1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ

126 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Cái Tôi Trữ Tình Trong Thơ Lưu Quang Vũ
Tác giả Lường Thị Tình
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Nam
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Ngữ văn
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2014
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 126
Dung lượng 1,23 MB

Cấu trúc

  • 1. Lí do chọn đề tài (5)
  • 2. Lịch sử vấn đề (5)
  • 3. Đối t-ợng, phạm vi nghiên cứu (9)
  • 4. Ph-ơng pháp nghiên cứu (9)
  • 5. Mục đích của luận văn (10)
  • 6. Cấu trúc của luận văn (10)
  • B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1. VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA LƯU QUANG VŨ (11)
    • 1. PHẠM TRÙ CÁI TÔI TRỮ TÌNH (11)
      • 1.1. Từ góc độ triết học và tâm lý học (11)
      • 1.2. Từ góc độ sáng tạo văn học nghệ thuật (14)
    • 2. CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRỮ TÌNH (17)
      • 2.1. Khái niệm cái tôi trữ tình (17)
      • 2.2. Nhà thơ và cái tôi trữ tình trong thơ (19)
    • 3. Hành trình sáng tạo và đặc điểm cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ (24)
      • 3.1. Giai đoạn 1963 – 1971 (24)
      • 3.2. Giai đoạn 1971 – 1973 (25)
      • 3.3. Giai đoạn 1974 – 1978 (25)
  • CHƯƠNG 2: MỘT CÁI TÔI TRỮ TÌNH ĐỘC ĐÁO VÀ ĐA DIỆN (27)
    • 2.1. Cái tôi trong cảm hứng công dân (27)
      • 2.1.1. Cái tôi trong cảm hứng chiến đấu và chiến thắng (27)
      • 2.1.2. Cái tôi suy tưởng về lịch sử dân tộc (35)
      • 2.1.3. Trầm tƣ và triết lý (47)
    • 2.2. Cái tôi trong đời sống riờng tƣ (50)
      • 2.2.1. Từ gia đình ra xã hội (50)
      • 2.2.2. Cái tôi trên mảnh đất tình yêu (53)
    • 3.1. Biểu tƣợng thơ (62)
      • 3.1.1. Đất nước (63)
      • 3.1.2. Mƣa (65)
      • 3.1.3. Gió (67)
      • 3.1.4. Lửa (71)
      • 3.1.5. Các loài hoa (73)
    • 3.2. Thể thơ (76)
    • 3.3. Không gian và thời gian nghệ thuật (81)
      • 3.3.1. Không gian nghệ thuật, không gian xó hội (82)
      • 3.3.2. Không gian đời t-, trải nghiệm (88)
    • 3.4. Thời gian nghệ thuật (96)
      • 3.4.1. Thời gian lịch sử ‟ xó hội (97)
      • 3.4.2 Thời gian đời t-, thời gian chiêm nghiệm (101)
    • 3.5. Ngôn ngữ thơ ca và giọng điệu trữ tỡnh (107)
      • 3.5.1. Ngôn ngữ thơ ca (107)
      • 3.5.2. Giọng điệu trữ tỡnh (113)
      • 3.3.2. Âm chủ của một giọng điệu (117)
  • KẾT LUẬN (121)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (123)

Nội dung

Lịch sử vấn đề

Lưu Quang Vũ là một hiện tượng văn học nổi bật, đặc biệt trong lĩnh vực sân khấu, nơi ông đã khẳng định được vị thế vững chắc trong lòng công chúng Tài năng của ông đã để lại dấu ấn sâu sắc trong nền văn học Việt Nam.

Lưu Quang Vũ không chỉ nổi tiếng là một nhà viết kịch mà còn được công nhận ngày càng nhiều trong vai trò một nhà thơ Mặc dù chỉ có hai mươi năm sáng tác, nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, ông đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam.

Một trong những chức năng quan trọng của phê bình văn học là khả năng dự báo Hoài Thanh, nhà phê bình tài hoa, đã sớm nhận ra tài năng thơ của Lưu Quang Vũ qua những tác phẩm đăng báo Trong bài viết "Một cây bút trẻ nhiều triển vọng", ông bày tỏ sự ngỡ ngàng trước những vần thơ viết về quê hương của Lưu Quang Vũ, và nhận định rằng: “Đến lượt mình, Lưu Quang Vũ đã góp tiếng nói của anh Một tiếng nói nhỏ nhẹ mà sâu.”

Hoài Thanh đã cảm nhận được hồn thơ của Lưu Quang Vũ, mặc dù ông cho rằng thơ của Lưu Quang Vũ có nhiều đoạn đứt nối Trong bài viết “Hương cây - Bếp lửa - Đất nước và đời ta” của Lê Đình Kỵ, tác giả đã phân tích những thành công và hạn chế của “Hương cây”, nửa đầu của tập thơ đầu tay Lưu Quang Vũ in chung với Bằng Việt Ông nhận định rằng thơ Lưu Quang Vũ ít chứa đựng sự suy nghĩ sâu sắc, nhưng vẫn mang đến “một điệu tâm hồn riêng” Hai bài viết này đã mở ra một hướng nhìn nhận mới về thơ Lưu Quang Vũ.

Lưu Quang Vũ là một trong những tác giả có ảnh hưởng lớn đến nền văn học Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực thơ ca Sự ra đi đột ngột của ông đã để lại nhiều tác phẩm sâu lắng, khiến độc giả phải ngỡ ngàng trước tình cảm và tâm hồn mà ông gửi gắm Những đóng góp của ông hứa hẹn sẽ tiếp tục được khám phá và phát triển trong tương lai.

Kể từ khi hai tập di cảo “Bầy ong trong đêm sâu” và “Mây trắng của đời tôi” ra mắt, nhiều nghiên cứu đã khẳng định vị trí của Lưu Quang Vũ trong nền thơ Việt Nam Tác giả Bùi Công Hùng nhấn mạnh rằng Lưu Quang Vũ là một trong những nhà thơ trẻ, năng động, có văn hóa và luôn tìm tòi Đặc biệt, bài viết của Vũ Quần Phương với tiêu đề “Đọc thơ Lưu Quang Vũ” đã có những phân tích sâu sắc, góp phần làm rõ thêm giá trị nghệ thuật của tác phẩm ông.

Quang Vũ đã khẳng định sự phát triển của phong cách thơ Lưu Quang Vũ, cho thấy những vần thơ di cảo của ông là một bước tiến quan trọng trong nghệ thuật Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa kịp nhìn nhận một cách thấu đáo về giá trị của tác phẩm Trong bài viết “Sự kiện Lưu”, Phong Lê đã nêu bật những điểm nổi bật của phong cách thơ này.

Quang Vũ khẳng định rằng sự sống của thơ Lưu Quang Vũ là “một sự sống khác vẫn ẩn ngầm, bỗng trỗi dần lên.” Những tác phẩm của Bích Thu được coi là “những bài thơ sống với thời gian,” trong khi đó, thơ của Huỳnh Nh lại mang “những vần thơ thấm đẫm băn khoăn.”

Trong tác phẩm "Thơ Xuân Quỳnh, thơ Lưu Quang Vũ" của Ngô Văn Phú, cũng như nhiều nghiên cứu khác, người ta nhận thấy rằng điều còn lại bền vững và vang vọng nhất trong thơ Lưu Quang Vũ chính là một tâm hồn thơ sâu sắc.

Hành trình sáng tạo thơ ca của Lưu Quang Vũ đầy những cuộc gặp gỡ ý nghĩa Phần "Lưu Quang Vũ - người trong cõi nhớ" trong cuốn sách khắc họa sâu sắc những kỷ niệm và dấu ấn của ông.

"Lưu Quang Vũ - Tài năng và lao động nghệ thuật" cung cấp những gợi ý quan trọng để khám phá sâu sắc đời sống nội tâm của nhân vật trữ tình trong thơ của ông Tác phẩm này tập hợp những chia sẻ và nhận định quý giá từ người thân và bạn bè, phản ánh nỗi đau mất mát và thực tế khắc nghiệt mà nghệ sĩ đa tài này phải đối mặt Để hiểu rõ hơn về cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ, việc khám phá cái tôi của nhà thơ là điều không thể thiếu.

Lưu Quang Vũ được coi là một trong những tác giả thành công nhất trong thể loại thơ tình, với những vần thơ chân thật và đầy nỗi xót xa, phản ánh cuộc sống nhiều trắc trở của bản thân Bài viết "Tình yêu - đau xót và hi vọng" của ông khắc họa sâu sắc những cảm xúc phức tạp trong tình yêu, từ nỗi đau đến hy vọng, tạo nên một bức tranh sinh động về tâm hồn con người.

Khánh Thơ nhạy bén và chia sẻ nỗi mất mát của Quang Vũ, cho rằng trong cuộc đời đầy gian truân, mỗi giai đoạn đều có một tình yêu lớn Dù tình yêu mang đến có thể để lại vết thương hay nỗi đau kéo dài, Quang Vũ tin rằng sự trọn vẹn của cuộc sống nằm ở việc tìm thấy tình yêu, mặc dù tình yêu ấy không nhất thiết phải ở lại mãi mãi.

[52, 54] Cũng cảm nhận sâu sắc tiếng thơ tình yêu của L-u Quang Vũ, trong

Trong bài viết "Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ, tình yêu và số phận", tác giả Phong Lê thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc về niềm hạnh phúc và nỗi đau mà những người sáng tạo đã trải qua trong thơ ca Nguyễn Thị Minh Thái, trong tác phẩm "Thơ tình Lưu Quang Vũ", cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tình yêu trong sáng tác của Lưu Quang Vũ.

Thơ ca của Lưu Quang Vũ thể hiện sự biết ơn sâu sắc và những trải nghiệm cá nhân của tâm hồn ông đối với cuộc sống Bài viết "Nhà thơ Lưu Quang Vũ: Tháng ngày lận đận" của tác giả Vũ Từ Trang gần đây một lần nữa khẳng định giá trị nghệ thuật và tâm tư của nhà thơ này.

Đối t-ợng, phạm vi nghiên cứu

Trong luận văn này, cái tôi được xem là yếu tố chủ quan và là nền tảng tạo nên nội dung trữ tình Nó không chỉ là hạt nhân tổ chức các yếu tố như đề tài, cảm hứng, tứ thơ, giọng điệu và ngôn ngữ, mà còn giúp bộc lộ những đặc điểm nổi bật trong thơ Lưu Quang Vũ Bài viết sẽ đi sâu vào nghiên cứu các phương diện nghệ thuật tiêu biểu, từ đó làm rõ cái tôi trữ tình trong tác phẩm của ông.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc khảo sát toàn bộ thơ của Lưu Quang Vũ, bao gồm các tác phẩm nổi bật như “Hương cây” (1968), “Mây trắng của đời tôi” (1989), “Bầy ong trong đêm sâu” (1993), cùng với nhiều bài thơ trong sách “Lưu Quang Vũ – thơ và đời” và các tuyển tập khác, cũng như những bài thơ được đăng báo.

Ph-ơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi phối hợp những ph-ơng pháp sau:

Phương pháp hệ thống được áp dụng để phân tích các bài thơ và tập thơ của Lưu Quang Vũ, nhằm đưa những yếu tố khảo sát vào một chỉnh thể nghiên cứu thống nhất Qua đó, chúng ta có thể rút ra những vấn đề khái quát về diện mạo nghệ thuật thơ ca của Lưu Quang Vũ.

Phương pháp so sánh là một công cụ quan trọng giúp người nghiên cứu nhận diện những nét độc đáo trong phong cách thơ của Lưu Quang Vũ so với các tác giả cùng thời Qua đó, phương pháp này cũng làm nổi bật sự giao thoa giữa Lưu Quang Vũ và những người bạn thơ trong việc khám phá các vấn đề của cuộc sống và con người.

Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để làm nổi bật những đặc điểm độc đáo trong thơ Lưu Quang Vũ, từ đó tái hiện chân dung của nhà thơ và khẳng định phong cách sáng tác của ông.

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số ph-ơng pháp bổ trợ khác nh- ph-ơng pháp thống kê, ph-ơng pháp phân tích tác phẩm

Mục đích của luận văn

Luân văn này khẳng định Lưu Quang Vũ là một nhà thơ tài hoa, dù còn nhiều tâm sức nhưng đã ra đi quá sớm.

Vũ thể hiện tài năng nghệ thuật của mình qua những bài thơ đầy cá tính sáng tạo, với giọng thơ nồng nàn, thâm trầm và tâm hồn sâu sắc Ông khẳng định vị thế của một nhà thơ độc đáo, mang đậm cảm xúc và suy tư.

Lu Quang Vũ là một nhà thơ có phong cách riêng biệt, không lẫn vào các phong cách thơ tài hoa phổ biến trong thời kỳ chống Mỹ Luận văn khẳng định rằng những đóng góp của ông là không thể thiếu trong sự thành công của nền thơ chống Mỹ Cùng với đội ngũ sáng tác trẻ, Lu Quang Vũ đã làm phong phú thêm diện mạo của thơ ca Việt Nam bằng những tác phẩm đậm chất thơ của mình.

