Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Khái niệm về Lâm sản ngoài gỗ (LSNG)
Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về LSNG:
LSNG bao gồm tất cả các sản phẩm có nguồn gốc sinh vật không phải gỗ và các dịch vụ từ rừng và đất rừng Các dịch vụ này bao gồm các hoạt động như du lịch sinh thái, thu gom nhựa, làm dây leo, cũng như việc thu hái và chế biến các sản phẩm từ rừng.
LSNG không chỉ bao gồm các sản phẩm lớn mà còn bao gồm các sản vật nhỏ làm từ gỗ và không phải gỗ, được sử dụng trong sản xuất công nghiệp hoặc bột giấy Ví dụ điển hình cho các sản phẩm này là ghế nhỏ, trống và đồ thủ công mỹ nghệ.
LSNG bao gồm tất cả các sản phẩm sinh vật ngoại trừ gỗ tròn công nghiệp, gỗ làm dăm và gỗ làm bột giấy, được khai thác từ hệ sinh thái tự nhiên hoặc rừng trồng, phục vụ cho các mục đích gia đình, thương mại, cũng như có giá trị tôn giáo, văn hóa hoặc xã hội Việc sử dụng hệ sinh thái cho các hoạt động giải trí, bảo tồn thiên nhiên và quản lý vùng đệm thuộc về lĩnh vực dịch vụ của rừng (Wickens, 1991).
Tại hội nghị các chuyên gia LSNG diễn ra từ ngày 5-8/11/1991 ở Bangkok, Thái Lan, các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã thống nhất thông qua định nghĩa về LSNG.
LSNG (Sản phẩm rừng không gỗ) bao gồm tất cả các sản phẩm có thể tái tạo, không bao gồm gỗ củi và than Các sản phẩm này được khai thác từ rừng, đất rừng hoặc từ cây thân gỗ Do đó, cát, đá, nước và du lịch sinh thái không thuộc danh mục LSNG.
LSNG, theo de Beer và Mc Dermott (1989), là nguồn tài nguyên sinh vật ngoài gỗ khai thác từ rừng phục vụ cho con người Những tài nguyên này bao gồm các bộ phận của cây như hoa, quả, hạt, nhựa, dầu, gôm, cùng với các loại cây thuốc, cây hương liệu, cây cảnh, cây cho tanin, cây cho sợi, tre nứa, và song mây, cũng như động vật hoang dã trong rừng và rừng ngập mặn.
J.H de Beer (1996) [49] đã đưa ra định nghĩa về LSNG như sau:
Lâm sản ngoài gỗ (NTFP) là các nguyên liệu sinh vật không phải gỗ, được khai thác từ rừng phục vụ nhu cầu con người Các sản phẩm này bao gồm thực phẩm, thuốc, gia vị, tinh dầu, nhựa, nhựa mủ, tanin, thuốc nhuộm, cây cảnh, động vật hoang dã, củi và các nguyên liệu thô như tre, nứa, song mây, gỗ nhỏ và sợi Định nghĩa của J.H de Beer đơn giản và dễ sử dụng, đặc biệt là việc đưa củi và gỗ nhỏ vào nhóm lâm sản ngoài gỗ, khác với các định nghĩa trước đây Định nghĩa này cũng được Hội đồng Lâm nghiệp Tổ chức FAO công nhận.
LSNG (Sản phẩm Lâm sản không phải gỗ) là những sản phẩm sinh vật được khai thác từ rừng, đất có rừng và từ cây gỗ ngoài rừng, không bao gồm gỗ lớn (FAO, 1999).
1.2 Tổng quan về tình hình nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ
1.2.1 Tình hình nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ trên thế giới
Sản phẩm rừng đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu nhập của nhiều quốc gia trong suốt nhiều thế kỷ Các sản phẩm này có thể được phân loại thành hai nhóm chính.
Gỗ và lâm sản ngoài gỗ đều có giá trị quan trọng trong ngành xây dựng và nội thất Tuy nhiên, giá trị của lâm sản ngoài gỗ thường bị bỏ quên Thực tế cho thấy, việc buôn bán và trao đổi lâm sản ngoài gỗ trên thị trường đã mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân sống ở vùng rừng và các doanh nghiệp địa phương.
