NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Khái niệm chung về người chưa thành niên phạm tội
1.1.1 Khái niệm người chưa thành niên
❖ Khái niệm người chưa thành niên theo quy định của pháp luật quốc tế
Khái niệm về người chưa thành niên (NCTN) đã được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế, nhưng mỗi văn kiện lại có những điểm khác biệt đáng chú ý.
Theo Điều 1 của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em (CRC) được thông qua vào ngày 20/11/1989, "trẻ em" được định nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quy định tuổi thành niên sớm hơn Công ước cũng khẳng định rằng những người dưới 18 tuổi phạm tội sẽ không bị áp dụng hình phạt tử hình hoặc tù chung thân không có khả năng được phóng thích (khoản 1 Điều 37).
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về hoạt động tư pháp đối với NCTN, hay còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh, được thông qua bởi Đại hội đồng Liên hợp quốc vào ngày 29/11/1985 Theo quy tắc này, NCTN được định nghĩa là trẻ em hoặc thanh thiếu niên, những người có thể bị xử lý khi phạm tội theo một phương thức khác với người lớn, tùy thuộc vào từng hệ thống pháp luật (Quy tắc số 2.2 mục a).
Theo Bộ Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ trẻ em bị tước tự do, được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào ngày 14/12/1990, trẻ em được định nghĩa là những người dưới 18 tuổi.
Giới hạn độ tuổi thấp hơn mức này theo đó không được phép tước tự do của trẻ em cần được pháp luật quy định” (Quy tắc số 11 mục a)
Trong pháp luật quốc tế, khái niệm trẻ em và NCTN được sử dụng đồng thời, với độ tuổi giới hạn dưới 18 tuổi cho cả hai Công ước về Quyền Trẻ em (CRC) cho phép các quốc gia tự quyết định độ tuổi NCTN dựa trên sự phát triển thể chất và tinh thần của công dân Điều này dẫn đến sự khác biệt về độ tuổi NCTN trong các hệ thống pháp luật của các quốc gia, do mỗi nước có những đặc điểm riêng về kinh tế - xã hội, truyền thống lịch sử - văn hóa, và thực tiễn trong việc phòng, chống tội phạm chưa thành niên.
❖ Khái niệm NCTN theo quy định của pháp luật Việt Nam
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, cũng tồn tại đồng thời các khái niệm NCTN và trẻ em ở các văn bản khác nhau Cụ thể:
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rõ về độ tuổi của người chưa thành niên, theo đó, người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi (Điều 21) Điều này khẳng định rằng, trong Bộ luật Dân sự năm 2015, thuật ngữ "người chưa thành niên" được sử dụng để chỉ những người dưới 18 tuổi.
Khoản 1 Điều 143 Bộ luật Lao động năm 2019 cũng quy định: “Lao động chưa thành niên là người lao động chưa đủ 18 tuổi” Như vậy, theo Bộ luật Lao động, NCTN cũng được xác định là người chưa đủ 18 tuổi
Luật xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2020 quy định tại khoản 3 Điều 134 nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên (NCTN), trong đó mức xử phạt được áp dụng khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi: người từ 14 đến dưới 16 tuổi và người từ 16 đến dưới 18 tuổi Theo đó, NCTN được xác định là người dưới 18 tuổi Bên cạnh đó, Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 định nghĩa trẻ em là người dưới 16 tuổi, cho thấy khái niệm trẻ em đã được giới hạn trong độ tuổi này.
Pháp luật Việt Nam công nhận cả khái niệm NCTN và trẻ em, với NCTN được định nghĩa là người dưới 18 tuổi, phù hợp với quan điểm quốc tế như Công ước về Quyền Trẻ em (CRC) Tuy nhiên, Việt Nam phân biệt rõ giữa trẻ em và NCTN, trong đó trẻ em là những người dưới 16 tuổi Điều này có nghĩa là mọi trẻ em đều thuộc nhóm NCTN, nhưng không phải tất cả NCTN đều được xem là trẻ em.
Tóm lại, độ tuổi của trẻ em, NCTN theo pháp luật quốc tế là người dưới 18 tuổi
Pháp luật Việt Nam cũng xác định NCTN là người dưới 18 tuổi, tuy nhiên trẻ em được quy định độ tuổi nhỏ hơn đó là người dưới 16 tuổi
1.1.2 Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
❖ Theo quy định của pháp luật quốc tế
Theo Quy tắc số 2.2 mục c của Quy tắc Bắc Kinh, người chưa thành niên phạm tội được định nghĩa là trẻ em hoặc thanh thiếu niên bị cáo buộc hoặc đã bị kết luận là có hành vi phạm tội.
Văn bản quy định rằng các quốc gia có thể áp dụng các quy tắc phù hợp với hệ thống pháp luật riêng của mình Ví dụ, cần xác định hành vi nào được coi là phạm tội và bị xử phạt (Quy tắc 2.2 mục b), cũng như cách thức xử phạt đối với trẻ em và thanh thiếu niên khác biệt so với người lớn (Quy tắc 2.2 mục a).
❖ Khái niệm NCTNPT theo quy định của BLHS năm 2015
Trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985 và 1999, thuật ngữ "người chưa thành niên phạm tội" (NCTNPT) được sử dụng Tuy nhiên, từ BLHS năm 2015, thuật ngữ này đã được thay thế bằng "người dưới 18 tuổi phạm tội" Sự thay đổi này xuất phát từ sự không đồng nhất giữa khái niệm NCTN và trẻ em trong pháp luật Việt Nam; cụ thể, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được coi là NCTN nhưng không được xem là trẻ em.
Thuật ngữ “người dưới 18 tuổi” trong BLHS năm 2015 không chỉ nhất quán với các văn bản chuyên ngành mà còn phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế Sự sửa đổi này sẽ giúp các nhà lập pháp quy định rõ ràng hơn về từng tội danh và hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền trong việc xác định hình phạt thích hợp cho từng độ tuổi cụ thể.