Lưu Quang Vũ không chỉ nổi tiếng với vai trò là một kịch gia mà còn là một nhà thơ có chiều sâu nội cảm Chúng tôi mong muốn mang đến một ấn tượng mới về Lưu Quang Vũ trong tâm thức người đọc, khẳng định sự đa dạng và phong phú trong sáng tác của ông.

Thơ Lưu Quang Vũ vẫn giữ được sức sống bền bỉ và sự mới mẻ trong nền thơ Việt Nam hiện đại, cho thấy tầm ảnh hưởng sâu rộng của ông đối với văn học đương đại.

Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có 3 ch-ơng:

Ch-ơng 1 Về cỏi tụi trữ tỡnh trong thơ và hành trỡnh sỏng tạo của Lưu Quang Vũ

Ch-ơng 2 Một cỏi tụi trữ tỡnh độc đỏo và đa diện

Ch-ơng 3 Những phương thức nghệ thuật biểu hiện cỏi tụi trữ tỡnh trong thơ Lưu Quang Vũ.

NỘI DUNG CHƯƠNG 1 VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA LƯU QUANG VŨ

PHẠM TRÙ CÁI TÔI TRỮ TÌNH

Cái tôi là gì và vai trò của nó trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể? Từ thời cổ đại, nhiều nhà khoa học và triết gia đã tìm kiếm câu trả lời cho vấn đề này Ý thức về cá nhân và cái tôi chỉ thực sự được khẳng định khi con người thoát khỏi sự chi phối của tôn giáo Nhận thức duy lý về cái tôi đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của nhân loại Qua quá trình lịch sử, cái tôi dần hình thành và khẳng định tính độc lập, trở thành chủ thể tư duy và nhận thức thế giới Khái niệm cái tôi được hình thành từ một quá trình dài, mang tính phức tạp và đôi khi bí ẩn, với nội hàm rộng lớn khiến việc xác định ý nghĩa và định nghĩa hoàn chỉnh của nó trở nên khó khăn.

Các triết thuyết tôn giáo: Cơ đốc giáo, Phật giáo, Nho giáo … về cơ bản

Nhiều học giả không thừa nhận cái tôi cá nhân, hoặc nếu có thừa nhận thì cuối cùng lại quay về những quan niệm siêu hình, duy tâm và thần bí, dẫn đến việc xoá bỏ cái tôi.

Các học thuyết tôn giáo đều hướng con người đến đấng tối cao và yêu cầu mỗi cá nhân phải có nghị lực phi thường để vượt qua cái tôi của mình Để chế ngự và quên đi cái tôi, con người cần nhận thức rõ ràng về bản thân Mặc dù tôn giáo chủ trương diệt ngã và xoá bỏ cái tôi cá nhân, nhưng thực tế lại thừa nhận sự tồn tại của cái tôi trong mỗi người Trong khi cuộc sống của con người thường khẳng định cái tôi, tôn giáo lại theo đuổi mục tiêu trái ngược là xóa bỏ nó.

Các triết thuyết duy tâm chú trọng đến cái tôi, với các triết gia như Đêcactơ, Phichtê, Cantơ, Hêghen, Becxông, và Phơrơt đã giải thích cái tôi như là căn nguyên có tính chất quan niệm Đêcactơ, với định nghĩa nổi tiếng “Tôi tư duy vậy là tôi tồn tại”, khẳng định rằng cái tôi là thực thể biết tư duy, đóng vai trò quan trọng trong nhận thức duy lý và khẳng định tính độc lập của nó.

Cantơ (1724-1804] cho rằng: Cái tôi bao gồm hai phương diện:

Cái tôi đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tư duy và nhận thức về thế giới, đồng thời cũng là đối tượng của chính quá trình nhận thức đó.

Theo Kant, cái tôi khởi nguồn từ sự tự kỷ ý thức và chính bản thân nó là đối tượng để khám phá và tìm hiểu Đây là một bước tiến quan trọng trong quan niệm về cái tôi.

Hêghen (1770-1831) coi cái tôi như sự tha hóa của "ý niệm tuyệt đối" và nhấn mạnh vai trò quan trọng của nó Cái tôi được xem là trung tâm của tồn tại, có khả năng, khát vọng và sức mạnh để thể hiện bản thân trong thực tế Tất cả mọi thứ đều tồn tại nhờ cái tôi, và cái tôi có khả năng chi phối toàn bộ sự tồn tại cũng như diện mạo của thế giới.

Các nhà triết học cổ điển Đức như Kant và Hegel đã có những đóng góp quan trọng không chỉ cho triết học mà còn cho nghiên cứu văn học nghệ thuật, đặc biệt là trong việc khẳng định vai trò to lớn của chủ thể sáng tạo.

Becxông (1859-1941) phân chia con người thành hai phần: “cái tôi bề mặt” và “cái tôi bề sâu” Ông cho rằng chỉ có “cái tôi bề sâu”, nằm trong sâu thẳm của ý thức, mới là đối tượng thực sự của nghệ thuật.

Phơrơt (1856-1939) coi cái tôi là sự hiện diện động cơ bên trong của ý thức con người Cái tôi là trung tâm của ý thức [40,553], [24,198-203]

Cái tôi là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực đời sống tinh thần, liên quan trực tiếp đến cấu trúc nhân cách Các nhà tâm lý học đã phân tích sâu sắc về cái tôi qua nhiều trường phái, bao gồm phân tâm học của Freud, thuyết hiện sinh của Husserl và Sartre, cũng như thuyết phát triển trí tuệ của J Piaget Ngoài ra, các công trình lý luận về nhân cách của các nhà tâm lý học Mác xít như A.N Léonchiep cũng đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về khái niệm này.

A.G.Côvaliôp… đều coi cái tôi là yếu tố cơ bản nhất, quan trọng nhất cấu thành ý thức, nhân cách Đáng chú ý nhất là quan niệm của hai nhà tâm lý học: A.G.Xpirkin và A.N.Lêonchiep Trong Triết học xã hội A.G.Xpirkin đã nêu lên:

Cái tôi là cấu trúc tự giác và tự ý thức của nhân cách, đóng vai trò trung tâm tinh thần, điều chỉnh và dự báo các yếu tố như động cơ, niềm tin, lợi ích và thế giới quan Nó là nền tảng hình thành tình cảm xã hội, ý thức về phẩm giá, nghĩa vụ, trách nhiệm, nguyên tắc đạo đức và xác định cá tính độc đáo của mỗi người.

A.N.Lêonchiep cũng bàn nhiều đến nhân cách, trong đó có vấn đề con người tự ý thức mình là một nhân cách Theo A.N.Lêonchiep: “ý thức về cái tôi, là kết quả, là sản phẩm sinh thành của một con người với tư cách là một nhân cách Cái tôi của con người như đan quyện vào hệ thống tổng quát của những mối quan hệ giữa con người và xã hội” [18]

Dựa trên những thành tựu khoa học về con người, đặc biệt trong lĩnh vực triết học và tâm lý học, triết học Mác đã đưa ra một định nghĩa toàn diện về cái tôi Cái tôi được xem là trung tâm tinh thần của con người, thể hiện cá tính và có mối quan hệ tích cực với thế giới xung quanh cũng như với chính bản thân Nó không chỉ phản ánh khả năng thể hiện tính chủ động mà còn khẳng định sự tồn tại độc đáo của mỗi cá nhân.

Cái tôi là trung tâm tinh thần và cá tính của con người, hình thành và phát triển qua quá trình sống, không phải do một đấng siêu nhiên nào định đoạt Nó có mối quan hệ tích cực với thế giới và bản thân, thể hiện bản chất xã hội gắn bó với hoàn cảnh và tính cá nhân độc đáo Cấu trúc của cái tôi bao gồm hai phần: cái cá nhân và cái xã hội, hòa hợp như một hợp chất hữu cơ, không phải là sự cộng gộp hay gắn kết máy móc Do đó, không thể có cái tôi hoàn toàn duy lý hay thụ động; chỉ những con người độc lập, kiểm soát hành vi và thể hiện tính chủ động mới có thể sở hữu cái tôi của mình.

CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRỮ TÌNH

Thơ trữ tình là thể loại thơ phản ánh trực tiếp cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc nhân vật trữ tình trước các hiện tượng đời sống Đặc điểm nổi bật của thơ trữ tình là tính cá thể hóa cảm nghĩ và sự chủ quan trong cách thể hiện Được ví như tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng truyền tải những biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm, từ các cung bậc tình cảm đến những chính kiến và tư tưởng triết học.

Thơ trữ tình được hiểu là một hình thức nghệ thuật phản ánh thế giới, bao gồm cả thế giới chủ quan và khách quan, theo cách chủ quan và biểu hiện trực tiếp Các quan điểm từ nhiều nhà thơ và nhà phê bình như Viên Mai, Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát, Hêghn, và Biêlinxki đều nhấn mạnh rằng thế giới khách quan rất phong phú và phức tạp, bao gồm những biến thái trong tự nhiên, lịch sử và xã hội Trong khi đó, thế giới chủ quan lại phong phú hơn gấp nhiều lần với những khía cạnh tinh thần như tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ và trải nghiệm Thơ trữ tình không ngừng khám phá những bí ẩn của cuộc sống, đặc biệt là đời sống tinh thần của con người.

Thơ trữ tình là công cụ giúp con người khẳng định bản chất tinh thần của mình so với tồn tại vật chất, xây dựng hình tượng bản thân và xác định ý chí, lập trường giá trị trước cuộc sống Nó cũng tạo ra một thế giới tinh thần phong phú cho con người Cái tôi trữ tình gắn liền với tính trữ tình và tính chủ thể, mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về nó Vũ Tuấn Anh cho rằng cái tôi trữ tình là sự tự ý thức của cái tôi được thể hiện qua nghệ thuật, trong khi Lê Lưu Oanh cũng đưa ra những quan điểm riêng về khái niệm này.

Cái tôi trữ tình đại diện cho thế giới chủ quan và tinh thần của con người, được thể hiện qua các tác phẩm thơ trữ tình.

Cái tôi trữ tình là nội dung, đối tượng và bản chất của tác phẩm trữ tình, như Hêghen đã nhấn mạnh vai trò của chủ thể trong thơ Ông cho rằng chủ thể là nguồn gốc và điểm tựa của thơ trữ tình, chính là cái tôi trữ tình, thể hiện cách cảm, cách nghĩ và đóng vai trò sáng tạo trong nghệ thuật Cái tôi trữ tình không chỉ là nội dung duy nhất mà còn là cơ sở vững chắc của thơ Biêlixki nhận định rằng toàn bộ hiện thực có thể trở thành nội dung của thơ trữ tình nếu nó trở thành sở hữu của chủ thể Những quan niệm cho rằng thơ bắt nguồn từ tình cảm, tâm hồn và cảm xúc đều khẳng định bản chất chủ quan của thơ trữ tình và vị thế của cái tôi trữ tình trong thơ.

[4], [41] Chúng tôi tán thành quan điểm về cái tôi trữ tình của các nhà nghiên cứu đã nêu trên

Thơ trữ tình phản ánh sự rung động của cái tôi cá nhân, mang số phận và cá tính riêng trong những tình huống cụ thể Sự khác biệt giữa các thời đại thi ca chủ yếu nằm ở quan niệm về cái tôi và cách biểu hiện của nó Thế giới của cái tôi trữ tình là đa dạng và phong phú, do đó, ý thức về cái tôi và sự phát triển của nó là nền tảng quan trọng cho sự phát triển của thơ Tóm lại, cái tôi trữ tình không chỉ là khởi đầu mà còn là kết thúc của quá trình sáng tạo thơ, đóng vai trò như linh hồn của thể loại này.

2.2 Nhà thơ và cái tôi trữ tình trong thơ

Cái tôi trữ tình đóng vai trò quan trọng trong thơ, thể hiện mối liên hệ giữa chủ thể và khách thể qua các thời đại Nó mang tính chủ quan, cá nhân và xã hội, với sự tự ý thức sâu sắc giúp tạo nên những tác phẩm đặc sắc Cái tôi trữ tình không hoàn toàn trùng khít với cái tôi nhà thơ, mà là sự phản ánh đời sống tinh thần và tư duy nghệ thuật của họ Đây là phiên bản chọn lọc, kết tinh từ những suy tư, cảm xúc và trải nghiệm của nhà thơ, nơi mà cuộc đời thi sĩ gắn liền với thơ ca, với nhà thơ là nhân vật chính, trung tâm trong sáng tác của mình, phản ánh những sự kiện và tâm tình trong cuộc sống riêng.

Viên Mai nhấn mạnh rằng mỗi nhà thơ đều mang trong mình một thân phận riêng, tạo nên phong cách độc đáo và cá tính trong thơ ca Hàn Mặc Tử cũng cho rằng “Người thơ phong vận như thơ ấy”, cho thấy rằng cái tôi trữ tình chính là yếu tố quyết định sự khác biệt trong phong cách sáng tác Phong trào Thơ Mới đã thể hiện rõ điều này, khẳng định sự đa dạng và sáng tạo trong thơ ca Việt Nam.

