoạt động phụ trong các gia đình nông thôn vào thời gian rảnh rỗi Tuy nhiên, theo thời gian, số lượng người theo đuổi nghề thủ công ngày càng tăng, họ đã tách rời khỏi nông nghiệp và xây dựng cuộc sống chính bằng thu nhập từ nghề nghiệp này ngay tại làng quê.
Làng nghề có thể được hiểu là một cộng đồng dân cư như làng, thôn, ấp, bản, buôn, phum, sóc, nơi mà sản xuất và kinh doanh các ngành nghề nông thôn chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập của các hộ dân Hiện đại hóa làng nghề là một yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất và đáp ứng nhu cầu thị trường.
Hiện đại hóa là một khái niệm chưa được định nghĩa rõ ràng, thường gắn liền với những thay đổi và tiến bộ trong xã hội, kinh tế và công nghệ Khái niệm này không chỉ phản ánh sự chuyển mình của các quốc gia mà còn thể hiện sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ việc sử dụng sức lao động thủ công sang áp dụng công nghệ và phương pháp tiên tiến nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội Hiện đại hóa diễn ra với những thay đổi sâu sắc về kinh tế, bao gồm sự phân công lao động tăng cường, chuyên môn hóa sâu hơn, và ứng dụng các kỹ thuật quản trị cùng công nghệ sản xuất hiện đại, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các hệ thống thương mại và phương tiện giao dịch.
Trong lĩnh vực làng nghề, "hiện đại hóa làng nghề" được hiểu là quá trình chuyển đổi từ phương thức sản xuất thủ công, truyền thống sang phương thức hiện đại với công nghệ tiên tiến Mục tiêu của quá trình này là phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tăng giá trị sản phẩm và cải thiện sức cạnh tranh, đồng thời vẫn bảo tồn giá trị truyền thống của làng nghề.
+ Hiện đại hóa làng nghề gắn với các phương thức sản xuất truyền thống, gắn với các nghệ nhân của các làng nghề
Các phương thức sản xuất truyền thống thường mang tính gia truyền và bí quyết dòng họ, vì vậy khi hiện đại hóa các làng nghề, việc giữ gìn công nghệ truyền thống là rất quan trọng Quy trình sản xuất không thể hoàn toàn thay thế bằng công nghệ hiện đại, mà chỉ có thể cải tiến ở một số khâu nhất định, nhằm bảo tồn tính truyền thống của sản phẩm Sự phát triển của các làng nghề cũng gắn liền với những đóng góp quý báu của các nghệ nhân, những người lưu giữ và truyền đạt kinh nghiệm sản xuất cho thế hệ kế cận Những kinh nghiệm này được tích lũy qua thời gian và không phải ngẫu nhiên mà có, mà được lựa chọn một cách tinh tế.
Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống ở các làng nghề là yếu tố cốt lõi trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa Việc duy trì và phát huy các phương thức sản xuất truyền thống không chỉ giữ gìn bản sắc văn hóa mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của các làng nghề trong bối cảnh hiện đại.
+ Hiện đại hóa làng nghề gắn với các quan hệ làng xã trong quá trình vận hành của làng nghề
Làng nghề thủ công Việt Nam là biểu tượng văn hóa độc đáo, phản ánh lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Các sản phẩm truyền thống không chỉ phục vụ cho thương mại mà còn mang giá trị văn hóa và lịch sử sâu sắc Nghệ nhân và quy trình sản xuất được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên sự gắn kết và niềm tin trong cộng đồng Để phát triển bền vững, việc hiện đại hóa làng nghề cần bảo tồn các giá trị văn hóa và giải quyết hài hòa các mối quan hệ trong xã hội.
+ Hiện đại hóa làng nghề nhưng vẫn giữ gìn sự kết tinh của các giá trị văn hóa truyền thống, tinh hoa của các làng nghề
Cơ sở thực tiễn
1.3.1 Kinh nghiệm hiện đại hóa làng nghề của một số nước trên thế giới
Vào những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, hiện đại hóa làng nghề đã trở thành định hướng phổ biến tại nhiều quốc gia châu Âu như Pháp, Hungary, Bulgaria, Hà Lan, Đan Mạch và Thụy Điển, với mục tiêu bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống và duy trì sản xuất theo hướng hiện đại Gần đây, các quốc gia châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và Trung Quốc cũng đang chú trọng phát triển hiện đại hóa trong các làng nghề.
Vào năm 1979, ông Hiramatsu, Thống đốc quận Oita, Nhật Bản, khởi xướng phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” (OVOP), hiện đã được áp dụng thành công ở nhiều quốc gia Châu Á và Châu Phi Mô hình OVOP nhằm mục tiêu giúp mỗi địa phương tạo ra sản phẩm độc đáo, thể hiện bản sắc văn hóa riêng, từ đó thu hút du khách, tăng doanh thu du lịch, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người dân Sản phẩm từ mô hình này không chỉ cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản mà còn toàn cầu, đồng thời giữ gìn giá trị văn hóa địa phương và thu hút đông đảo du khách Để đạt được điều này, chính phủ Nhật Bản đã đề ra những nguyên tắc quan trọng.
Sản phẩm được công nhận là làng nghề truyền thống phải có lịch sử tồn tại từ 100 năm trở lên và được sản xuất thủ công với các đặc điểm khu vực đặc trưng về nguyên liệu hoặc kỹ thuật chế tác Sau khi nhận đơn, chính phủ sẽ thành lập một ban tư vấn để điều tra sản phẩm Dựa trên kết quả thẩm tra, Bộ Công thương sẽ chính thức công nhận sản phẩm làng nghề truyền thống và đề ra các biện pháp hỗ trợ cần thiết.