Về độ tuổi chịu TNHS, tiếp thu tinh thần của BLHS năm 1985 và BLHS năm
Theo Bộ luật Hình sự năm 2015, có sự phân biệt trách nhiệm hình sự (TNHS) giữa người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi Cụ thể, Điều 12 quy định rằng người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS cho mọi tội phạm, trừ những trường hợp đặc biệt được quy định khác Trong khi đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS đối với các tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, được liệt kê tại các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150 và 151.
299, 303 và 304 của Bộ luật này” Từ quy định trên có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Theo BLHS năm 2015 thì NCTNPT chỉ bao gồm các đối tượng ở hai nhóm tuổi
Người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự cho mọi loại tội phạm, bao gồm tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Những vấn đề lý luận về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm và mục đích hình phạt
Hình phạt đóng vai trò quan trọng trong luật hình sự, quyết định đến việc thực hiện hiệu quả mục đích của Luật Hình sự Khái niệm hình phạt không chỉ là biện pháp trừng phạt mà còn nhằm giáo dục và phòng ngừa tội phạm, góp phần bảo vệ trật tự xã hội.
Theo Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 2015, hình phạt được xác định là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, do Tòa án quyết định áp dụng đối với cá nhân hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền lợi của họ.
❖ Các đặc điểm của hình phạt áp dụng đối với NCTNPT
Từ khái niệm hình phạt có thể rút ra các đặc điểm cơ bản của hình phạt như sau:
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, tước bỏ quyền và lợi ích của người phạm tội, như quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu tài sản Hậu quả pháp lý của hình phạt để lại án tích, gây bất lợi cho người phạm tội trong xã hội Đối với người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT), hình phạt cũng nghiêm khắc nhưng có sự giảm nhẹ so với người đã thành niên Theo Điều 91 BLHS năm 2015, hình phạt chỉ được áp dụng khi các biện pháp giáo dục khác không hiệu quả, NCTNPT không bị xử phạt tù chung thân hoặc tử hình, và hình phạt tù có thời hạn sẽ nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế theo quy định của luật hình sự, đảm bảo việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội diễn ra trong giới hạn cần thiết và theo đúng quy định của pháp luật, nhằm tránh lạm quyền và bảo vệ lợi ích chính đáng của người phạm tội Hình phạt được quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015, bao gồm các nguyên tắc về hình phạt trong Chương VI (Điều 30 – Điều 45) và các quy định về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trong Mục 4 Chương XII (Điều 98 – Điều 101), cùng với các loại hình phạt và mức hình phạt tương ứng cho từng tội phạm cụ thể.
Hình phạt do Tòa án áp dụng là một quy trình nghiêm ngặt và chỉ được thực hiện theo trình tự riêng biệt Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền đại diện cho Nhà nước để quyết định hình phạt đối với người phạm tội, dựa trên quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự và thông qua bản án kết tội Theo Điều 102 của Hiến pháp 2013, Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp tại Việt Nam Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 cũng khẳng định rằng Tòa án có trách nhiệm xét xử các vụ án hình sự, đưa ra bản án dựa trên kết quả tranh tụng và quyết định việc áp dụng hình phạt Do đó, ngoài Tòa án, không có cơ quan nào khác có quyền quyết định áp dụng hình phạt.
Thứ tư, hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người NCTN có hành vi phạm tội
Theo Điều 2 của Bộ luật Hình sự năm 2015, chỉ những cá nhân phạm tội theo quy định của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự Điều này có nghĩa là trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng cho những người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị coi là tội phạm Quy định này loại trừ việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với những hành vi không được xác định là tội phạm.
Theo quy định pháp luật, 15 hình phạt áp dụng cho những người không trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, ngay cả khi họ là người thân thích ruột thịt của người chịu trách nhiệm hình sự (NCTNPT) Điều này có nghĩa là nếu NCTN đáp ứng các điều kiện về độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự, họ phải tự chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình, không ai có thể thay họ gánh chịu các chế tài pháp luật.
Vào thứ năm, các hình phạt đối với người chấp hành án phạt tù (NCTNPT) chủ yếu nhằm mục đích giáo dục và cải tạo họ thành công dân có ích cho xã hội Mặc dù các hình phạt này không loại trừ việc trừng trị, thực tế là NCTNPT vẫn phải chịu sự tước bỏ và hạn chế một số quyền lợi nhất định Tuy nhiên, pháp luật nhấn mạnh vào mục tiêu giáo dục và cải tạo, giúp loại bỏ những phẩm chất tâm lý tiêu cực ở người phạm tội, đồng thời xây dựng và phát triển những thuộc tính tích cực để họ có thể hòa nhập với xã hội và trở thành người có ích.
Pháp luật đã thể hiện sự "ưu tiên" nhất định đối với người chịu trách nhiệm hình sự chưa thành niên (NCTNPT) so với người đã thành niên (NĐTN) thông qua các đặc điểm về hình phạt áp dụng cho đối tượng này.
Hình phạt theo Điều 31 BLHS năm 2015 không chỉ nhằm trừng trị cá nhân và pháp nhân thương mại vi phạm pháp luật, mà còn có mục đích giáo dục họ về việc tuân thủ pháp luật và các quy tắc xã hội, từ đó ngăn ngừa tái phạm Ngoài ra, hình phạt còn nhằm giáo dục cộng đồng tôn trọng pháp luật, góp phần phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Mục đích của hình phạt mà Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội là đạt được những kết quả cuối cùng, bao gồm việc răn đe, giáo dục, và bảo vệ xã hội.
Mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt là nhằm tác động trực tiếp đến người phạm tội, với hai mục tiêu chính: trừng trị và cải tạo, giáo dục họ Khi người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, hình phạt được áp dụng như một biện pháp cưỡng chế để ngăn chặn tái phạm và khôi phục ý thức pháp luật.
Luật hình sự bảo vệ 16 quan hệ xã hội quan trọng, do đó cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc đối với người phạm tội Điều này giúp họ nhận thức rõ ràng về hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm, từ đó răn đe để ngăn chặn tái phạm Mục tiêu nhân bản hơn là giáo dục và cải tạo họ thành những công dân lương thiện, có ích cho xã hội Hình phạt không chỉ mang tính răn đe và trừng trị mà còn tạo ra cơ hội cho người phạm tội sửa chữa sai lầm và tái hòa nhập cộng đồng.