Thời đại thi ca từ 1932 đến 1945 nổi bật với những cái tôi trữ tình đa dạng Thơ Nguyễn Nhược Pháp thể hiện sự trong sáng và nụ cười duyên dáng, trong khi thơ Huy Thông mang đậm tinh thần hào hùng và tráng khí Thơ Nguyễn Bính lại gợi lên vẻ đẹp chân quê mộc mạc Đặc biệt, Chế Lan Viên như được sinh ra từ nguồn nước “Sông Linh”, thể hiện nỗi đau thương qua những vần thơ trong tác phẩm Điêu tàn, như tiếng gọi hồn khóc than cho quê hương Chiêm.

Thơ Hàn Mặc Tử thể hiện sự xưng tội, sám hối và cầu nguyện giữa thực tại và hư ảo, với những khoảnh khắc trong trẻo và những lúc cuồng điên Huy Cận mang đến nỗi buồn thương qua từng câu thơ, trong khi Xuân Diệu luôn khao khát giao cảm với cuộc đời, dù thực tại lại tỏ ra vô tình, khiến trái tim yêu thơ trở nên cô đơn Sự khác biệt trong phong cách thơ phản ánh cái tôi trữ tình và bản chất cá nhân độc đáo của từng nhà thơ Cái tôi nhà thơ không phải là một thực thể cố định, mà biến đổi theo thời gian và bối cảnh lịch sử Các nhà Thơ Mới đã trải qua một cuộc "lột xác" để từ "chân trời của một người" vươn tới "chân trời của mọi người" Mặc dù cái tôi trữ tình có sự thay đổi phong phú, nhưng vẫn tồn tại một cái tôi nhà thơ chung thuỷ và nhất quán trong bản chất của nó.

Cái tôi nhà thơ và cái tôi trữ tình trong thơ tuy không hoàn toàn đồng nhất nhưng lại thống nhất một cách rõ rệt Cái tôi trữ tình không phải là cái tôi của nhà thơ trong đời thường, mà là cái tôi đã được nghệ thuật hoá Sự thống nhất này được thể hiện rõ trong thơ của nhiều tác giả như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Phan Bội Châu và Tố Hữu Thơ Nguyễn Trãi phản ánh khí tiết thanh cao, tâm huyết vì nước, vì dân, trong khi thơ Hồ Xuân Hương thể hiện một cái tôi đầy khao khát hạnh phúc nhưng luôn lận đận Cái tôi của Hồ Xuân Hương vừa táo bạo, mạnh mẽ, vừa đằm thắm, thể hiện sự lên án những giá trị đạo đức giả và bênh vực quyền sống của phụ nữ Thơ Phan Bội Châu mang đậm tinh thần yêu nước, gắn liền với cuộc đời chiến sĩ cách mạng, còn với Tố Hữu, nhà thơ và cuộc đời cách mạng trở thành một thể thống nhất.

Từ lý luận về thơ trữ tình, chúng ta nhận thấy sự biểu hiện của cái tôi trữ tình rất đa dạng và phong phú Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã chỉ ra nhiều dạng thức bộc lộ của cái tôi trữ tình trong thơ, cho thấy sự phong phú trong cách thể hiện cảm xúc và tâm tư của nhà thơ.

Dạng trực tiếp của tình cảm riêng tư thường phản ánh câu chuyện, cảnh ngộ và sự kiện liên quan đến cuộc đời của người viết Trong những trường hợp này, cái tôi trữ tình thường gần gũi hoặc chính là cái tôi của tác giả, thể hiện qua việc sử dụng trực tiếp đại từ “tôi” như trong câu: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ” (Tố Hữu), hoặc đại từ “ta” như trong câu: “Huế ơi, quê mẹ của ta ơi!” (Tố Hữu).

Chữ “ta” không chỉ đơn thuần là bản thân người viết mà còn bao hàm mối quan hệ với anh em, đồng chí và bạn bè Câu thơ “Ta nắm tay nhau xây lại đời ta” của Tố Hữu thể hiện tinh thần đoàn kết và khát vọng cùng nhau xây dựng tương lai.

Cái tôi trữ tình trong thơ thường thể hiện rõ ràng khi tác giả viết về chính mình và các mối quan hệ cá nhân Trong những trường hợp này, cái tôi tác giả trở thành hình ảnh phổ biến, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn về tâm tư và cảm xúc của nhà thơ.

Hành trình sáng tạo và đặc điểm cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ

Giai đoạn đầu sáng tác của Lưu Quang Vũ diễn ra từ những ngày đầu cầm bút cho đến trước khi chiến tranh bùng nổ ở miền Bắc, đánh dấu những đổ vỡ trong tâm hồn của nhà thơ Trong giai đoạn này, ông đã cho ra đời khoảng 20 bài thơ, được in chung trong một tập.

Bài thơ "Hương cây - Bếp lửa" của Bằng Việt thuộc về thế hệ trẻ trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, thể hiện cái tôi mơ mộng và cảm xúc tươi sáng, giàu lòng tin, mặc dù vẫn chịu ảnh hưởng từ sách vở Cái tôi trong thơ ca giai đoạn này hài hòa giữa cái riêng và cái chung, hướng về ba đối tượng chính: Mẹ, Em và Quê hương, phản ánh sâu sắc tình yêu đất nước.

Vũ đã phát triển một phong cách thơ trẻ trung và sôi nổi, thể hiện tâm hồn đầy mê đắm và niềm yêu đời, yêu cuộc sống.

Trong bối cảnh thơ cách mạng ưu tiên sự tỉnh táo và mạnh mẽ, sự xuất hiện của Lưu Quang Vũ là một hiện tượng nổi bật Tuy nhiên, nghệ sĩ không thể để sự sáng tạo của mình bị giới hạn bởi những lời khen Từ năm 1970, Lưu Quang Vũ đã thể hiện rõ rệt sự chuyển biến trong tư duy sáng tạo, nỗ lực tìm kiếm con đường mới và lột xác trong nhận thức nghệ thuật.

Giai đoạn 1963 – 1970 đánh dấu sự chuyển mình của cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ từ mơ mộng và lý tưởng hóa hiện thực đến việc lựa chọn một thế giới nghệ thuật chân thực và dữ dội hơn Sự thay đổi này thể hiện qua cách ứng xử mới, đó là dấn thân vào cuộc sống lao động và trải nghiệm Năm 1970 trở thành năm bản lề, mở ra con đường cho sự phát triển đa chiều và sâu sắc của cái tôi trong giai đoạn tiếp theo.

3.2 Giai đoạn 1971 – 1973 Đây là giai đoạn “gian khó, cô đơn đến cùng cực” trong đời người đời thơ Lưu Quang Vũ Những biến động trong cuộc sống chung – riêng đã tạo nên một diện mạo hoàn toàn mới cho thơ anh với những vần thơ “viển vông cay đắng u buồn” Thế nhưng, từ đáy sâu nỗi buồn và sự tuyệt vọng thơ Lưu Quang

Vũ vẫn rực cháy một niềm tin, một khát vọng không thể dập tắt Nó làm nên kiểu cấu trúc hai mặt trong thơ: Tuyệt vọng – hy vọng

Cái tôi trữ tình trong giai đoạn này thể hiện sự kết hợp giữa cái tôi thế sự và cái tôi đời tư, vừa đắm đuối trong cảm xúc, vừa nhạy bén trong cảm nhận về cuộc sống Đồng thời, nó thúc đẩy những suy nghĩ tỉnh thức, tạo nên một cái tôi cô đơn, khắc khoải về thân phận, trung thực và mãnh liệt trong nỗi đau.

Kể từ khi gặp Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ đã tìm lại được con đường và mục đích sống, không còn là cái tôi hoang mang như trước Tình yêu trở thành cứu cánh cho anh, vượt lên trên một tình yêu thông thường, định hình lại hướng đi trong cuộc đời Cái tôi của anh đã trở lại với niềm say mê và hạnh phúc trong đời thường Thơ của anh tiếp tục viết về tình yêu, nhưng không còn mơ mộng hay tuyệt vọng như trước, mà trở nên da diết và ân tình hơn.

Vũ không chỉ đắm chìm trong tình yêu mà còn thể hiện niềm đam mê sâu sắc đối với nhân dân và đất nước Các tác phẩm của Lưu Quang Vũ trong giai đoạn này chủ yếu được tập hợp trong tập thơ "Mây trắng của đời tôi" (1989).

Hành trình sáng tạo thơ ca của Lưu Quang Vũ từ những ngày đầu cầm bút đến khi chia tay độc giả thể hiện rõ cái tôi đặc trưng trong tác phẩm của ông Những bài thơ của Lưu Quang Vũ không chỉ phản ánh tâm tư, tình cảm mà còn khắc họa sâu sắc những trăn trở về cuộc sống và con người Qua từng giai đoạn sáng tác, cái tôi trong thơ của ông ngày càng được bộc lộ mạnh mẽ, tạo nên dấu ấn riêng biệt trong nền văn học Việt Nam.

Vũ trải qua một quá trình phát triển phức tạp, từ mơ mộng đến tỉnh thức và chiêm nghiệm Hành trình của anh bao gồm niềm vui bồng bột, nỗi cô đơn khắc khoải, và tạm dừng để tìm kiếm hạnh phúc đời thường Trong những thăng trầm này, cái tôi của Vũ vẫn giữ những nét đặc sắc, tạo nên hồn thơ riêng biệt của Lưu Quang.

Vũ thể hiện cái tôi tinh tế và phóng túng, với sự trung thực và mãnh liệt trong việc đánh giá đối tượng Tình yêu của Vũ luôn mang nỗi xót xa, đồng thời thể hiện nỗ lực không ngừng để vượt qua những rào cản.

MỘT CÁI TÔI TRỮ TÌNH ĐỘC ĐÁO VÀ ĐA DIỆN

Cái tôi trong cảm hứng công dân

Thời kỳ Thơ mới chứng kiến sự xuất hiện mạnh mẽ của cái tôi trong văn học, khi mà nhiều tác giả như Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Xuân Diệu đồng loạt thể hiện bản thân qua những tác phẩm đầy cảm xúc Lưu Trọng Lư mang đến hình ảnh thơ mộng của mùa thu, trong khi Hàn Mặc Tử gửi gắm nỗi đau thương và sự gắn bó với trần thế Chế Lan Viên và Xuân Diệu cũng góp phần làm phong phú thêm vườn thơ với những vần thơ tình tứ Tuy nhiên, cái tôi lãng mạn trong Thơ mới dần chìm vào nỗi sầu mộng và cô độc, như Hoài Thanh đã nhận định: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.”

Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ phát triển từ sự bế tắc, chuyển mình từ cái tôi lãng mạn sang cái tôi sử thi của thơ ca cách mạng, thể hiện một tình cảm chung Thơ của ông không chỉ là tiếng nói của thế hệ mà còn là sự tự bạch, đối thoại với những trải nghiệm thực tế Lưu Quang Vũ khắc họa cái tôi thế hệ “trẻ trung, già dặn, hồn nhiên nhưng sâu lắng”, nhưng phong cách thơ của ông chủ yếu thể hiện qua chân dung tự họa, nơi cái tôi cá nhân nhìn thẳng vào lòng mình, điều mà thơ trước 1975 ít thấy.

2.1.1 Cái tôi trong cảm hứng chiến đấu và chiến thắng

Khẩu súng và cây bút, viên đạn và con chữ, thuốc nổ và máu, tất cả hòa quyện trong một mảnh đất đầy tiếng bom đạn và những trang giấy trắng Màu áo lính đối lập với màu áo thi ca, tạo nên một bức tranh sống động về cuộc sống nơi chiến tranh và nghệ thuật.

Lưu Quang Vũ, một nhà thơ từng khoác áo lính, đã khéo léo khai thác những chất liệu sáng tác từ những điều tưởng chừng như trái ngược nhưng lại rất đồng nhất Tác phẩm của ông phản ánh sâu sắc những mâu thuẫn trong cuộc sống, thể hiện sự hòa quyện giữa chiến tranh và hòa bình, đau thương và hy vọng.

“Hương cây” đến trang viết cuối cùng, dân tộc luôn là nguồn cảm hứng đ-ợm nồng bền chắc nhất của đời thơ L-u Quang Vũ

Ngay từ những bài thơ đầu tiên, chúng ta đã cảm nhận đ-ợc thơ L-u Quang

Vũ thể hiện tâm tư của một thế hệ trẻ tình nguyện cầm súng ra trận, với những vần thơ phản ánh hơi thở của thời đại mới từ một chàng trai đầy nhiệt huyết.

“bứt khỏi vòng tay yêu thương của gia đình” [51,210] b-ớc vào đời lính Cái tôi trữ tình hăm hở, náo nức hòa b-ớc cùng đất n-ớc hành quân:

Làm kẻ sinh sau giữa đời rộng mở Mang khối căm hờn ngày tr-ớc ch-a tan Hờn căm mới lại chồng lên nợ cũ

Lửa cháy bom rơi ta lại lên đ-ờng

Thế hệ nhà thơ cách mạng gắn bó sâu sắc với hiện thực, thể hiện cái tôi qua tự bạch và đối thoại với các thế hệ khác Họ mang trong mình nhiệt huyết và những trải nghiệm từ đời lính, như Lưu Quang Vũ với những kỷ niệm về mùa chiến dịch và những địa danh quen thuộc Quê hương hiện lên trong tâm trí họ với vẻ đẹp tươi sáng, phản ánh hình hài đất nước trong cái nhìn lạc quan, chưa bị vướng vào nghịch cảnh Tình yêu quê hương được thể hiện rõ nét qua những câu thơ, như trong tác phẩm "Chưa bao giờ yêu Hà Nội như hôm nay".

