TỔNG QUAN
Tổng quan về suy tim
Theo ESC 2016, suy tim là hội chứng lâm sàng với các triệu chứng điển hình như khó thở, phù chân và mệt mỏi Hội chứng này có thể kèm theo các dấu hiệu như tĩnh mạch cổ nổi, ran phổi và phù ngoại vi, do bất thường cấu trúc và/hoặc chức năng tim mạch gây ra, dẫn đến giảm cung lượng tim và/hoặc áp lực trong tim cao, cả khi nghỉ ngơi và khi gắng sức.
Bảng 1.1: Phân loại suy tim theo EF [69]
Suy có phân suất tống máu giảm hay suy tim EF giảm (EF giảm) < 40%
Suy tim phân suất tống máu khoảng giữa (EF khoảng giữa) 40%- 49% Suy tim phân suất tống máu bảo tồn (EF bảo tồn) ≥ 50%
Suy tim là một vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng, với khoảng 5.8 triệu ca mắc ở Mỹ và hơn 23 triệu ca trên toàn cầu Tỉ lệ mắc mới đang gia tăng, trong khi tỉ lệ sống sau chẩn đoán cũng cải thiện nhờ các tiến bộ trong điều trị, dẫn đến số lượng bệnh nhân suy tim ngày càng tăng Năm 1999, suy tim đã gây ra cái chết cho khoảng 287,200 người tại Mỹ, với tỉ lệ tử vong năm năm sau chẩn đoán lên đến 50% Rối loạn chức năng thất trái là yếu tố liên quan mật thiết đến nguy cơ đột tử trong bệnh nhân suy tim.
Một nghiên cứu dịch tễ của ESC trên 9.134 bệnh nhân suy tim đã phân nhóm thành suy tim với EF giảm, EF bảo tồn và EF khoảng giữa Kết quả cho thấy bệnh nhân suy tim EF giảm có tỷ lệ nam giới cao hơn nữ giới (78%), với nguyên nhân chính là bệnh tim thiếu máu cục bộ (49%).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tỉ lệ tử vong 1 năm ở nhóm suy tim EF giảm cao hơn so với suy tim EF bảo tồn
(8,8% so với 6.3%) Huyết áp tâm thu thấp, nhịp tim nhanh, là những yếu tố tiên lượng tử vong ở những bệnh nhân suy tim EF giảm [37]
Suy tim thường được xem là một bệnh lý liên quan đến tuổi già, với tỷ lệ khoảng 6-10% người trên 65 tuổi mắc phải Đáng chú ý, khoảng 80% bệnh nhân nhập viện do suy tim đều ở độ tuổi này.
Nghiên cứu HANES 2013 – 2014 chỉ ra rằng, yếu tố nguy cơ chính dẫn đến suy tim tại Mỹ là bệnh tim thiếu máu cục bộ Tiếp theo là các yếu tố như tăng huyết áp, đái tháo đường và tuổi tác từ 65 trở lên.
1.1.3.1 Suy tim do bệnh tim thiếu máu cục bộ Ước tính bệnh mạch vành là nguyên nhân của khoảng 70% các trường hợp suy tim ở Hoa Kỳ thay vì tăng huyết áp và bệnh lí van tim như mô hình trước đây
Tỉ lệ mắc bệnh tim thiếu máu cục bộ ở bệnh nhân suy tim có phân suất tống máu (EF) giảm rất cao, với 83% ở nghiên cứu SOLVD-P (bệnh nhân không triệu chứng, EF72h) so với BNP, chỉ bền vững từ 4-24h tùy thuộc vào điều kiện bảo quản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Trong thực hành lâm sàng, quy trình xét nghiệm cho bệnh nhân tại khoa cấp cứu thường diễn ra nhanh chóng, do đó độ bền vững của mẫu không quá quan trọng Tuy nhiên, trong những trường hợp xét nghiệm có thể trì hoãn, việc giảm chất lượng mẫu xét nghiệm cần được chú trọng để đảm bảo kết quả chính xác.
1.2.2 Một số yếu tố ảnh hưởng đến xét nghiệm định lượng NT-proBNP [5]
Tuổi tác và giới tính có ảnh hưởng rõ rệt đến nồng độ BNP và NT-proBNP, như đã được nhiều nghiên cứu chứng minh Nghiên cứu năm 2006 của Krauser cho thấy yếu tố quyết định chính cho sự gia tăng nồng độ peptide natri lợi niệu là tuổi cao, trong khi giới tính nữ có ảnh hưởng ít hơn Tuy nhiên, khi xem xét trên các nhóm dân số lớn hơn, tác động của giới tính, có thể do hormone androgen, trở nên quan trọng không kém.