Mục đích phòng ngừa chung của hình phạt không chỉ nhằm răn đe người phạm tội mà còn tác động tích cực đến cộng đồng xã hội, khuyến khích họ tôn trọng pháp luật và tham gia vào công tác phòng chống tội phạm Hình phạt có thể ảnh hưởng đến những cá nhân dễ bị lôi kéo vào con đường phạm pháp, như những người chưa nhận thức đầy đủ về pháp luật hoặc đang có ý định thực hiện tội phạm Qua việc áp dụng hình phạt, Nhà nước cũng truyền tải thông điệp pháp luật, giáo dục và răn đe, từ đó giúp người dân tin tưởng vào sự nghiêm minh và công bằng của hệ thống pháp luật.
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) được quy định tại Điều 31 BLHS năm 2015, là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, áp dụng cho người dưới 18 tuổi Mục đích chính của hình phạt này là tước bỏ hoặc hạn chế quyền lợi của NCTNPT, nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho họ, đồng thời giáo dục và giúp họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
1.2.2 Cơ sở của việc quy định các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Cơ sở cho những quy định về các hình phạt áp dụng với NCTNPT có thể xem xét ở các khía cạnh sau:
Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
người chưa thành niên phạm tội
1.3.1 Khái quát lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
❖ Quy định của PLHS Việt Nam thời Phong kiến
Trong thời kỳ phong kiến trung đại, Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) năm 1483 dưới triều đại vua Lê Thánh Tông đã đặt ra những quy định pháp lý nổi bật Bộ luật này quy định các hình phạt chính bao gồm ngũ hình: xuy hình (đánh bằng roi), trượng hình (đánh bằng gậy), đồ hình (bắt làm việc nặng nhọc), lưu hình (đày đi nơi xa) và tử hình Ngoài ra, còn có các hình phạt khác như biếm tư, phạt tiền và tịch thu tài sản Đặc biệt, Bộ luật không quy định riêng về độ tuổi của người chưa thành niên cũng như hình phạt áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội, nhưng Điều 16 đã nêu rõ nguyên tắc áp dụng hình phạt cho một số đối tượng nhất định.
Theo quy định pháp luật, người dưới 15 tuổi khi phạm tội có thể được chuộc bằng tiền, tức là không phải chịu hình phạt, trừ những trường hợp phạm tội thập ác.
Trẻ em dưới 10 tuổi không bị coi là tội phạm, ngoại trừ các trường hợp như ăn trộm hoặc gây thương tích cho người khác, trong đó có thể được chuộc bằng tiền Tuy nhiên, nếu phạm tội phản nghịch hoặc giết người, thì phải trình báo với vua để được xem xét hình phạt thích hợp.
- Người 07 tuổi trở xuống dù có bị tội chết cũng không hành hình
Trong thời kỳ này, hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) chưa được quy định cụ thể Theo Bộ luật Hồng Đức, người từ 15 tuổi trở lên phải chịu hình phạt như những người đã thành niên, trong khi người dưới 15 tuổi có thể được chuộc tiền tùy theo độ tuổi và có thể không bị áp dụng hình phạt, nhưng nếu phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, vẫn có thể bị xử lý nghiêm khắc, thậm chí là tử hình.
❖ Quy định của PLHS Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985
Trong giai đoạn hiện nay, công tác xây dựng pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự, vẫn còn nhiều hạn chế Mặc dù Nhà nước đã có những nỗ lực trong việc ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh quan hệ pháp luật hình sự, nhưng vấn đề hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội vẫn chưa được quy định chính thức trong các văn bản luật Thay vào đó, các quy định này chủ yếu được thể hiện qua các hướng dẫn áp dụng pháp luật của Tòa án.
Chỉ thị số 46-TH ngày 14/01/1969 của Tòa án nhân dân tối cao đã quy định rõ về việc xử lý trẻ em vi phạm pháp luật, nhấn mạnh rằng trẻ em dưới 14 tuổi sẽ không bị đưa ra xét xử Đối với trẻ từ 14 đến 18 tuổi, nếu cần thiết phải xét xử, sẽ xem xét đến độ tuổi còn non trẻ của các em, và riêng trẻ từ 14 đến 16 tuổi chỉ nên xét xử trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng Đây là lần đầu tiên vấn đề trách nhiệm hình sự của trẻ em được đề cập trong văn bản của Tòa án, xác định rõ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và phân hóa mức độ chịu trách nhiệm của trẻ em Nội dung “châm chước đến tuổi còn non trẻ” cũng được đưa ra làm căn cứ cho việc xử lý trẻ em vi phạm pháp luật.
Báo cáo tổng kết công tác 04 năm (1965 – 1968) của Tòa án nhân dân tối cao đã xác định những nội dung tương tự nhưng với những bước tiến mới đáng kể.
- Về độ tuổi chịu TNHS: NCTN phải chịu TNHS khi tuổi đủ 14 tuổi tròn trở lên chứ không phải là đến 14 tuổi
Báo cáo về phân hóa trách nhiệm hình sự (TNHS) cho thấy mức độ chịu TNHS của người chưa thành niên (NCTN) phụ thuộc rõ rệt vào độ tuổi Cụ thể, đối với lứa tuổi từ 14 đến 16, chỉ những trường hợp phạm tội nghiêm trọng như giết người, cướp tài sản, hay hiếp dâm mới bị truy tố và xét xử.
Hiếp dâm chỉ nên được truy tố và xét xử trong những trường hợp nghiêm trọng, và đối với người từ 16 đến dưới 18 tuổi, chỉ xử lý khi hành vi phạm pháp có tính chất tương đối nghiêm trọng.
Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) vẫn giữ nguyên giá trị, với hai nguyên tắc quan trọng: "xử nhẹ hơn so với người lớn" và "chủ yếu là giáo dục" Những nguyên tắc này được quy định chính thức trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 91.