Lưu Quang Vũ, người lính từ trường học đến chiến trường chống Mỹ, mang trong mình tâm tư đầy nỗi nhớ quê hương yên bình Ông thể hiện cái tôi nhạy cảm với thiên nhiên qua hương lá bưởi, tiếng chim chiều trong trẻo và hình ảnh quê hương giản dị Trong ba lô của mỗi người lính, luôn có một góc nhỏ chứa đựng những kỷ niệm êm đềm và bình dị như vậy.

Giữa bối cảnh chiến tranh khốc liệt, thơ của Anh Ngọc và Phan Thị Thanh Nhàn mang đến những hình ảnh dịu dàng, như cành cây xấu hổ và hương hoa bưởi, giúp xoa dịu nỗi đau của người lính Lưu Quang Vũ, với những vần thơ đầy nỗi nhớ và cảm xúc, thể hiện sự luyến tiếc trong những đêm hành quân Ông không chỉ ghi lại những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ mà còn phản ánh sâu sắc tâm tư của con người trong cuộc sống Đến những năm 70, Lưu Quang Vũ đã phát triển nhận thức của mình, từ việc miêu tả hiện thực chiến tranh đến việc thể hiện nỗi trăn trở về dân tộc qua lăng kính đời sống Sự chín muồi trong tư tưởng và những biến chuyển phức tạp của xã hội đã khiến ông dám nói lên những điều sâu sắc trong các tác phẩm về quê hương.

Lưu Quang Vũ mang đến một cái nhìn mới mẻ trong thơ ca Việt Nam với những tác phẩm như “Việt Nam ơi”, “Giấc mộng đêm”, “Đất nước đàn bầu”, thể hiện sự chuyển mình từ lý tưởng cách mạng sang những cảm xúc sâu sắc hơn Thơ ông phản ánh quá trình trưởng thành từ cảm hứng lãng mạn đến sự trải nghiệm tĩnh lặng, với mong muốn tìm kiếm một tiếng nói chân thực và sâu sắc, từ chối những hình thức hoa mỹ và sáo rỗng Tác phẩm của ông không chỉ đơn thuần là cảm xúc mà còn là sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và lý trí, cho thấy chiều sâu nhận thức và những trăn trở về cuộc sống Đối với Lưu Quang Vũ, nghệ thuật là một phần của cuộc sống, luôn biến đổi và không bao giờ tĩnh tại.

Những điều hôm qua t-ởng tuyệt vời và tốt đẹp Đến nay thành không đủ nữa rồi

(Viết lại một bài thơ Hà Nội)

Cái tôi đau xót khi hình ảnh dân tộc hiện lên với những áo quần rách rưới, hàng cây đắm mình trong bóng tối, và chiều mờ sương le lói đèn dầu Đất nước như trở mình khó nhọc dưới con mắt hụt hẫng của trái tim nặng trĩu tình quê Lời thơ của Lưu Quang Vũ vang lên với hàng loạt câu hỏi chất vấn, thể hiện nỗi buồn trung hậu mà Hoài Thanh đã đề cập Tác giả tự vấn về khả năng sống nếu xa quê hương Trong nhật ký đêm 1972, Lưu Quang Vũ ghi lại những gương mặt thảng thốt trước cơn bão đạn, khi mặt đất chao nghiêng và ga xưa sập tan, khiến nhà thơ lặng ngời trước sự tàn phá.

Ngực nghẹn lại không còn khóc được Th-ơng mọi ng-ời cơ cực mấy m-ơi năm Th-ơng ga x-a đã sụp tan tành

Th-ơng những chuyến đ-ờng x-a đã chết

L-u Quang Vũ quả đã nhìn vào bề sâu của chiến tranh Một nhà thơ cách mạng khơi sâu vào nỗi đau của con ng-ời trong chiến tranh cũng là điều cần thiết Để càng yêu th-ơng, càng phải sống, càng bội phần căm thù: Trong hồn tôi những con trăn nổi giận/ Những sừng cao nhọn hoắt của bầy nai/ Nỗi hờn căm của đứa trẻ l-u đày/ Cơn đói khát của những ng-ời bị xích (Bài ca trên bán đảo)

Tình yêu quê hương của nhà thơ Lưu Quang được thể hiện sâu sắc qua tình yêu tiếng mẹ đẻ Bài thơ "Tiếng Việt" có thể được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông, thể hiện lòng tự hào và trân trọng đối với ngôn ngữ dân tộc.

Bài thơ này tôn vinh ngôn ngữ dân tộc và tiếng mẹ đẻ, thể hiện rằng ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn chứa đựng tâm hồn và bản sắc văn hóa của dân tộc Việc ca ngợi ngôn ngữ chính là ca ngợi tâm hồn và giá trị văn hóa của cộng đồng.

Lưu Quang Vũ ca ngợi Tiếng Việt như một không gian cảm xúc, chứng minh sức mạnh biểu đạt tình cảm và lưu giữ hình ảnh của ngôn ngữ này Ông nhận định rằng Tiếng Việt mang tâm hồn dân tộc, nuôi dưỡng con người như cơm gạo nuôi sống Mỗi ngôn ngữ đều có vẻ đẹp riêng, là tài sản thiêng liêng được dân tộc yêu mến và bảo vệ Qua những kỷ niệm cá nhân, Lưu Quang Vũ thể hiện lòng yêu nước và sự gắn bó với tiếng mẹ đẻ, thuyết phục người đọc bằng cảm xúc hơn là lý lẽ ngôn ngữ học.

Không gian tồn tại của tiếng Việt đƣợc vang lên trong những bối cảnh gây xúc động có tính phổ biến với mọi lòng người:

Tiếng mẹ gọi con trong hoàng hôn khói sẫm Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về

Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm, tiếng mẹ gọi con vang lên giữa không gian thôn quê lúc chiều tà, nơi có khói cơm bay lên và chim về tổ Hình ảnh những người làm đồng trở về nhà tạo nên không khí đoàn tụ ấm áp, gợi nhớ những kỷ niệm thân thương Cảnh vật trong thơ hiện lên với con nghé nhỏ và tiếng gió thổi qua cau tre xạc xào, mang lại cảm xúc sâu lắng cho lòng người.

Cái tôi trong đời sống riờng tƣ

Bên cạnh nguồn cảm hứng dân tộc, một phần không nhỏ thơ L-u Quang

Vũ lấy cuộc sống thường nhật làm nguồn cảm hứng sáng tác, đặc biệt trong thơ tình, nơi ông cày xới nhiều nhất Là nhà thơ có tư duy hướng nội sâu sắc, Lưu Quang Vũ không chỉ dừng lại ở tình yêu mà còn đối mặt với nhiều khía cạnh khác của cuộc sống Ông dành một phần bút lực để phản ánh tình cảm gia đình, tình bạn và những trăn trở về số phận mong manh của con người.

Người mẹ tảo tần, với khả năng “nhìn thấu tận đường xa,” trở thành nguồn cảm hứng ngọt ngào cho thi sĩ, thể hiện tình thương mẹ qua những câu thơ về đời thường và cảm hứng dân tộc Trên mỗi con đường mà nhà thơ đã hành quân, hình bóng mẹ luôn hiện diện Đối với thế hệ thơ thời chống Mỹ, tình mẹ đã tạo nên vô vàn thi phẩm Trong thơ Lưu Quang Vũ, mẹ là hiện thân của sự thật thà và vĩnh cửu, như trong câu thơ: “Mọi giả dối quanh co mọi tàn bạo hận thù/ Đều nát vụn trước mắt hiền của mẹ.” Ông cũng thể hiện nỗi dằn vặt khi nhớ về mẹ qua những dòng thơ thể hiện sự vô tâm của bản thân: “Ngày ấy hay mơ lắm sắc biển xa/ Ta chưa biết trong ta có sóng cồn giận dữ.” Dù có lúc cảm thấy đơn độc, ông vẫn chôn chặt nỗi niềm trong lòng, thể hiện sự cô đơn ngay cả khi bên mẹ.

Lưu Quang Vũ trải qua nỗi đau sâu sắc khi viết về cha, khi ông phải đối diện với sự ra đi vĩnh viễn của người thân Nỗi đau này không chỉ là mất mát cá nhân mà còn là sự chất vấn triết lý về sự sống và cái chết, thể hiện qua những câu thơ đầy cảm xúc như: "Có lẽ nào/ Khi cánh cửa cuối cùng khép lại/ Chẳng còn gì ngoài cõi hư vô?" (Buổi chiều ấy) Dù sáng tác của ông ở thập niên 80 không còn u buồn như những năm 70, nhưng khi đề cập đến số phận con người, cảm xúc và suy nghĩ của ông vẫn trở lại với chiều sâu tâm hồn, gợi nhớ về quá khứ và những trải nghiệm đau thương.

Thơ Lưu Quang Vũ thể hiện một cái tôi sâu sắc trong thiên chức làm cha, nơi ông cảm nhận nhịp sống của hai con người trong trái tim người mẹ Ông ghi lại cảm giác bồi hồi khi sắp gắn bó cuộc đời với một sinh thể bé bỏng, đồng thời thấu hiểu tâm trạng của bạn đời trong những ngày gần sinh Tình yêu và sự chia sẻ trào dâng trong ông khi lần đầu nghe con trở đạp, thể hiện qua những lời thơ đầy cảm xúc: "Em quặn lòng nhưng náo nức yêu thương." Tác giả gửi gắm tình cảm với con thơ qua những lời ru giản dị nhưng ngập tràn yêu thương.

Khi đối diện với con, ông th-ờng giấu đi nỗi đau thật của đời mình, dù đắng cay đến dồn với ông t-ởng v-ợt quá sức chịu đựng:

Con ơi con hãy tha thứ cho cha Cha chẳng thể sống cùng mẹ đ-ợc Đời cha nắng gắt

Mẹ con cần suối mát của đồng vui

Nhà thơ kiên nhẫn giữ nỗi lòng không thành lời, nỗi đau mất tổ ấm càng làm sâu sắc thêm tình cha Những nét khắc khổ vẫn in dấu trên trang giấy Trong các tác phẩm như “Thằng Mớ” và “Buổi chiều đón con”, cái tôi người cha đã không còn bỡ ngỡ Đây là những bài thơ viết từ niềm vui của giai đoạn đời thăng bằng nhất Trước đây, ông lo sợ chiến tranh và sự thiếu vắng tình mẹ, khiến giọng hát ngọng nghịu của con đầu lòng bị tắt ngấm Tuy nhiên, khi Mí (Quỳnh Thơ) ra đời, ông cảm thấy yên tâm hơn khi đứa trẻ lớn lên trong thời hậu chiến, được bảo bọc đầy đủ bởi cha mẹ Tình thương dành cho con giờ đây đã vơi đi phần nào, nhưng khi đối thoại với con cái, thơ ông vẫn mang nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau.

Khi viết về bạn bè, người nghệ sĩ thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với từng mảnh đời riêng biệt: "Tôi không nén nổi yêu thương/ Mỗi lần nhìn các bạn tôi nằm ngủ." Tình cảm này xuất phát từ trái tim biết lắng nghe, cho phép nghệ sĩ hóa thân vào từng nhân vật, giúp họ bày tỏ những điều thầm kín Ngoài ra, tình bạn còn chứa đựng mối tâm giao về văn chương, nghệ thuật và những trăn trở về số phận thơ ca.

Thơ Khánh buồn nh- lòng đất n-ớc Thơ hay thời loạn chẳng đâu dùng V-ờn cũ cây tàn chim chết cả

Ng-ời chơi đàn nguyệt có còn không?

(Đêm đụng chí uống r-ợu với bác Lâm và bác Khánh, nói về những cuộc chia tay thời loạn)

Sau khi "Hương cây", thơ Lưu Quang Vũ chuyển hướng về cuộc sống thường nhật, phản ánh nỗi niềm của một trái tim nhạy cảm với số phận con người Ông thể hiện sự đồng cảm với những kiếp người bất hạnh, như "tuổi thơ không có tuổi thơ" hay "cô gái trở nên suồng sã" Những hình ảnh như "người họa sĩ già mắt buồn ngơ ngác" và "xích lô lầm lụi lên cầu" cho thấy sự trăn trở của tác giả trước cuộc sống Lưu Quang Vũ cũng không quên gửi gắm tình thương cho những điều nhỏ bé, vô tội giữa bão lửa chiến tranh, với những câu thơ đầy cảm xúc như "Có tiếng khóc của con chim gãy cánh" và "Tiếng mưa rơi trên ngọn cỏ yếu mềm" Tất cả tạo nên một bức tranh sinh động về nỗi đau và niềm trăn trở của con người trong cuộc sống.