Nghiên cứu cho thấy béo phì ảnh hưởng đến nồng độ BNP và NT-proBNP, độc lập với các yếu tố như đái tháo đường và cao huyết áp, cùng với sự gia tăng áp lực cuối tâm trương thất trái Cụ thể, nghiên cứu của Wang và cộng sự (2004) chỉ ra rằng nồng độ BNP và NT-proBNP giảm khi chỉ số khối cơ thể (BMI) tăng, được phân loại qua ba nhóm bệnh nhân: bình thường (BMI < 25 kg/m2), thừa cân (BMI = 25-29.9 kg/m2) và béo phì (BMI ≥ 30 kg/m2).
Nghiên cứu gần đây của Bayes-Genis (năm 2007) cho thấy nồng độ NT-proBNP có khả năng tiên đoán dương mạnh mẽ, không bị ảnh hưởng bởi chỉ số BMI và không cần điều chỉnh điểm cắt của NT-proBNP theo cân nặng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Suy thận là một bệnh lý đi kèm ảnh hưởng đến nồng độ BNP và NT-proBNP, làm giảm độ thanh thải của các peptide này, dẫn đến tăng nồng độ cả hai trong bệnh nhân có bệnh tim mạch Việc sử dụng các peptide natri lợi niệu để đánh giá bệnh nhân khó thở do suy tim kèm theo bệnh thận mạn rất phức tạp Nghiên cứu của McCullough đã chỉ ra mối tương quan giữa BNP và hệ số lọc cầu thận (GFR) ở bệnh nhân có và không có suy tim, đồng thời cho thấy ảnh hưởng của bệnh thận mạn lên điểm cắt lý tưởng của BNP trong chẩn đoán suy tim cấp Các tác giả đề xuất rằng khi bệnh thận mạn tiến triển nặng hơn, điểm cắt "loại trừ" của BNP cần nâng lên khoảng 200 ng/L, và quan điểm tương tự cũng áp dụng cho NT-proBNP.
1.2.3 Vai trò của xét nghiệm định lượng NT-proBNP trong suy tim
Trung tâm xét nghiệm sinh hóa lâm sàng Hoa Kỳ khuyến cáo rằng BNP và NT-ProBNP là công cụ bổ sung hữu ích trong đánh giá lâm sàng để phân tầng nguy cơ, với mức khuyến cáo IIA và bằng chứng A Việc định lượng BNP và NT-ProBNP liên tục cũng có thể được áp dụng để theo dõi diễn tiến lâm sàng ở bệnh nhân suy tim, nhằm xác định mức độ nguy cơ, theo khuyến cáo IIA và bằng chứng B.
Có bốn mục tiêu chính trong các nghiên cứu BNP và NT-proBNP trên những bệnh nhân suy tim [12]:
- Chẩn đoán và phân tầng nguy cơ trên những bệnh nhân suy tim cấp
- Tiên lượng bệnh nhân suy tim
- Hướng dẫn điều trị trên những bệnh nhân suy tim
* Vai trò trong chẩn đoán
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nghiên cứu đầu tiên về peptide lợi niệu trên 1.586 bệnh nhân tại 7 trung tâm tim mạch Hoa Kỳ cho thấy việc sử dụng BNP với điểm cắt 100 ng/L có độ chính xác chẩn đoán suy tim lên đến 83%, với độ nhạy 90% và độ đặc hiệu 76% Nghiên cứu REDHOT tại 10 trung tâm tim mạch Hoa Kỳ trên 464 bệnh nhân cũng khẳng định rằng việc đánh giá độ nặng suy tim chỉ dựa vào tình trạng lâm sàng không đủ chính xác, nhưng khi kết hợp với xét nghiệm BNP, độ chính xác tăng lên Trong trường hợp khó thở cấp tính, peptide lợi niệu giúp phân biệt nguyên nhân khó thở do tim hay không với độ chính xác cao, với AUC từ 0,85 đến 0,96, độ nhạy từ 77% đến 93% và độ đặc hiệu từ 83% đến 98% Điểm cắt BNP dưới 100 pg/mL được coi là ngưỡng đáng tin cậy để phân biệt chẩn đoán suy tim cấp tính với các nguyên nhân khác gây khó thở.
Nghiên cứu REDHOT chỉ ra rằng nồng độ BNP có mối liên hệ chặt chẽ với tiên lượng ngắn hạn ở bệnh nhân nhập viện do suy tim Cụ thể, những bệnh nhân có nồng độ BNP > 200 ng/L có nguy cơ gặp biến cố tim mạch trong vòng 90 ngày, bao gồm tái suy tim sau khi xuất viện và tử vong, cao hơn so với những bệnh nhân có nồng độ BNP thấp hơn.