Theo Bản tổng kết số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao, tội giết người là hành vi nguy hiểm, và người từ 14 tuổi trở lên có thể nhận thức được tính chất của tội phạm này Do đó, cần truy tố tội giết người đối với người từ 14 tuổi trở lên, nhưng mức hình phạt nên nhẹ hơn so với người lớn, với hình phạt tối đa chỉ 15 năm tù cho người từ 14 đến 16 tuổi Đối với người từ 16 đến dưới 18 tuổi, hình phạt cũng có thể nhẹ hơn một phần so với người lớn Bản tổng kết này nhấn mạnh quan điểm không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.
Trước khi Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985 ra đời, Việt Nam không có văn bản luật chính thức quy định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) Hệ thống pháp luật hình sự trong giai đoạn này chủ yếu là tập hợp các pháp lệnh và sắc lệnh, cùng với một số văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật trong ngành Tòa án Điều này cho thấy sự thiếu hụt trong quy định pháp lý về hình phạt dành cho NCTNPT trong giai đoạn trước 1985.
- Pháp luật thời kỳ này quy định NCTN là người chưa đủ 18 tuổi, tuổi chịu TNHS là từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
- Các hình phạt có thể áp dụng đối với NCTNPT: cảnh cáo, tù có thời hạn
- Không áp dụng hình phạt chung thân, tử hình đối với NCTNPT
- Hình phạt áp dụng đối với NCTNPT có mức độ giảm nhẹ hơn so với hình phạt áp dụng cho NĐTN
- Hình phạt áp dụng đối với NCTN mục đích chủ yếu là giáo dục, cải tạo
❖ Quy định của BLHS năm 1985 về các hình phạt áp dụng đối với NCTNPT
BLHS năm 1985 đã quy định một chương riêng cho NCTNPT (Chương 7), nhưng không giải quyết toàn bộ vấn đề liên quan, chỉ đưa ra một số quy định cụ thể Do đó, TNHS của NCTNPT cần được xem xét theo cả Chương 7 và các quy định chung khác của BLHS năm 1985 Chương 7 là cơ sở pháp lý ưu tiên khi xác định TNHS đối với NCTNPT, tuy nhiên, các quy định khác trong Phần thứ nhất của BLHS vẫn có thể áp dụng miễn là không trái với Chương 7 (Điều 57 BLHS năm 1985) Về hình phạt áp dụng cho NCTNPT theo BLHS năm 1985, có những nội dung quan trọng cần lưu ý.
Hình phạt chỉ được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội khi thật sự cần thiết, dựa trên mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân của người vi phạm và yêu cầu của công tác phòng ngừa, theo quy định tại khoản 3 Điều 59.
Các hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) bao gồm cảnh cáo, cải tạo không giam giữ (CTKGG) và tù có thời hạn Hình phạt cảnh cáo không có quy định riêng cho NCTNPT, nên áp dụng theo quy định chung Đối với CTKGG, không được khấu trừ thu nhập của NCTN Về hình phạt tù có thời hạn, NCTNPT được hưởng mức án nhẹ hơn so với người trưởng thành; cụ thể, nếu hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, mức án tối đa cho người từ 16 tuổi trở lên là 20 năm tù, và với người từ 14 đến dưới 16 tuổi, mức án cũng được giảm nhẹ.
HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Quy định của BLHS Liên bang Nga về các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
chưa thành niên phạm tội
Bộ luật Hình sự Liên bang Nga (BLHS) được Đuma Quốc gia thông qua vào ngày 24/5/1996, phê chuẩn bởi Hội đồng Liên bang vào ngày 05/6/1996 và được Tổng thống ký ban hành vào ngày 13/6/1997 Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/1997 và đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, với lần cập nhật gần nhất vào ngày 05/4/2021 Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 20 của BLHS Liên bang Nga.
- Người đủ 16 tuổi thì phải chịu TNHS về mọi loại tội phạm
Theo quy định pháp luật, người từ đủ 14 tuổi sẽ chịu trách nhiệm hình sự về một số tội danh như: Tội giết người (Điều 105), Tội cố ý gây tổn hại sức khỏe trung bình (Điều 112), Tội hiếp dâm (Điều 131), cùng với các tội xâm phạm tài sản như trộm cắp, cướp giật, cướp và cưỡng đoạt tài sản Ngoài ra, người từ 14 tuổi cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội chiếm đoạt hoặc cưỡng đoạt chất ma túy hoặc chất hướng thần (Điều 229).
Pháp luật quy định rằng nếu người chưa thành niên đủ tuổi nhưng do chậm phát triển tâm lý, không phải rối loạn tâm thần, khi thực hiện hành vi phạm tội mà không nhận thức đầy đủ tính chất và mức độ nguy hiểm của hành động hoặc không thể hoàn toàn kiểm soát hành vi của mình, thì sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, khoản 1 Điều 87 BLHS Liên bang Nga có quy định: “NCTN là người lúc thực hiện tội phạm đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi”
Theo quy định của BLHS Liên bang Nga thì NCTNPT được hiểu là người từ đủ
14 tuổi đến dưới 18 tuổi, không thuộc trường hợp không có năng lực TNHS, thực hiện hành vi phạm tội bị BLHS cấm
Trong Bộ luật Hình sự Liên bang Nga, hình phạt được quy định tại Chương 3, bao gồm khái niệm, mục đích và các loại hình phạt Hình phạt được xem là biện pháp cưỡng chế Nhà nước áp dụng cho người bị coi là có tội, thể hiện qua việc tước đoạt hoặc hạn chế quyền và tự do của họ (khoản 1 Điều 43) Mục tiêu của hình phạt là khôi phục công bằng xã hội, cải tạo người phạm tội và ngăn ngừa các tội phạm mới (khoản 2 Điều 43) Hệ thống hình phạt của PLHS Liên bang Nga bao gồm 13 hình phạt chính và hình phạt bổ sung, cùng với các điều kiện áp dụng cụ thể được quy định trong các Điều 46 đến Điều 57 và Điều 59.