Thơ Lưu Quang Vũ ngày càng trở nên sâu sắc và giàu ý nghĩa, phản ánh những suy tư lớn lao từ những hình ảnh cụ thể của cuộc sống thường nhật Ông khái quát rằng để xóa bỏ những rào cản chia rẽ giữa con người, cần phải đối mặt với những vấn đề như đói nghèo và cơ cực Trong tác phẩm "Những tuổi thơ," ta thấy sự u buồn nhân hậu trong ánh mắt ông, thể hiện sự đảo lộn của tình người trong những mảnh đời tuổi thơ đầy khó khăn.

Em gái m-ời lăm đã không còn thiếu nữ

D-ới mái tóc quăn trơ trụi vai gầy

Em đi đâu đêm nay Để lòng tôi se lại

Con người thơ nhiều chiêm nghiệm này không thể tránh khỏi hiện thực, mỗi khi chạm đến nó, lòng ông quặn thắt Chất thơ dường như ngày càng xa rời khuynh hướng hùng tráng của nền thơ Lưu Quang Vũ lặng lẽ trở về với những điều bình thường, trong khi cả dân tộc đang bận rộn với những vấn đề lớn lao và thiết thực, khiến những điều giản dị bị bỏ quên.

2.2.2 Cái tôi trên mảnh đất tình yêu

Theo Hà Minh Đức, cái tôi trữ tình trong thơ thường được thể hiện rõ ràng khi tác giả viết về chính bản thân mình, và trong thơ tình, cái tôi này thường trở nên phổ biến hơn Điều này đặc biệt đúng khi xem xét thế giới thơ tình của Lưu.

Quang Vũ thể hiện những trăn trở sâu sắc của cái tôi trong cõi riêng tư qua thơ tình yêu, phản ánh hồn phách của nhà thơ Trong bức tranh rộng lớn của nền thơ cách mạng, ông khéo léo tạo nên âm hưởng riêng cho tình yêu Với cái tôi nội cảm, Quang Vũ gửi gắm nỗi khắc khoải giữa tình yêu và số phận con người, như hình ảnh con ong bay lận đận giữa trời đêm dài không sao sáng (trích từ "Bầy ong trong đêm sâu").

Lưu Quang Vũ thể hiện một hồn thơ đầy cảm xúc, với những trải nghiệm sâu sắc về tình yêu và cuộc sống Tác giả tìm thấy sự bình yên bên tình yêu đầu đời, nơi cái tôi trăn trở và thổ lộ tình cảm một cách trong sáng Giữa hàng triệu con người, chủ thể nhận ra nửa đời mình, như hình ảnh cây mát trong thành phố, gợi lên cảm giác gần gũi và ấm áp.

Trong triệu ng-ời có em của ta/ Buổi tr-a nắng bầy ong đi kiếm mật/ Vào v-ờn rồi ong chẳng nhớ lối ra (V-ờn trong phố)

Cái tôi trữ tình hòa quyện với cái ta, nhưng bên trong vẫn tồn tại một cái tôi mãnh liệt Trong những câu thơ, ta cảm nhận niềm kiêu hãnh của một trái tim yêu Tình cảm lứa đôi không chỉ là cảm xúc mà còn là hành trang, tiếp thêm sức mạnh cho người chiến sĩ dũng cảm ra trận Tình yêu phảng phất sự dịu dàng và bền bỉ, như một nguồn động lực vững chắc.

V-ờn không níu đ-ợc b-ớc chân trở lại

Nh-ng lá còn che mát suốt đ-ờng anh

Trong các sáng tác đầu tiên, cái tôi của nhà thơ thể hiện sự đằm thắm, ít va chạm và không nhiều trăn trở Con người hạnh phúc khi đặt niềm vui riêng vào tình cảm thiêng liêng Nhà thơ ngân nga giai điệu của tình yêu, hòa quyện với không gian nhỏ bé của đôi ta.

Vào đ-ờng lớn trăm ng-ời đi tấp nập (Những con đ-ờng) Và trong cái t-ởng rất riêng, vẫn chứa đựng cảm xúc về quê h-ơng:

Bàn tay em đang bừng bông huệ trắng ôi bàn tay cầm súng Bàn tay thơm mùi phù sa

Màu sắc yêu thương tràn ngập trong những bài thơ đầu tiên của Lưu Quang Vũ, người mang trong mình khát vọng cất lên khúc quân hành cho cả nước Thơ ông dành cho người vợ trẻ thể hiện sự tình tứ và chân thành Từ tình yêu, ông nhận ra những giá trị nhân văn sâu sắc: "Trao cảm thương hai bàn tay nắm chặt/ Nghe máu mẹ cha chuyển giữa mỗi tay mình" (Hơi ấm bàn tay).

Biểu tƣợng thơ

Biểu tượng là thành phần quan trọng trong thơ ca, nhưng không phải nhà thơ nào cũng sử dụng biểu tượng như một thủ pháp hệ thống Trong thơ Lưu Quang Vũ, nhiều hình ảnh như đất nước, mưa, gió, lửa và các loài hoa được lặp lại, tạo thành một hệ thống biểu tượng đặc sắc và trở thành nỗi ám ảnh trong tác phẩm của ông.

Lưu Quang Vũ không chỉ đơn thuần viết về đất nước mà còn thể hiện sâu sắc nỗi trăn trở của mình về tổ quốc yêu thương, đặc biệt khi quê hương đang phải gánh chịu nhiều khó khăn Trong thơ của ông, hình ảnh đất nước được thể hiện qua nhiều cách gọi khác nhau, từ trang trọng như "Tổ quốc" và "Đất nước", đến khẳng định chủ quyền với "Việt Nam" và "nước Việt", hay gần gũi hơn với "Quê hương", và cả hình ảnh "Dân tộc", "Nhân dân".

Theo thống kê, từ "Đất nước" là cụm từ được Lưu Quang Vũ nhắc đến nhiều nhất, xuất hiện đều đặn trong nhiều giai đoạn thơ của ông Tần số xuất hiện của từ này khác với "Quê hương" và "Tổ quốc," mà chúng tôi sẽ phân tích sau Điều này dễ hiểu, bởi "Đất nước" không chỉ là cách gọi phổ biến, mà còn là chủ đề trung tâm trong nhiều tác phẩm thơ ca của thời kỳ này, với nhiều bài thơ đã trở thành bất tử.

Quê hương là chủ đề nổi bật trong thơ Lưu Quang Vũ, thể hiện sâu sắc nỗi nhớ quê của tác giả Quê hương không chỉ là nơi sinh ra, nơi chôn rau cắt rốn mà còn là nơi lưu giữ những kỷ niệm tuổi thơ quý giá Mùi lá bưởi, lá chanh theo bước chân tác giả, nhắc nhở về những ký ức không thể quên "Mỗi người chỉ một quê hương, nếu ai không nhớ sẽ không lớn nổi thành người," cho thấy tầm quan trọng của quê hương trong cuộc sống mỗi con người.

Dáng quê hương trong cây lá hiền lành

Cây lá nơi này cây lá quê hương

Lá bưởi, lá chanh gợi nhớ về quê hương với những con đường thân thuộc và mảnh vườn xanh tươi Âm thanh của cuộc sống bình dị vang lên như tiếng quê hương, mang lại cảm giác gần gũi và thân thương Lưu Quang Vũ đã khéo léo thể hiện tình yêu và nỗi nhớ về những kỷ niệm tuổi thơ qua hình ảnh quê hương đầy trìu mến.

Tổ quốc là một cách gọi trang trọng và vĩ mô hơn về đất nước Đặc biệt, trong những bài thơ giai đoạn đầu, Lưu Quang Vũ chỉ sử dụng các thuật ngữ như Quê hương và Đất nước, mà không nhắc đến Tổ quốc Chỉ đến những bài thơ mới được xuất bản gần đây trong Di cảo Những bông hoa không chết, thuộc mảng thơ trước đây bị coi là “thơ đen”, Lưu Quang Vũ mới sử dụng thuật ngữ Tổ quốc, thể hiện sự trang trọng và thiêng liêng đối với đất nước.

Tổ quốc là gì, nếu nơi đó không có người mình yêu dấu?

Tình yêu là gì, nếu không vì nó ta yêu thêm Tổ quốc?

(Cho Quỳnh những ngày xa)

Lưu Quang Vũ đã khéo léo so sánh và giải thích mối quan hệ giữa tình yêu cá nhân và tình yêu Tổ quốc, thể hiện sự kết nối giữa cái chung và cái riêng, cái Tôi và cái Chúng ta Trong vở kịch nổi tiếng "Ô Tụi và chỳng ta", anh đã mạnh mẽ phê phán chủ nghĩa cá nhân, quan liêu và cửa quyền đang hoành hành trong xã hội Khát vọng hướng về cái chung ngày càng trở nên mãnh liệt hơn.

Nếu trái đất này là một Tổ quốc mênh mông

(Những thành phố những xứ xa)

Sự chuyển biến trong cách gọi đất nước từ "Quê hương" sang "Tổ quốc" phản ánh sự trưởng thành và tầm nhìn mới của Lưu Quang Vũ Đất nước không còn bị giới hạn trong một thôn xóm hay làng quê, mà trở thành một Tổ quốc rộng lớn, nơi mỗi góc nhỏ đều quen thuộc và gắn bó với tâm hồn của nhà thơ.

Lưu Quang Vũ khẳng định quyền làm chủ của người dân qua việc gọi tên đất nước: Việt Nam, nước Việt Trong thơ của ông, cụm từ “Việt Nam ơi” xuất hiện nhiều lần, thể hiện tình yêu và sự gắn bó với quê hương Đất nước không chỉ là lãnh thổ mà còn là linh hồn dân tộc, được thể hiện qua tiếng Việt – ngôn ngữ của dân tộc Ông cha ta đã luôn nhận thức rằng: "Tiếng Việt còn thì nước ta còn," nhấn mạnh tầm quan trọng của ngôn ngữ trong việc gìn giữ bản sắc dân tộc.

Nhân dân, dân chúng và quần chúng chính là những yếu tố tạo nên đất nước; họ là Dân tộc, những người cùng chung chủng tộc và ngôn ngữ tiếng Việt, sống hòa thuận bên nhau.

Đất nước còn được biết đến qua nhiều cách gọi khác nhau như Nước non, Cả nước, Người, Mẹ hiền, và Nam Bắc Thỉnh thoảng, nó cũng được gọi ngắn gọn chỉ bằng một từ “nước”.

Ta đi giữ nước yêu thương lắm Mỗi xóm thôn qua mỗi nghĩa tình

Nhiều nhà thơ thường sử dụng từ "Người" để thể hiện tình cảm với đất nước, Bác Hồ, hay cha mẹ kính yêu Đối với Lưu Quang Vũ, "Người" có thể đại diện cho Tổ quốc.

Trong thơ Lưu Quang Vũ, hình ảnh đất nước và quê hương không chỉ là những biểu tượng quen thuộc mà còn trở thành những hình tượng đẹp, gây ấn tượng sâu sắc và lay động lòng người yêu thơ và yêu nước.

Lưu Quang Vũ, một thi sĩ nổi bật của thập niên 70, có mối liên hệ sâu sắc với mưa, điều này được phản ánh ngay từ tên gọi của anh, vì "Vũ" trong tiếng Hán và tiếng Việt đều mang nghĩa là mưa Sự gắn bó này còn được thể hiện qua tên của con trai anh, Lưu Minh Vũ Trong thơ của Lưu Quang Vũ, mưa không chỉ là hình ảnh mà còn là nơi anh gửi gắm tâm tư và cảm xúc của mình, với thống kê cho thấy mỗi bài thơ thường có ít nhất một lần xuất hiện hình ảnh mưa (158 lần trong 155 bài thơ).

Trong thơ Lưu Quang Vũ, bài thơ "Mưa" thể hiện sự trôi qua của thời gian mà con người không thể níu giữ Hình ảnh cơn mưa khiến hiện tại trở nên vô nghĩa và tương lai trở nên mờ mịt, không rõ ràng Mưa tạo ra cảm giác về một không gian tù đọng, u ám, cùng tâm trạng rã rời, lo âu Đồng thời, mưa cũng là điềm báo trước cho những số phận bi thảm.

Mưa không mơ hồ mà tàn nhẫn từng cơn Quyển sách cũ bài thơ nhoè nét chữ

Em đã tin trời xanh ngoài cửa sổ Trời đen sầm sập nát vai em

(Gửi một người bạn gái)

Thể thơ

Thể thơ là một khái niệm quan trọng trong lý luận văn học, phản ánh hình thức và cấu trúc của tác phẩm Nó thể hiện cái nhìn và quan niệm về đời sống của tác giả Lưu Quang Vũ là một nhà thơ đa dạng, thử nghiệm nhiều thể loại từ thơ cổ truyền đến thơ tự do, cho thấy sự sáng tạo không giới hạn Giọng điệu và thể thơ của anh không phải là sự lựa chọn lý tính, mà là kết quả của cảm xúc mãnh liệt, giúp anh phá vỡ mọi khuôn khổ và giới hạn của thể loại thơ.

Thơ Lưu Quang Vũ vẫn giữ được những thể thơ quen thuộc, đặc biệt là thể lục bát, phản ánh sâu sắc tiếng nói của ruộng đồng thôn xóm Điều này tạo nên một nền tảng vững chắc cho sự sáng tạo trong thơ của ông.