Sản phẩm làng nghề truyền thống mang đậm bản sắc địa phương, vì vậy chính quyền địa phương cần có chính sách bảo lãnh trong quá trình xét duyệt Cơ chế này giúp tăng cường sự phối hợp giữa hỗ trợ của chính phủ Trung ương và địa phương Khi các sản phẩm này được công nhận, chính phủ sẽ tài trợ 50% chi phí, phần còn lại sẽ do địa phương đảm nhận.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề là yếu tố then chốt để kế tục kỹ thuật thủ công truyền thống Mỗi khu vực sản xuất đều có dự án đào tạo thợ thủ công kế cận, giúp truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác Kỹ thuật viên giỏi trở thành người hướng dẫn cho lớp trẻ, đảm bảo sự kế thừa công nghệ Đồng thời, việc xúc tiến thương mại sản phẩm làng nghề cũng rất quan trọng, với các triển lãm và sự kiện bán hàng tại địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ đang thay đổi Chính quyền địa phương và chính phủ đã đầu tư khoảng 2 tỷ yên hàng năm cho công tác này, nhằm nâng cao giá trị và khả năng tiếp cận sản phẩm làng nghề tới người tiêu dùng.
Nhà triển lãm các sản phẩm làng nghề quốc gia được xây dựng nhằm lưu giữ tài liệu về các địa phương có nghề thủ công và thực hiện các dự án đào tạo Nhật Bản hiện có khoảng 30 tòa nhà triển lãm, và từ những năm 1990, việc kết hợp nhà triển lãm với ngành du lịch đã mang lại kết quả khả quan, tập trung vào quản lý theo kiểu cổ truyền cho khu vực.
Nghiên cứu nguyên, vật liệu thô đang được tiến hành khẩn trương nhằm tìm kiếm các nguyên, vật liệu thay thế cho những nguồn tài nguyên đang cạn kiệt Điều này không chỉ giúp bảo vệ môi trường mà còn đảm bảo sự phát triển bền vững cho các nghề thủ công truyền thống.
Hiệp hội làng nghề truyền thống được thành lập dựa trên luật Phát triển nghề thủ công truyền thống từ năm 1975, nhằm khuyến khích sự phát triển của các nghề thủ công truyền thống thông qua các hợp tác xã Hiệp hội đã triển khai nhiều dự án đa dạng và nhận được sự hỗ trợ tích cực từ chính quyền địa phương.
Các cuộc thi sản phẩm làng nghề được tổ chức công khai cho cả sản phẩm thủ công đã và chưa được xác nhận Giải thưởng của Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Công thương được trao cho những cải tiến kỹ thuật và phát triển sản phẩm dựa trên công nghệ truyền thống.
Giáo dục thế hệ trẻ về nghề thủ công truyền thống là rất quan trọng Các thợ thủ công được mời đến trường tiểu học và trung học cơ sở để chia sẻ kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất Điều này giúp học sinh làm quen với các phương pháp, công nghệ và vật liệu từ sớm, nhằm đào tạo những thợ thủ công tương lai và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trung tâm làng nghề quốc gia được thành lập vào năm 1979 tại Tokyo và chuyển đến Ikebukuro vào năm 2001, nhằm cung cấp thông tin về nghề thủ công truyền thống Đây cũng là địa điểm tổ chức triển lãm, cung cấp tài liệu, sách báo và phim, tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin giữa người sản xuất và người tiêu dùng.
Hoạt động làng nghề tại mỗi địa phương nhằm phát triển sản phẩm phù hợp với thị hiếu và tiêu chuẩn thị trường trong và ngoài nước Để đạt được thành tựu quốc gia và quốc tế, việc nâng cao chất lượng và mẫu mã sản phẩm thủ công là rất quan trọng Khoa học và công nghệ đóng vai trò then chốt trong quá trình này Nhờ nỗ lực của cộng đồng cư dân, việc cải thiện chất lượng sản phẩm sẽ giúp thị trường tiêu thụ ổn định và mở rộng, từ đó thúc đẩy kinh tế của từng xã, từng làng ngày càng phát triển.
Xây dựng các dự án khả thi dựa vào nguồn lực địa phương là cách hiệu quả để phát huy tiềm năng sáng tạo của cộng đồng nông thôn Chính quyền các cấp cần hỗ trợ và khuyến khích người dân tham gia xây dựng các dự án nhỏ và vừa, từ đó nâng cao tính sáng tạo trong cộng đồng Những dự án này nên tập trung vào việc tìm kiếm giải pháp thiết thực nhằm phát triển nghề, nâng cao chất lượng sản phẩm và xúc tiến thương mại, giúp mở rộng thị trường tiêu thụ.
Để phát triển làng nghề, chính phủ Thái Lan đã áp dụng mô hình “Mỗi làng một sản phẩm” của Nhật Bản từ năm 1999, chính thức hoạt động từ tháng 10 năm 2001 Các làng nghề được tổ chức hiệu quả và đưa vào chương trình du lịch, đồng thời bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống Chính phủ đã khuyến khích đầu tư hiện đại hóa, tạo ra sản phẩm phong phú phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu Từ năm 1997, công tác hiện đại hóa đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa Để hỗ trợ phát triển, chính phủ cung cấp tín dụng kịp thời, khuyến khích doanh nghiệp hợp tác với làng nghề, đồng thời hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo thị trường cho người lao động, nâng cao trình độ và kiến thức về sản xuất kinh doanh.
Một hình thức hiện đại hóa nhằm phát triển làng nghề mà các làng nghề có thể áp dụng là đổi mới tập trung vào việc khai thác các dịch vụ trải nghiệm cho du khách Điển hình cho mô hình này là làng nghề Bumeri của Hàn Quốc.