Đối với NCTNPT, hình phạt được quy định tại Chương V của Bộ luật Hình sự Liên bang Nga, theo đó có 07 loại hình phạt có thể áp dụng: phạt tiền, tước quyền tiến hành hoạt động nhất định, lao động bắt buộc, lao động cải tạo, hạn chế tự do, phạt giam, và tù có thời hạn.
Phạt tiền là hình thức xử lý vi phạm pháp luật, trong đó một khoản tiền sẽ bị tước đoạt theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) tại khoản 1 Điều 46 Hình phạt này áp dụng cụ thể đối với người có hành vi vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 46.
Hình phạt tiền có thể áp dụng đối với người chưa thành niên từ 14 đến dưới 18 tuổi, bao gồm cả trường hợp có thu nhập hoặc tài sản riêng và không có tài sản Phạt tiền có thể được xem là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung Tuy nhiên, nếu phạt tiền là hình phạt bổ sung, chỉ được áp dụng trong những trường hợp được quy định bởi các điều luật tương ứng trong Bộ luật Hình sự.
Mức phạt đối với hành vi vi phạm có thể dao động từ 1.000 rúp đến 50.000 rúp, hoặc tương đương với mức lương hay thu nhập khác của người bị kết án trong khoảng thời gian từ 02 tuần đến 06 tháng Đối với những hành vi vi phạm theo Nghị định Thư Nghị (NĐTN), mức phạt sẽ cao hơn, từ 5.000 rúp đến 5.000.000 rúp, hoặc tiền lương hay thu nhập khác bị tính từ 02 tuần đến 05 năm, dựa trên bội số của vật hoặc tiền liên quan đến thương mại hoặc hối lộ.
- Nếu được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của NCTN thì Tòa án có thể tịch thu tiền phạt từ những người này
➢ Tước quyền tiến hành hoạt động nhất định
Pháp luật không có quy định riêng về hình phạt đối với NCTNPT, vì vậy quy định chung tại Điều 47 BLHS Liên bang Nga được áp dụng Khi áp dụng Điều 47 cho NCTNPT, điều khoản cấm đảm nhiệm chức vụ không được đề cập do NCTN chưa đủ tuổi để đảm nhận bất kỳ chức vụ nào Do đó, việc tước quyền tiến hành hoạt động nhất định có nghĩa là cấm người bị kết án thực hiện một số hoạt động và công việc cụ thể.
NCTNPT từ 14 đến dưới 18 tuổi có thể bị áp dụng hình phạt chính hoặc bổ sung Hình phạt bổ sung chỉ được áp dụng khi không có quy định cụ thể trong điều luật, dựa trên mức độ và tính chất nguy hiểm của tội phạm cũng như nhân thân người phạm tội Tòa án sẽ xem xét để đảm bảo rằng người vi phạm không tiếp tục thực hiện các hoạt động có thể gây hại cho xã hội (khoản 3 Điều 47).
Thời hạn áp dụng hình phạt tước quyền tiến hành hoạt động đối với NCTN tương tự như NĐTN Cụ thể, nếu hình phạt này được áp dụng như hình phạt chính, thời gian sẽ từ 01 năm đến 05 năm (theo khoản 2 Điều 47) Trong trường hợp hình phạt này là hình phạt bổ sung, mức phạt tối đa có thể lên đến 20 năm, tùy thuộc vào quy định cụ thể tại các điều luật Phần Riêng (khoản 2 Điều 47).
Lao động bắt buộc là hình thức phạt dành cho những người bị kết án, yêu cầu họ thực hiện công việc có ích cho xã hội ngoài giờ làm việc và học tập (khoản 1 Điều 49) Đối với người chưa thành niên phạm tội, hình phạt này được quy định tại khoản 3 Điều 88 với những đặc điểm riêng biệt.
Lao động bắt buộc là hình phạt chỉ áp dụng cho đối tượng là người chưa thành niên, cụ thể là những cá nhân từ 14 đến 16 tuổi Đối với những người từ 17 đến 18 tuổi, hình phạt này không được áp dụng.
Thời hạn lao động bắt buộc được quy định từ 40 đến 60 giờ, so với NĐTN là từ 60 đến 480 giờ Thời gian lao động hàng ngày thay đổi theo độ tuổi: trẻ em dưới 15 tuổi không được làm quá 2 giờ mỗi ngày, trong khi thanh thiếu niên từ 15 đến 16 tuổi có thể làm tối đa 3 giờ mỗi ngày.
Loại hình lao động bắt buộc dành cho người bị kết án sẽ được quyết định bởi cơ quan tự quản địa phương, với sự đồng ý của cơ quan thi hành án dân sự Theo quy định tại khoản 1 Điều 49, người chấp hành hình phạt có thể thực hiện các công việc phù hợp với sức khỏe của họ trong thời gian ngoài giờ học tập hoặc làm việc chính, nhằm đảm bảo sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần cho người chấp hành án.
Những điểm tương đồng và khác biệt so với quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
So sánh các quy định pháp luật về hình phạt đối với NCTNPT của Bộ luật Hình sự Liên bang Nga với Bộ luật Hình sự năm 2015 của Việt Nam cho thấy có những điểm tương đồng đáng chú ý Cả hai hệ thống pháp luật đều nhấn mạnh tính nghiêm khắc của hình phạt và mục tiêu cải tạo người phạm tội, đồng thời quy định rõ ràng về các hình thức xử lý cũng như các yếu tố giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) của người chưa thành niên (NCTN) ở hai quốc gia là giống nhau, quy định rằng NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi sẽ chịu TNHS Cụ thể, NCTN từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS cho mọi loại tội phạm, trong khi NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu TNHS khi phạm một số tội danh được liệt kê cụ thể theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, khái niệm và mục đích của hình phạt đều được quy định cụ thể trong
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế do Tòa án quyết định áp dụng đối với người phạm tội, nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền và lợi ích của họ Mục đích chính của hình phạt không chỉ là trừng trị mà còn giáo dục người phạm tội, đồng thời phòng ngừa hành vi vi phạm cho những người khác.