Lúa xanh đã nặng hạt vàng Đồng xa đã gặt, đường làng trải rơm

Bài thơ duy nhất của Lưu Quang Vũ sử dụng thể thơ lục bát phù hợp với bối

Lưu Quang Vũ đã sáng tác nhiều bài thơ theo thể thơ truyền thống phổ biến thời kỳ đó, với cấu trúc mỗi khổ 4 câu và vần điệu rõ ràng, tiêu biểu như các tác phẩm "Tuổi thơ", "Áo cũ" và "Thôn".

Chu Hưng, với những tác phẩm như "Trưa nay," "Hơi ấm bàn tay," và "Ngã ba thị xã," đã thể hiện rõ nét hạnh phúc trong những giai đoạn quan trọng của cuộc đời: từ những ngày đầu mới lớn, tình yêu đầu đời cho đến hạnh phúc trong hôn nhân Những bài thơ này mang đậm phong cách truyền thống, nhưng theo thời gian, tâm hồn thi sĩ trở nên phức tạp hơn, với nhiều mâu thuẫn Thơ của anh không còn tuân theo quy tắc cố định, mà tuôn chảy tự do như chính cảm xúc của anh, khó nắm bắt và phân chia.

Ngay cả trong những bài thơ mà thi sĩ dường như tuân thủ nghiêm ngặt thể thơ và quy tắc gieo vần, sự nghiêm chỉnh ấy vẫn có thể bị phá vỡ bởi một hoặc hai dòng thơ ngắn hoặc dài hơn một chữ.

Bàn tay đã rời, cảm giác tiếc nuối khi chưa kịp nắm bắt những điều quý giá Tình yêu quê hương dường như chưa đủ sâu sắc, khi mà vườn dưa hấu ngọt ngào và mía thơm lừng vẫn chờ đợi Những hình ảnh giản dị ấy gợi nhớ về miền quê thân thuộc, nơi có những sản vật tươi ngon và kỷ niệm đẹp.

Trưa nay, như hai dòng sông hội tụ, phù sa hòa quyện tạo nên sắc màu mới Hai bàn tay nắm chặt, trao gửi cảm xúc, cảm nhận dòng máu của cha mẹ chảy trong từng ngón tay.

Bài Chia tay là một thể nghiệm độc đáo trong thơ ca, với cấu trúc mỗi khổ gồm hai câu thơ Mặc dù việc diễn đạt một ý tưởng hoàn chỉnh chỉ qua hai câu là điều không dễ dàng, nhưng tác phẩm này của Lưu Quang Vũ vẫn thể hiện sự tài hoa và thú vị.

Bàn tay vẫn trong nắng nhoà xin chớ tiếc Đời rất rộng không lo lẻ chiếc

Mỗi khổ thơ hai câu diễn đạt ý nghĩa trọn vẹn, với hai câu gieo vần tinh tế, tạo nên những cặp vần độc đáo như tắp - gặp, tiếc - chiếc, hay được - trước Sự kết hợp này, khi được sử dụng hợp lý, sẽ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Từ khi còn rất trẻ, vào khoảng mười lăm mười sáu tuổi, thơ Lưu Quang Vũ đã thể hiện sự tự do trong cấu trúc và ngôn từ, với dòng cảm xúc mạnh mẽ, phá vỡ mọi khuôn khổ truyền thống, tạo nên sức lôi cuốn đặc biệt cho tác phẩm của anh.

Sông Thương mang trong mình nỗi nhớ da diết, như những giọt lệ nhỏ của người xưa Những dòng nước buồn chảy qua Nhã Nam và Phủ Lạng, hòa quyện giữa mưa chiều và nắng rạng Bao năm trôi qua, nỗi niềm vẫn còn vương vấn.

Thơ của anh mang vẻ hồn nhiên, giản dị như những cuộc trò chuyện hàng ngày, với những câu cảm thán và câu hỏi bâng quơ được đặt đúng chỗ, tạo nên những cảm xúc bâng khuâng khó tả.

Chiều ấy các anh đi Nắng nhạt vàng hoe gốc rạ Gió xạc xào qua luỹ tre

Em đứng nhìn theo sau cửa Đất nước đánh thù đường trăm ngả Các anh đi về đâu

Cái đẹp tự nhiên thường dễ tạo thiện cảm, và chính vì lý do này, Lưu Quang Vũ thường sử dụng vần đôi thay vì vần cách, tạo ra một âm điệu du dương và êm ái đặc trưng trong thơ của ông.

Vườn em là chốn yên bình, nơi gió trời lồng lộng, với hoa tím nở rộ và tiếng chim hót vang vọng giữa những tán lá Những con nhện khéo léo giăng tơ trắng, tạo nên vẻ đẹp huyền bí cho không gian này, khiến ong cũng quên lối ra.

Trái trong căng mập nhựa sinh sôi Nơi ban mai cỏ ướt sương rơi Một hạt nhỏ mơ hồ trên má Hơi lạnh nào ngón tay cầm se giá?

Không gian và thời gian nghệ thuật

Không gian và thời gian là hai yếu tố thiết yếu trong tác phẩm văn học, giúp nhà thơ thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về con người và cuộc sống Thế giới thơ của Lưu Quang Vũ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo mà còn phản ánh tư tưởng và cá tính sáng tạo của tác giả trong một không gian và thời gian riêng biệt Mối quan hệ chặt chẽ giữa không gian và thời gian tạo nên môi trường sống phong phú, bao trùm mọi khía cạnh của cuộc sống.

Khi bước vào thế giới nghệ thuật văn chương, chúng ta không chỉ nhìn nhận một cách khách quan mà còn cảm nhận sự phong phú của ngôn từ qua cảm xúc của chủ thể thẩm mỹ, tạo nên không gian và thời gian nghệ thuật Khám phá nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ từ hai bình diện này giúp chúng ta nhận diện chiều sâu tư tưởng của ông, một nhà thơ với cái nhìn đa chiều về không gian, thời gian và tâm tư.

3.3.1 Không gian nghệ thuật, không gian xó hội

Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó Trong thế giới thơ của Lưu Quang Vũ, không gian nghệ thuật gắn liền với lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ Ngoài không gian vũ trụ và xã hội, còn tồn tại những khoảng không tâm tưởng, trong đó khoảng cách giữa chủ thể và khách thể thẩm mỹ được đo bằng cái nhìn tâm trạng.

Nhà thơ Lưu Quang Vũ thể hiện bản lĩnh và tâm hồn qua không gian nghệ thuật trong thơ của mình, cho thấy khả năng “hút nhuỵ mật từ trong bồn hoa vô tận của đời sống xã hội.”

Lưu Quang Vũ, cùng với những người bạn thơ, đã không ngừng sáng tạo trong vườn hoa muôn sắc của thơ ca cách mạng thời kỳ chống Mỹ, góp phần làm phong phú thêm diện mạo nền thơ Việt Nam hiện đại Ông là một nhà thơ có cái nhìn đa diện, sâu sắc và tầm nhìn xa Sự vận động của tư duy nghệ thuật và không gian cộng đồng đã chứa đựng những tư tưởng của nhà thơ trong những bước chuyển đổi dài.

3.3.1.1 Không gian mang dấu ấn lịch sử, dân tộc Đó là dòng sông, vùng đất gắn với từng chặng đ-ờng hành quân của cái tụi hăm hở b-ớc vào quân ngũ Không chỉ còn là tên gọi: sông Th-ơng, sông Đuống, sông Thao… nữa mà những dòng sông ấy chảy vào nhà thơ L-u Quang

Vũ trong một sắc diện mới thể hiện tình cảm sâu sắc của người lính trẻ qua những dòng thơ đầy xúc động: "Sao tên sông lại là Th-ơng/ Để cho lòng anh nhớ?" Sông Th-ơng không chỉ là quê hương mà còn là biểu tượng của sự bình yên giữa khói lửa chiến tranh Trong thơ Lưu Quang Vũ, sông trở thành nhân chứng cho những cuộc tiễn đưa đầy cảm xúc trong thời kỳ khó khăn.

Trên bến sông này một chiều năm ấy

Mẹ tiễn đ-a cha đi bộ đội Tiếng súng đồn Tây ngơ ngác hoàng hôn

Sông vang vọng tiếng gọi người đi đánh giặc, để lại nỗi nhớ nghẹn ngào Không gian dòng sông lưu giữ vết tích chiến tranh và phản ánh tâm tư của con người, cũng như tâm tư của cả dân tộc Tập thơ đầu tiên của Lưu Quang Vũ mang sắc xanh của sông nghĩa tình, thể hiện sâu sắc không gian xã hội.

L-u Quang Vũ gieo tình hậu ph-ơng vào không khí lửa đạn, khiến cho chiến tranh dịu đau; chỉ còn thấy hình bóng những ng-ời lính trẻ yên lòng cầm súng bởi họ tin còn đâu đó phía quê nhà là niềm chờ mong chung thuỷ Vì thế, chút tình riêng bịn rịn, l-u luyến đều giấu sau tình dân tộc thiêng liêng: Khi ng-ời th-ơng d-ới quả chín cành bàng/ Bảo mấy hạ mấy đông chi cũng đợi/ Trời xa bỗng ầm ì súng giội/ Xốc ba-lô, anh vội lên đ-ờng (Tr-a nay)

Trong thơ Lưu Quang Vũ, con người hòa mình vào những vùng đất mang dấu ấn lịch sử hào hùng như Thăng Long, Việt Trì, Nhó Nam, Phủ Lạng, Vũ Yên, Lâm Thao Những địa danh này gợi nhớ về những câu chuyện kháng chiến, khiến lòng nhà thơ xốn xang Dòng hồi tưởng của ông tràn về với hình ảnh chiến tích, đêm hành quân, tình hậu phương và niềm hy vọng Không gian trong tập thơ “Hương cây” được thể hiện qua đôi mắt biếc xanh của một người chưa mất niềm tin vào cuộc sống, tạo nên âm hưởng tự hào và cảm hứng gợi ca Quan niệm nghệ thuật về con người trong các sáng tác đầu tay của Lưu Quang Vũ thể hiện sự náo nức và khát vọng trở về Thủ Đô, hòa mình vào không khí thời đại.

Quang Vũ thể hiện niềm tin yêu về con người trong thời chiến, với không gian đầy hứa hẹn qua những hình ảnh thiên nhiên sinh động Tháng bảy mưa nhiều, tháng tám sen tàn, chim ngói bay về đầy lưu luyến, và tháng chín lúa trổ đòng đòng, tất cả tạo nên bức tranh tươi đẹp của mùa thu với hương cốm mát trong.

Không gian chiến tranh hiện lên qua hình ảnh khu rừng kháng chiến, xóm làng và những gian hầm, gợi nhớ về tình cảm gắn bó giữa quân và dân Những hình ảnh người mẹ, anh bộ đội và cô em gái nhỏ thể hiện sự ấm áp và tình yêu thương trong bối cảnh khó khăn Hình ảnh mẹ trồng sắn ngô giữa đồi hoang và con lớn lên trong nỗi nhọc nhằn của mẹ, cùng với sự nâng niu của xóm làng, tạo nên một bức tranh sống động về cuộc sống trong thời kỳ kháng chiến Tiếng hò tha thiết vang vọng trên nương rẫy càng làm nổi bật tình cảm sâu sắc của con người trong những năm tháng gian khổ.

Lưu Quang Vũ không ngẫu nhiên chọn “Hương cây” làm tên cho tập thơ duy nhất của mình, mà vì những sáng tác đầu tiên của ông gắn liền với thiên nhiên tươi đẹp và gần gũi Thế giới “Hương cây” hiện lên với hình ảnh lá bưởi, lá chanh, trái hồng chín đỏ và hạt thóc vàng, tất cả tạo nên bức tranh quê hương dịu dàng Cảm xúc chủ đạo trong thơ ông là sự bồi hồi, rạo rực khi tình yêu dân tộc hòa quyện với tình yêu thiên nhiên Khi chứng kiến nỗi đau do kẻ thù gây ra, tâm hồn ông không chỉ đau xót cho con người mà còn cho cả thiên nhiên: “Chồi biếc bây giờ đứt nhựa.”

Thân cành đau không cây ơi/ Bầm gan tím ruột bao ng-ời (Lá b-ởi lá chanh)

Trong cái nhìn nghệ sĩ, thiên nhiên không chỉ đẹp mà còn đáng được trân trọng, vì nó cũng biết đau đớn khi phải chịu đựng bom đạn và lửa cháy Điều này thể hiện nguồn cảm hứng sâu sắc của nhà thơ, tạo nên những cảm xúc nhẹ nhàng nhưng cũng đầy mãnh liệt cho những tâm hồn từng coi thiên nhiên là tri âm, tri kỷ Tình yêu thiên nhiên mãnh liệt khiến cái tôi trong thơ Lưu Quang Vũ thường xuyên nhìn lại quê hương bình yên Đến với tác phẩm “Hương cây”, độc giả sẽ không ngạc nhiên khi tác giả Lê Đình

Kỵ cho rằng Lưu Quang Vũ thể hiện "hơi thở đượm" khi trở lại với cảm hứng thiên nhiên Trong tác phẩm "Hương cây", không gian thiên nhiên và xã hội hòa quyện, tạo nên một tình thơ dịu dàng, nhuần nhị Lưu Quang Vũ đã xây dựng một thế giới thiên nhiên tràn đầy tình người, đặc biệt trong giai đoạn sáng tác thập niên 60 Với cảm nhận thiên nhiên chưa nhuốm u buồn, con người trong hành trình sống mãi với tình yêu quê hương, như thể hiện qua những câu thơ về cây súng và vần thơ viết dở, mở ra con đường rộng mở cho tương lai.