Thứ ba, PLHS cả hai nước đều xây dựng Chương riêng quy định TNHS với NCTN Đối với BLHS Liên bang Nga là Chương V – TNHS của NCTN, BLHS năm
Chương XII của Bộ luật Hình sự 2015 quy định những điều khoản liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội, bao gồm hệ thống hình phạt và các hình phạt cụ thể áp dụng cho đối tượng này.
Quy định về hình phạt áp dụng cho NCTNPT có tính chất nhẹ hơn so với NĐTN, cụ thể là NCTNPT chỉ bị xem xét áp dụng một số hình phạt nhất định.
Trong hệ thống hình phạt áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội, không áp dụng hình phạt tù chung thân và tử hình do tính nghiêm khắc của các hình phạt này Mức phạt cho từng loại hình phạt cũng thấp hơn so với người đã thành niên Ví dụ, thời gian lao động bắt buộc đối với người chưa thành niên là từ 40 đến 160 giờ, trong khi quy định chung là từ 60 giờ trở lên.
Thời gian lao động cải tạo tối đa là 480 giờ, trong khi đó, thời hạn lao động cải tạo chỉ kéo dài đến 01 năm, thay vì 02 tháng đến 02 năm như trước Đối với người dưới 16 tuổi, mức án phạt tù tối đa không vượt quá 06 năm.
Cả Bộ luật Hình sự Việt Nam và Liên bang Nga đều quy định hình phạt tiền và hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội Trong đó, hình phạt tù có thời hạn được xem là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống xử lý đối với người bị kết án là người chưa thành niên.
Bên cạnh những nội dung tương đồng thì BLHS Liên bang Nga và BLHS năm
2015 vẫn có những điểm khác biệt trong quy định về hình phạt áp dụng với NCTNPT như sau:
So với Bộ luật Hình sự năm 2015 của Việt Nam, số lượng hình phạt áp dụng đối với người có hành vi phạm tội trong Bộ luật Hình sự Liên bang Nga đa dạng hơn Việt Nam chỉ quy định bốn loại hình phạt gồm cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn (Điều 98), trong khi Nga có đến bảy loại hình phạt, bao gồm phạt tiền, tước quyền tiến hành hoạt động nhất định, lao động bắt buộc, lao động cải tạo, hạn chế tự do, tù có thời hạn (khoản 1 Điều 88) và phạt giam (Điều 54) Điều này cho thấy Việt Nam không ghi nhận một số hình phạt như tước quyền tiến hành hoạt động nhất định, lao động bắt buộc, lao động cải tạo, hạn chế tự do và phạt giam Hơn nữa, hình phạt cảnh cáo, mặc dù là hình phạt chính theo Bộ luật Hình sự năm 2015, lại được xem là một trong những biện pháp giáo dục bắt buộc trong Bộ luật Hình sự Liên bang Nga (điểm a khoản 2 Điều 90).
Theo Điều 99 Bộ luật Hình sự năm 2015, hình phạt tiền chỉ áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, với điều kiện người này có thu nhập hoặc tài sản riêng Mức phạt tiền không vượt quá một phần hai mức quy định.
Trong Bộ luật Hình sự Liên bang Nga, hình phạt tiền có thể áp dụng cho người chưa thành niên từ 14 đến dưới 16 tuổi, bao gồm cả trường hợp không có thu nhập hoặc tài sản riêng Tòa án có quyền quyết định tịch thu tiền phạt từ cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người vi phạm, điều này khác biệt so với quy định của pháp luật Việt Nam, nơi chỉ người phạm tội mới phải thực hiện hình phạt Ngoài ra, pháp luật Việt Nam không quy định về thời hạn chấp hành hình phạt tiền, trong khi theo Điều 46 BLHS Liên bang Nga, Tòa án có thể cho phép trả dần tiền phạt trong một khoảng thời gian nhất định dựa trên nhiều yếu tố.
Theo quy định của BLHS Nga, hình phạt tiền có thể thay thế bằng hình phạt khác nếu người bị kết án cố tình trốn tránh việc nộp tiền, ngoại trừ hình phạt tù Mức tiền phạt được ấn định từ 1.000 rúp đến 50.000 rúp hoặc tương đương với thu nhập của người bị kết án trong khoảng thời gian từ 02 tuần đến 06 tháng, mức này đã được giảm so với quy định chung áp dụng cho những người phạm tội.
Theo Bộ luật Hình sự Liên bang Nga, mức phạt tù có thời hạn đã được điều chỉnh thấp hơn so với năm 2015 Đối với người chưa thành niên phạm tội từ 14 đến dưới 16 tuổi, mức phạt tối đa là 6 năm, trong khi đó nếu phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, mức phạt tối đa không vượt quá 10 năm Đối với người từ 16 đến dưới 18 tuổi, mức phạt tối đa cũng được quy định rõ ràng, nhằm đảm bảo tính hợp lý và công bằng trong xử lý tội phạm.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, mức án tối đa cho các tội danh có hình phạt tù chung thân hoặc tử hình không vượt quá 18 năm, trong khi đó, đối với tù có thời hạn, mức hình phạt cao nhất chỉ được tính là ba phần tư so với mức phạt mà điều luật quy định Điều này cho thấy rằng quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam có tính nghiêm khắc hơn so với Bộ luật Hình sự Liên bang Nga.
Hình phạt tước quyền tiến hành hoạt động nhất định là một trong những hình phạt áp dụng với người chịu trách nhiệm hình sự tại Nga, với thời hạn từ 01 đến 05 năm nếu là hình phạt chính và từ 06 tháng đến 03 năm nếu là hình phạt bổ sung, có thể lên đến 20 năm tùy theo quy định của điều luật Tuy nhiên, tại Việt Nam, hình phạt này không được ghi nhận cho người chịu trách nhiệm hình sự Hình phạt này tương tự như hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định theo Điều 41 BLHS năm 2015, nhưng ở Việt Nam, đây chỉ là hình phạt bổ sung và không áp dụng cho người chịu trách nhiệm hình sự, do đó, họ sẽ không bị cấm làm những công việc nhất định.
Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của BLHS Ukraine
2.2.1 Quy định của BLHS Ukraine về các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
BLHS hiện hành của Ukraine, có hiệu lực từ ngày 01/9/2001, được ban hành vào ngày 05/4/2001 và đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, với lần cập nhật mới nhất vào ngày 18/9/2012.