Thời gian nghệ thuật

Trong văn học, thời gian được thể hiện qua cảm nhận chủ quan của người sáng tạo Trong thơ Lưu Quang Vũ, thời gian mang đến sự giao thoa giữa cái cũ và cái mới Đây là một đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật thơ của ông, cho thấy thời gian không chỉ là một yếu tố mà còn là một hiện tượng ám ảnh, thấm đẫm hồn thơ Lưu Quang Vũ.

3.4.1 Thời gian lịch sử – xó hội 3.4.1.1 Thời gian thực hiện lịch sử í thức đ-ợc b-ớc đi của hiện thực chiến tranh, L-u Quang Vũ đó thể hiện sinh động hình t-ợng thời gian gắn với từng hoàn cảnh cụ thể của lịch sử dân tộc Đó là những đêm hành quân, là những năm đánh giặc, là một đêm 1972, là những bình minh tím than những hoàng hôn vàng úa Có thể nhận thấy ở thơ L-u Quang Vũ kiểu thời gian lịch sử ‟ đó hội đ-ợc cụ thể hoá thành thời gian chiến đấu, thời gian của xa cách, của nhớ mong, chờ đợi… “Những con đường”, “Gửi tới các anh” … khắc khoải thời gian nghĩa tình; ở đó, con người đối xử với nhau bằng nghĩa cử của hậu ph-ơng h-ớng lòng tiền tuyến Đây vừa là thời gian lịch sử vừa làm nhịp b-ớc của cuộc sống đang hối thúc ng-ời trai trẻ lên đ-ờng Và thời gian ở thơ ông gắn với những băn khoăn th-ờng trực của con ng-ời tr-ớc thân phận nên khắc sâu hiện thực đau th-ơng, khốc liệt của chiến tranh Bắt đầu ra khỏi thời “Hương cây”, thời gian cũng biến động cùng với biết bao biến động của đời ng-ời Dòng thời gian không ngừng băng chảy nh-ng trong mạch ngầm của nó, có khi cũng tiềm ẩn những đ-ờng thời gian lặng lẽ; và khi con ng-ời khuấy động thì nó mới thực sự phái sinh Ông có dòng sông thời gian cuộn đi bao biến cố của lịch sử và con ng-ời Ông cũng có khoảng thời gian cụ thể về sự thật chiến tranh: Lại sắp hết một năm/ Đất n-ớc ch-a xong giặc/ Bao nhiêu ng-ời chết/ Tiếng súng đóng đinh lên ngực cuộc đời (Lại sắp hết năm rồi) Thời gian điựơc tính bằng tháng năm lịch sử nh-ng lại đ-ợc đo bằng chiều sâu thẳm tâm hồn con ng-ời : Cuộc chiến tranh đó mấy chục năm trời/ Con mới gần ba tuổi/ Tia nắng sớm mong manh chùm lá mới/ Đêm của đời gió bóo đó dài lâu (Nói với con cuối năm) Có thể nói, con ng-ời trong thơ L-u Quang Vũ nhận thấy hết sự chi phối ghê gớm của thời gian đối với vận mệnh dân tộc và đối với từng số phận đang chịu cảnh biệt li thời chiến:

Mấy m-ơi năm đó mấy lớp ng-ời Chia l×a gôc ngã Đó tận cùng nỗi khổ Ng-ời ta còn muốn gì Ng-ời nữa Việt Nam ơi?

Lưu Quang Vũ thể hiện sự nóng lòng trước vòng quay tàn nhẫn của thời gian trong bối cảnh cuộc chiến tranh dân tộc đẫm máu Tuy nhiên, cái nhìn bi quan về thời gian của ông không phải là chủ đề xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm, mà chỉ là một giai đoạn ngắn trong quá trình đánh mất lòng tin.

Quay về với quá khứ là cách đầu tiên để nghệ sĩ xoa dịu nỗi đau hiện tại Đôi mắt u buồn của Lưu Quang Vũ trở nên ấm áp khi ông nhớ về quê hương yên bình Trong thơ của ông, hình ảnh thời gian hoài vọng hiện lên qua những kỷ niệm xa xăm, như rìu đá cổ xưa hay Trung Hoa tuổi thơ tôi, thể hiện nỗi khát khao tìm lại thời gian đã mất “Hương cây” gợi nhớ những hồi ức đẹp đẽ, dù có xen lẫn nỗi đau, nhưng vẫn là kỷ niệm êm đềm của tình yêu quê hương trong sáng, thuần khiết, từ một trái tim trẻ trung cả về tuổi đời lẫn suy nghĩ.

“Hương cây”, nhà thơ vọng t-ởng nhiều hơn và sâu hơn về quá khứ:

Trẻ hát đồng dao trên phố Con trai xách điếu đi cày Con gái quang liềm gặt lúa

Vào đầu thập niên 70, thơ Lưu Quang Vũ phản ánh chiều sâu triết lý và nỗi đau của thời kỳ loạn lạc, thể hiện qua những kỷ niệm buồn bã của dân tộc Những hình ảnh như "người bán máu xanh gầy" và "co ro chờ ngoài bệnh viện" trong tác phẩm của ông gợi lên sự thật khắc nghiệt và nỗi buồn không nguôi Trong trường ca “Đất nước đàn bầu”, cái tôi của tác giả cũng thể hiện nỗi hoài vọng sâu sắc, mang đến một cảm xúc mạnh mẽ về thời gian và ký ức.

Dân tộc tôi bốn ngàn năm áo rách Những ng-ời chết đặc trong lòng đất

Những mặt vàng sốt rét Những bộ x-ơng đói khát vật vờ đi

Thời gian hoài vọng trở thành một giấc mộng đêm đau đớn cho con người Thời gian trong cõi mộng không chỉ kéo dài mà còn tạo ra một không gian ám ảnh, khiến nhà thơ cảm thấy rợn ngợp.

Nến tắt lịm, chỉ ào ào sóng vỗ Những cánh đồng tôi đó đi qua Hiện về trắng xoá

Những cô gái tôi yêu Nói c-ời nghiêng ngả

Nhìn lại quá khứ, cái tôi trữ tình của Lưu Quang Vũ ngày càng điều chỉnh những cảm nhận phiến diện của mình Ông khát khao hình ảnh quê hương, như một trang sách tình yêu có ngôi sao Chính điều này đã thúc đẩy ông tìm đến dòng thời gian khát vọng, tạo nên phong cách thơ độc đáo của mình.

Trong thế giới nghệ thuật của Lưu Quang Vũ, thời gian không chỉ là sự hoài vọng về hiện thực mà còn là khát vọng hướng tới tương lai Ông khắc họa hình ảnh bán đảo với những âm thanh và sắc màu đầy cảm xúc, thể hiện tình yêu và sự mong chờ cho những mùa vui tươi sẽ đến Những câu thơ của ông mang đến hy vọng và niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn.

Trong giai đoạn sáng tác bi kịch, thơ Lưu Quang Vũ vẫn ẩn chứa khát vọng và niềm tin vào tương lai Thời gian và không gian khát vọng giúp hình dung đất nước qua chiều dài và chiều sâu lịch sử, phản ánh sự chuyển biến trong nhận thức của tác giả từ bi quan sang lạc quan Thời gian khát vọng bao trùm thế giới nghệ thuật của ông, thể hiện rằng sự chia cắt quê hương chỉ là tạm thời, trong khi đoàn tụ dân tộc là vĩnh cửu Những ước nguyện trong bài thơ như mong muốn không ai phải sống trong cảnh đói khổ hay sỉ nhục, thể hiện sự hồi sinh của lòng tin và hy vọng vào tương lai Hình ảnh bà đứng đó với miệng trầu cau thơm ngát và tiếng trẻ con cười vang khắp miền sông nước cho thấy thời gian lịch sử và xã hội được khắc họa rõ nét trong thơ Lưu Quang Vũ.

L-u Quang Vũ luôn vận động, gắn với hiện thực và cũng gắn với từng thời điểm dao động trạng thái cảm xúc của ng-ời nghệ sĩ

Trong "Hương cây", tác giả thể hiện khát vọng mãnh liệt về tương lai Tổ quốc, với hình ảnh đất nước đang vươn lên và những ước mơ đang được khắc họa Dù cuộc đời có lúc mất thăng bằng, nhưng trong vẻ rách nát vẫn ẩn chứa một hồn thơ đầy khát vọng Những câu thơ diễn tả tình yêu và ước vọng thiết tha, bất chấp sự cô đơn và lạnh lùng của thực tại Thời gian hi vọng không chỉ là mơ mộng, mà là sự gắn kết sâu sắc với hiện thực và niềm tin vào tương lai.

Cuộc đời sẽ đi qua những ngày đông xám ngắt

Sẽ trẻ lại con sóng già đầu bạc

Sẽ có -ớc mơ và những quả d-a vàng

(Viết cho em từ cửa biển )

Trên bản trường ca “Đất nước đàn bầu”, tương lai tươi sáng của dân tộc được khắc họa qua niềm tin vững chắc của con người Tác giả ghi nhận hành trình gian nan từ thời kỳ hồng hoang đến chân trời rộng lớn, nơi mà những hình ảnh của tổ tiên sống dậy, làm sống động ký ức về niềm vui và nỗi buồn không thể đo đếm Cuối cùng, trên dòng sông ấy, quá khứ, hiện tại và tương lai hòa quyện trong tình yêu thương của con người.

Mặt người hòa lẫn với mặt anh em, câu hát cũ giao thoa với câu hát mới, tạo nên một không gian nghệ thuật đặc sắc Dòng sông gầm thét, biển cả dậy sóng dữ dội, mở ra những chân trời bao la Hiện tượng đồng hiện này thể hiện sự tái hiện của các không gian và thời gian quá khứ, hiện tại, và tương lai trong cùng một khoảnh khắc Đây là nét nổi bật trong phong cách thơ Lưu Quang Vũ, phản ánh nguồn thi hứng dân tộc Giai đoạn sáng tác sau "Hương cây" cho thấy kiểu thời gian đồng hiện, thể hiện triết lý sống về lẽ suy thịnh của vận mệnh Tổ quốc.

3.4.2 Thời gian đời t-, thời gian chiêm nghiệm Đây là thời gian chi phối rất nhiều đến cảm hứng sáng tác của L-u Quang

Vũ là một nghệ sĩ dũng cảm, luôn sẵn sàng khám phá tận cùng của hiện thực và chính bản thân mình Nhờ đó, ông đã đến được đỉnh cao của nghệ thuật, sáng tạo và cống hiến những tác phẩm, dù chỉ là những vần thơ dành riêng cho tâm hồn mình.

Lưu Quang Vũ, ngay từ những ngày đầu sáng tác, đã thể hiện sự trở về với dòng thời gian của tuổi ấu thơ trong tác phẩm "Hương cây" Ông trân trọng quá khứ và miên man với kỷ niệm, từ hoa tuổi thơ đến những giai điệu của ban nhạc ngày xưa Qua những vần thơ, ông bộc lộ nỗi nhớ và cảm xúc sâu sắc về những gì đã mất, như trong bài thơ "Khó hiểu về em" Sau nhiều nỗi đau, ký ức trở thành chỗ nương náu cuối cùng để Lưu Quang Vũ tìm kiếm sự an ủi và hiểu biết về cuộc đời, như thể hiện trong những đoạn thơ về mùa hè và những điều giản dị Thời gian, vì thế, cũng trở thành nỗi buồn cùng với tâm trạng của cái tôi trong các tác phẩm như "Gửi một người bạn gái" và "Từ biệt".

Em vắng, nửa đêm nỗi nhớ, chỉ một bước trở lại cảnh cũ, lòng ông dậy lên bao nỗi nhớ ngày xưa Anh lên xứ Đoài, Ba Vì mây trắng, nhớ mặt em gầy sau lá mạ, lênh đênh bến nước Trung Hà Dường như mỗi khi lòng dao động, Lưu Quang Vũ thường có xu hướng tìm về quá khứ Lời từ tạ của ông quay quắt trong thời gian hoài niệm, thể hiện sự lạ lẫm với chính mình giữa dòng đời.

Ngôn ngữ thơ ca và giọng điệu trữ tỡnh

Trong "Thi nhân Việt Nam", Hoài Thanh nhận định rằng phong trào thơ mới là cuộc xâm lăng của văn xuôi vào thơ, tạo ra sự bùng nổ trong việc bộc lộ cái tôi nghệ sĩ Tuy nhiên, khi dòng thơ kháng chiến xuất hiện, lời nói trở thành yếu tố chủ đạo, đánh dấu sự chuyển mình của thơ ca cách mạng Lưu Quang Vũ, là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ chống Mỹ, đã khéo léo đưa vào thơ nhiều ngữ điệu của cuộc sống, làm phong phú thêm ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại và tạo ra một thế giới nghệ thuật mang dấu ấn riêng của ông.

Ngôn ngữ thơ của Lưu Quang Vũ thể hiện sự gần gũi với văn xuôi, đặc biệt qua việc sử dụng thể thơ tự do, cho phép ông truyền tải dòng chảy cảm xúc một cách chân thực Theo Hữu Đạt, thơ tự do không chỉ phản ánh những khía cạnh khó khăn của cuộc sống mà còn diễn tả sự thay đổi của đời sống một cách nhẹ nhàng Lưu Quang Vũ có xu hướng mở rộng câu thơ thành những tâm tình sâu sắc, như trong các tác phẩm thể hiện nỗi niềm và khao khát của con người Thơ của ông, mặc dù mang tính độc thoại, nhưng lại gần gũi với lời thoại, giúp thể hiện rõ ràng tâm tư của người nghệ sĩ Giữa thực tại đầy rẫy những thăng trầm, lời thơ của Lưu Quang Vũ phản ánh một cách sống động và đa dạng, thể hiện cái tạng nghệ thuật không thể gói gọn trong những câu chữ ngắn ngủi, mà luôn tràn đầy cảm xúc, ngay cả khi đó là nỗi đau của tâm hồn.

L-u Quang Vũ đem vào thơ cách ngắt nhịp của lời nói Đây chính là hiện t-ợng vắt dòng, xuất hiện với tần số cao trong thơ ông Nhịp điệu thơ chính là nhịp điệu tình cảm Kết cấu này tạo độ lo lắng cho mạch cảm xúc, tạo những khoảng lặng của một hồn thơ phức tạp Nh- có lần sức nặng lời buộc tội về tình ng-ời của cái tôi trữ tình d-ờng nh- dồn cả vào những chỗ vắt dòng:

Sao mọi ng-ời có thể dửng d-ng Nhìn em đi trên đ-ờng tối

Mọi ng-ời đều có tội Tr-ớc tuổi thơ đó chết của em

Những vần thơ tình của tác giả, với cách vắt dòng tinh tế, mang đến sự da diết và sâu lắng hơn; tại đây, nỗi rung động của nhà thơ như được phả vào từng câu chữ.

Ngày th-ờng nhật, chẳng có gì lạ cả

Sao suốt chiều anh cứ đợi mong em

Câu thơ có thể được hình thành từ nhiều dòng, mang âm điệu tự nhiên như lời nói, phản ánh tâm hồn tràn đầy khát vọng.

Mặt trời từ vực sâu đen thẳm

Từ biển đêm trằn trọc Sáng dần lên trên những ngón tay em

(Viết lại một bài thơ Hà Nội)

Thơ Lưu Quang Vũ nổi bật với ngôn ngữ gần gũi, nhờ vào sự xuất hiện phong phú của hệ thống từ ngữ giao tiếp đời thường Ông đã vượt qua rào cản của ngôn từ trang trọng truyền thống, mang đến một cách tiếp cận mới cho văn chương hiện đại Trong thơ ca cách mạng, yêu cầu về triết luận sắc sảo luôn được đặt lên hàng đầu, và Lưu Quang Vũ đã kế thừa và phát triển nghệ thuật sử dụng ngôn từ này Hệ thống từ ngữ trong thơ ông không chỉ nâng cao khái quát triết luận mà còn phản ánh đa dạng cuộc sống thường nhật, tạo nên những tác phẩm sâu sắc và gần gũi với người đọc.

L-u Quang Vũ rất thích hợp với những phụ từ chỉ sự phủ định có khả năng nhấn mạnh thái độ, tình cảm của cái tôi trữ tình, nhất là khi L-u Quang Vũ muốn chất vấn cuộc đời: Anh chẳng mang cho đời những tiệc vui ảo ảnh/ Nỗi buồn chân thành đời chẳng nhận hay sao? (Có những lúc) Có khi, L-u Quang

Vũ không thể giấu được tâm trạng của mình, thể hiện qua những cảm xúc mãnh liệt và khao khát trong từng câu chữ Anh ôm ấp những giọt nước mắt, đồng thời cũng nhận ra rằng sự phủ định có thể giúp làm dịu nỗi đau trong tâm hồn Cuộc sống không còn là những chờ mong hay đua chen, mà là sự từ chối những điều đắng cay, mang lại sự thanh thản cho tâm hồn.

Thơ Lưu Quang Vũ nổi bật với cách diễn đạt tự nhiên nhưng chứa đựng nhiều triết lý sâu sắc thông qua việc sử dụng các từ nối như chỉ, dễ, dẫu, nên, nếu, nhưng Những từ nối này không chỉ tạo ra sự liên kết mà còn mang lại cảm giác tăng cấp hoặc tương phản cho câu thơ Độc giả sẽ cảm nhận được sự bàng hoàng khi nhà thơ suy tư về thế thái nhân tình qua những hình ảnh đối lập, như trong bài thơ "Quán cà phê ngoại ô" với hình ảnh quán cà phê chạng vạng và con người lạ lẫm Lưu Quang Vũ khéo léo đặt từ nối giữa hai dòng thơ, tạo cảm giác nén lại nỗi đau và sự giận dỗi khi ông suy ngẫm về sự tan vỡ của niềm tin mà bản thân không phải là người có lỗi.

Em biết đấy, anh chẳng tin định mệnh Nh-ng trên đời này chỉ có -ớc mơ là thật Hai ta hóy là giấc mộng của nhau thôi

(Thơ tình viết về một ng-ời đàn bà không có tên I)

Lưu Quang Vũ khẳng định sâu sắc hồn thơ không bao giờ chấp nhận định mệnh qua việc sử dụng từ nối “nhưng” Ông thể hiện sự khát khao vươn tới những điều tốt đẹp, dù không thể với tới những vì sao xa xôi Thay vào đó, ông tìm kiếm niềm vui từ những điều giản dị trong cuộc sống, như làm thuyền trên sông hay làm lúa trên đồng Qua đó, Lưu Quang Vũ luôn nỗ lực đứng dậy từ những tổn thất và sai lầm, xây dựng lại sự lạc quan cho chính mình.

Có những lúc tôi cảm thấy mệt mỏi và chán nản, nhưng từ sâu thẳm nỗi buồn, tôi vẫn tìm thấy một điều gì đó tươi sáng như nhựa cây, và một điều gì đó tinh khiết như mây bay.

Là hoa gạo lòng tôi chẳng tắt

Việc sử dụng từ nối trong bài thơ “Em” tạo nên những cung bậc cảm xúc chân thành và giản dị, mang đến cho người đọc một sự đúc kết bình dị đầy ý nghĩa.

Chúng ta đi bên nhau trên mặt đất Dẫu chỉ riêng điều đó là có thật Đủ để anh mói mói biết ơn đời

Nhiều đoạn thơ của Lưu Quang Vũ mang âm hưởng mạnh mẽ, được chắt lọc từ cái tôi đa cảm của tác giả, gây rung động sâu sắc cho người đọc Ông sử dụng nhiều tính từ cực tả và động từ mạnh như "rách nát", "ghê rợn", "kinh hoàng", "vỡ nát", tạo nên một bức tranh cảm xúc mãnh liệt, đặc biệt trong giai đoạn sáng tác u buồn nhất Những lời trần tình của ông phản ánh một khối mâu thuẫn và tiếng lòng của con người đang tìm kiếm sự bình yên.

Anh xé quyển vở thơ mình đã viết, thể hiện nỗi lòng trong những đêm mất ngủ Khi cửa kính đã đóng, anh lại không kìm được, đập vỡ mọi thứ Dù cuộc sống đã ổn định, anh vẫn cảm thấy cần phải phá vỡ mọi rào cản.

Bản sắc cảm xúc và chiều sâu tư tưởng của Lưu Quang Vũ được thể hiện rõ nét qua việc sử dụng ngôn từ mạnh mẽ Ông không chấp nhận những tình cảm mơ hồ, mà luôn khai thác mọi cung bậc xúc cảm tận cùng, đặc biệt là nỗi đau do chiến tranh gây ra Những câu thơ của ông phản ánh sự tàn khốc của cuộc sống: "Đất lạnh lẽo s-ng vù như mặt chết" và "Thân nát b-ơm sau tra tấn cực hình" Lưu Quang Vũ hiểu sâu sắc về đời sống trong bối cảnh chiến tranh, thể hiện qua những dòng thơ đầy tâm trạng: "Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều" Khi tự bạch, ông khơi gợi nỗi buồn trống rỗng còn đọng lại sau chiến tranh, thể hiện sự trăn trở về tương lai: "Còn ghê rợn tiếng g-ơm đao thù hận" Thao thức của cái tôi trong thơ ông là một từ trống rỗng, gợi lên cảm giác hụt hẫng khi đối diện với những thực tại phức tạp của cuộc sống sau chiến tranh.

‟ xấu của đời th-ờng; mà ch-a dễ mấy ai cũng đủ bản lĩnh để dấn thân

Ngày đăng: 22/06/2022, 22:18

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Vũ Tuấn Anh (1996), “Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca”, Tạp chí Văn học, (1),tr.36 -39 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca”
Tác giả: Vũ Tuấn Anh
Năm: 1996
2. Lê Huy Bắc (!996), “Đồng hiện trong văn xuôi”, Tạp chí Văn học,(6) tr.45 - 50 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Đồng hiện trong văn xuôi”
3. Phạm Quốc Ca (2002), “ý thức cá nhân trong thơ trữ tình Việt Nam sau 1975” Tạp chí Văn học, (12), tr. 48 ‟ 52 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “ý thức cá nhân trong thơ trữ tình Việt Nam sau 1975”
Tác giả: Phạm Quốc Ca
Năm: 2002
4. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ngữ thơ
Tác giả: Nguyễn Phan Cảnh
Nhà XB: NXB Văn hoá thông tin
Năm: 2001
5. Phạm Tiến Duật (1989) “Chia tay với Lưu Quang Vũ và Xuânn Quỳnh”, L-u Quang Vũ và Xuân Quỳnh gửi lại, NXB Giáo dục Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Chia tay với Lưu Quang Vũ và Xuânn Quỳnh”
Nhà XB: NXB Giáo dục Hà Nội
6. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ngữ thơ Việt Nam
Tác giả: Hữu Đạt
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1996
7. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Giáo dục, Hà Néi Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giọng điệu trong thơ trữ tình
Tác giả: Nguyễn Đăng Điệp
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2002
8. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ơ và mấy vấn đề thơ
Tác giả: Hà Minh Đức
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1998
9. Hồ Thế Hà (2004), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, NXB Giáo dục, Hà Néi Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên
Tác giả: Hồ Thế Hà
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2004
10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển thuật ngữ văn học
Tác giả: Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2004
11. Nguyễn Đức Hạnh (2001), “Một số biểu t-ợng thơ dân gian trong thơ Việt Nam hiện đại”, Tạp chí văn học, (3), tr. 71 ‟ 78 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số biểu t-ợng thơ dân gian trong thơ Việt Nam hiện đại”
Tác giả: Nguyễn Đức Hạnh
Năm: 2001
12. Nguyễn Văn Hạnh (1998), “Suy nghĩ về thơ Việt Nam từ sau 1975”, Tạp chí văn học, (9), tr. 8-12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Suy nghĩ về thơ Việt Nam từ sau 1975”
Tác giả: Nguyễn Văn Hạnh
Năm: 1998
13. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thi pháp hiện đại
Tác giả: Đỗ Đức Hiểu
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2000
14. Bùi Công Hùng (2000), Quá trình sáng tác tạo thơ ca, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quá trình sáng tác tạo thơ ca
Tác giả: Bùi Công Hùng
Nhà XB: NXB Văn hoá thông tin
Năm: 2000
15. Bùi Công Hùng (2000), Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại, NXB thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại
Tác giả: Bùi Công Hùng
Nhà XB: NXB thông tin
Năm: 2000
16. Mai H-ơng (1981), “Nghĩ về đội ngũ trẻ trong thơ chống Mỹ”, Tạp chí văn học (1), tr. 92-98 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Nghĩ về đội ngũ trẻ trong thơ chống Mỹ”
Tác giả: Mai H-ơng
Năm: 1981
17. Tố Hữu (2003), “Đối với tôi, làm thơ là làm cách mạng bằng thơ”, Tạp chí văn học, (2), tr. 3-6 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Đối với tôi, làm thơ là làm cách mạng bằng thơ”
Tác giả: Tố Hữu
Năm: 2003
18. Roman Jakobson (2001), “Chủ âm”, Nghệ thuật nh- là thủ pháp, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Chủ âm”
Tác giả: Roman Jakobson
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2001
19. M. B. Khravchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: á tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học
Tác giả: M. B. Khravchenko
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1978
20. Lê Đình Kỵ (2001), “H-ơng cây – Bếp lửa - Đất nước và đời ta” Lưu Quang Vũ – Tài năng và lao động nghệ thuật, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: H-ơng cây – Bếp lửa - Đất nước và đời ta” Lưu Quang Vũ – Tài năng và lao động nghệ thuật
Tác giả: Lê Đình Kỵ
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2001

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w