Về độ tuổi chịu TNHS, Điều 22 BLHS Ukraine quy định như sau:
- Đối với người đủ 16 tuổi trở lên tại thời điểm phạm tội thì phải chịu TNHS về mọi loại tội phạm
Theo quy định pháp luật, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm cụ thể, bao gồm tội giết người (Điều 115 – 117), cố ý gây tổn hại nghiêm trọng cho sức khỏe (Điều 121, khoản 3 Điều 345, 346, 350, 377, 398), hiếp dâm (Điều 152), và các tội liên quan đến tài sản như trộm cắp (Điều 185, khoản 1 Điều 262, 308), cướp giật (Điều 186, 262, 308), cùng với tội côn đồ (Điều 296).
BLHS Ukraine không quy định rõ về khái niệm NCTNPT, nhưng từ các điều luật như “đối với NCTN từ 16 tuổi đến 18 tuổi” (Điều 100), “NCTN… đã đủ 16 tuổi” (Điều 101) và “người phạm tội chưa đủ 18 tuổi” (Điều 102), có thể xác định NCTNPT theo quan điểm của pháp luật hình sự.
Ukraine là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có năng lực TNHS, thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm
Trong Chương X của Bộ luật Hình sự Ukraine, hình phạt được định nghĩa là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nhằm hạn chế quyền và tự do của người bị kết án Mục đích của hình phạt không chỉ là trừng trị mà còn để cải tạo và phòng ngừa tội phạm Theo Điều 50, hình phạt không được gây đau đớn thể xác hoặc làm hạ thấp nhân phẩm Bộ luật quy định một hệ thống gồm 12 loại hình phạt, bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
Theo Bộ luật Hình sự Ukraine, NCTNPT được quy định tại Chương XV, nơi nêu rõ các hình phạt áp dụng cho tội phạm này Cụ thể, Điều 98 xác định rằng NCTNPT có thể bị coi là có tội và phải chịu các hình phạt như phạt tiền hoặc lao động.
47 công ích, lao động cải tạo, phạt giam, tù có thời hạn và hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc tiến hành hoạt động nhất định
Phạt tiền là hình thức xử lý tài chính do Tòa án áp dụng, theo quy định tại Phần Riêng của Bộ luật Hình sự (khoản 1 Điều 53) Tại Ukraine, hình phạt này có thể được sử dụng như một hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên (khoản 1, 2 Điều 98).
Điều kiện áp dụng cho việc tịch thu tài sản là đối với người chưa thành niên từ 14 đến dưới 18 tuổi, trong trường hợp họ có thu nhập hoặc tài sản riêng có khả năng bị tịch thu.
Mức phạt cho tội phạm phụ thuộc vào độ nghiêm trọng và tình trạng tài sản của người có nghĩa vụ, với mức tối đa không vượt quá 500 lần thu nhập tối thiểu không chịu thuế Theo Điều 99 của Nghị định, mức phạt có thể dao động từ 30 đến 1000 lần nếu luật hình sự không quy định mức phạt cao hơn, theo khoản 2 Điều 53.
Lao động công ích là hình thức phạt dành cho những người bị kết án, yêu cầu họ thực hiện các công việc có ích cho xã hội mà không nhận thù lao Thời gian thực hiện lao động này diễn ra ngoài giờ làm việc hoặc học tập, theo quyết định của cơ quan quản lý địa phương (khoản 1 Điều 56).
Theo khoản 1 Điều 100, hình phạt này chỉ áp dụng đối với những người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và có nơi cư trú rõ ràng.
Thời hạn áp dụng hình phạt lao động công ích cho người chấp hành án là từ 30 đến 120 giờ, với thời gian thực hiện không quá 02 giờ mỗi ngày, khác với quy định trước đây là từ 60 đến 240 giờ và tối đa 04 giờ mỗi ngày.
Theo khoản 2 Điều 57 BLHS Ukraine, hình phạt lao động cải tạo chỉ áp dụng cho người chưa đủ 18 tuổi, cụ thể là từ 16 đến dưới 18 tuổi Để thực hiện hình phạt này, người bị kết án cần có một nơi làm việc cụ thể và có thu nhập, vì nơi chấp hành án sẽ là tại nơi làm việc Hơn nữa, Tòa án có quyền khấu trừ từ 5% đến 10% thu nhập của người bị kết án lao động cải tạo theo quy định tại khoản 2 Điều 100.
- Thời hạn áp dụng: từ 02 tháng đến 01 năm (so với NĐTN là 06 tháng đến
Sau khi có bản án của Tòa án, nếu người bị kết án mất khả năng lao động, Tòa án có thể chuyển đổi hình phạt lao động cải tạo sang hình phạt tiền Mức quy đổi được xác định là mỗi tháng lao động cải tạo tương đương với ba lần mức thu nhập tối thiểu không chịu thuế, theo quy định tại khoản 3 Điều 57.
Phạt giam là hình thức giam giữ người bị kết án trong điều kiện cách ly xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, theo quy định tại khoản 1 Điều 60 Trong hệ thống hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, phạt giam được xem là hình phạt nghiêm khắc thứ hai sau hình phạt tù có thời hạn Hình phạt này không chỉ tước đoạt tự do của người bị kết án mà còn cách ly họ khỏi cộng đồng, mặc dù thời gian phạt giam thường ngắn hơn nhiều so với hình phạt tù có thời hạn.
Hình phạt này không áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) trong độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi Do đó, người bị kết án sẽ không bị xử phạt nếu họ đã đủ tuổi tại thời điểm Tòa tuyên án.
16 tuổi thì mới có thể bị áp dụng hình phạt này (Điều 101)
- Thời hạn áp dụng: từ 15 đến 45 ngày, tại các cơ sở hỗ trợ đặc biệt (Điều
Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của BLHS Trung Hoa
2.3.1 Quy định của BLHS Trung Hoa về các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Bộ luật Hình sự (BLHS) của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lần đầu tiên được thông qua vào ngày 01/7/1979 tại kỳ họp lần thứ hai của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ V BLHS đã trải qua nhiều lần sửa đổi, trong đó có sự sửa đổi quan trọng vào ngày 14/3/1997 theo Sắc lệnh số 83 của Chủ tịch nước Gần đây nhất, vào ngày 01/3/2021, Tu chính án XI (Sửa đổi) của Luật Hình sự năm 2017 đã có hiệu lực, tiếp tục cập nhật và hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự tại Trung Quốc.
Về độ tuổi chịu TNHS được quy định tại Điều 17 BLHS Trung Hoa như sau:
- Người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi loại tội phạm
Người từ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong các trường hợp phạm tội nghiêm trọng như giết người, cố ý gây thương tích dẫn đến thương tích nặng hoặc tử vong, hiếp dâm, cướp tài sản, buôn bán ma túy, gây nổ hoặc phát tán chất độc.
Người từ 12 đến dưới 14 tuổi phạm tội giết người hoặc cố ý gây thương tích dẫn đến chết người hoặc gây thương tật nghiêm trọng cho người khác bằng những thủ đoạn tàn ác sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu được Viện kiểm sát tối cao phê chuẩn truy tố.
Theo Điều 17, người dưới 18 tuổi sẽ chịu trách nhiệm hình sự nhưng có thể nhận hình phạt nhẹ hơn hoặc được giảm nhẹ.
Theo Bộ luật Hình sự Trung Hoa, người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) được xác định là những cá nhân từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi bị coi là tội phạm.
Chương III Bộ luật Hình sự Trung Hoa quy định các nội dung về hình phạt từ Điều 32 đến Điều 60 Hệ thống hình phạt được xác định tại Điều 33, 34 và 35, bao gồm các loại hình phạt khác nhau nhằm đảm bảo tính công bằng và hiệu quả trong việc xử lý vi phạm pháp luật.
Trong hệ thống pháp luật, có năm loại hình phạt chính bao gồm quản chế, cải tạo lao động, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình Bên cạnh đó, còn có bốn hình phạt bổ sung là phạt tiền, tước quyền chính trị, tịch thu tài sản và trục xuất.
Theo Điều 17 Bộ luật Hình sự Trung Hoa, nguyên tắc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội quy định rằng những người dưới 18 tuổi sẽ được hưởng mức hình phạt nhẹ hơn hoặc giảm nhẹ Cụ thể, nếu người bị kết án từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi, họ sẽ bị áp dụng hình phạt nhưng với mức độ nhẹ hơn hoặc hình phạt khác nhẹ hơn so với hình phạt thông thường Nguyên tắc này được làm rõ trong Giải thích một số vấn đề ứng dụng pháp luật liên quan đến thụ lý các vụ án hình sự của người vị thành niên do Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 11/01/2006.
Theo Giải thích của Tòa án tối cao ngày 11/01/2006, người phạm tội dưới 18 tuổi khi tuyên án sẽ được xem xét áp dụng hình phạt nhẹ hơn hoặc giảm nhẹ theo Điều 12.
NCTNPT khi phạt tiền thì mức án sẽ được giảm nhẹ, căn cứ vào hoàn cảnh phạm tội và khả năng nộp phạt của người đó (Điều 15),…
Theo quy định của Bộ luật Hình sự, các nhà lập pháp Trung Quốc chưa xây dựng quy định riêng cho người chưa thành niên phạm tội Do đó, việc tìm hiểu các hình phạt áp dụng cho đối tượng này sẽ dựa vào Chương III – Hình phạt.
❖ Các hình phạt có thể được áp dụng đối với NCTNPT
Quản chế là hình phạt nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt, được quy định tại Mục
Chương III (từ Điều 38 – Điều 41) quy định rằng hình phạt quản chế không làm mất tự do của người bị kết án, cho phép họ tiếp tục công việc và sống cùng gia đình, nhưng vẫn phải chịu sự giám sát cải tạo từ cơ quan có thẩm quyền và cộng đồng.
Quản chế chỉ được áp dụng như hình phạt chính cho những người phạm tội ít nghiêm trọng, có hành vi xã hội nguy hiểm thấp và nhân thân tốt Đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu họ lẽ ra phải nhận án tù có thời hạn hoặc án tù không quá 03 năm nhưng đáp ứng đủ các điều kiện như tình tiết phạm tội ít nghiêm trọng, ăn năn hối cải, không có khả năng tái phạm và việc thông báo về quản chế không gây tác động tiêu cực đến cộng đồng, Tòa án sẽ quyết định áp dụng hình phạt quản chế.
- Thời hạn áp dụng: từ 03 tháng đến 02 năm (Điều 38)
Người chịu hình phạt quản chế sẽ bị hạn chế tự do, bao gồm việc cấm tham gia vào một số hoạt động, không được vào các khu vực nhất định và không được tiếp xúc với một số người trong thời gian thi hành án (Điều 38) Họ cũng không được thực hiện các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp và lập hội.
57 rước kiệu và biểu tình mà không có sự chấp thuận của cơ quan thi hành án quản chế (khoản 2 Điều 39), …
Cải tạo lao động hình phạt tước bỏ tự do là biện pháp yêu cầu người phạm tội thực hiện lao động cải tạo trong thời gian ngắn, do cơ quan công an gần nhất thi hành án Hình phạt này được quy định tại Mục 3 Chương III Bộ luật Hình sự Trung Hoa, bao gồm ba điều luật: Điều 42, 43 và 44.
Hình phạt cải tạo lao động được áp dụng cho những hành vi phạm tội ít nghiêm trọng, đặc biệt là đối với người phạm tội có nhân thân tốt và là lần đầu vi phạm Trong hệ thống hình phạt của Trung Hoa, hình phạt này nặng hơn quản chế nhưng nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn Nếu áp dụng quản chế thì quá nhẹ, trong khi hình phạt tù có thời hạn lại quá nặng, do đó Tòa án có thể xem xét áp dụng hình phạt cải tạo lao động.
- Thời hạn áp dụng: từ 01 tháng đến 06 tháng (Điều 42)