Kể từ năm 1984, nhà môi trường học Marius Jacobs từ Hà Lan đã tiến hành nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ, nhấn mạnh rằng rừng mưa nhiệt đới là nguồn tài nguyên phong phú với đa dạng thực vật phục vụ cho gỗ, thực phẩm, thuốc men, nguyên liệu công nghiệp và gia vị Lâm sản ngoài gỗ đóng vai trò thiết yếu trong nền kinh tế nội địa, nhưng hiện đang bị đe dọa bởi hoạt động khai thác gỗ và chuyển đổi canh tác, dẫn đến sự lãng phí và tàn phá môi trường, cũng như sự biến mất của nhiều loài Để bảo vệ rừng mưa nhiệt đới và lâm sản ngoài gỗ, cần có phương pháp bảo tồn mới, tập trung vào việc nghiên cứu giá trị sử dụng của các loài này và khuyến khích sử dụng bền vững trong và ngoài rừng.
Nghiên cứu của Ajay Mahapatra và C Paul Mitchell (1997) chỉ ra rằng khai thác bền vững lâm sản ngoài gỗ ở Ấn Độ không chỉ bảo tồn tài nguyên rừng mà còn tạo ra thu nhập cho cộng đồng Để đạt được mục tiêu này, việc hiểu rõ phương thức khai thác và vai trò của thị trường lâm sản ngoài gỗ là rất quan trọng Nghiên cứu cũng xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng lâm sản ngoài gỗ có giá trị kinh tế thông qua một trường hợp cụ thể ở Ấn Độ, đồng thời phân tích sự thiếu hụt trong chiến lược marketing hiện tại.
Jianbang Gan và cộng sự (1998) đã tiến hành đánh giá giá trị sản phẩm gỗ và lâm sản ngoài gỗ tại các khu rừng trồng Thông trầm hương (Pinus taeda) ở Vườn Quốc gia Tuskegee Giá trị sản phẩm gỗ được xác định thông qua mô hình SE TWIGS, trong khi giá trị lâm sản ngoài gỗ được đánh giá bằng phương pháp Contingent Hai trăm hộ gia đình được chọn ngẫu nhiên từ ba thị xã gần Vườn Quốc gia đã tham gia phỏng vấn Kết quả cho thấy 62% người được phỏng vấn cho rằng việc quản lý cả nguồn lâm sản ngoài gỗ và sản phẩm gỗ là cần thiết Việc chú trọng đến giá trị của cả hai loại sản phẩm này sẽ giúp thỏa mãn các mong muốn của các nhóm lợi ích khác nhau, thậm chí có thể đối lập nhau.
Lấy ví dụ với loài Asimina triloba, các nhà khoa học người Mỹ, L.F.R
León và Alfredo Nava-Tudela (1998) đã nghiên cứu cải thiện hệ thống rừng đệm ven sông thông qua việc sử dụng các loài lâm sản ngoài gỗ Họ cho rằng việc trồng cây này là một lựa chọn khả thi cho khu vực khai thác trong vùng đệm Trong mô hình thử nghiệm, một dải rừng vùng đệm rộng 5 ha được trồng cây này, với giá bán quả là 0,99 USD mỗi quả, tổng giá trị của dải rừng đạt 26.396 USD.
Năm 1998, Kevin Gould, Andrew F Howard và Gustavo Rodriguéz thực hiện nghiên cứu về khai thác bền vững các loài cây cho chất nhuộm tự nhiên tại Petén, Guatemala Hoạt động khai thác lâm sản ngoài gỗ ở đây là một phần của chương trình phát triển và bảo tồn lâm sản ngoài gỗ, dẫn đến việc tạo ra sản phẩm Gatherings TM, một hỗn hợp tạo hương thơm từ hạt, hoa và lá cây Các nhà khoa học đã áp dụng phương pháp để kiểm tra tính bền vững trong việc khai thác cây có chất nhuộm cho sản phẩm này Kết quả cho thấy hai loài cây có chất nhuộm đã bị khai thác quá mức trong vòng 10 năm, và sản xuất Gatherings TM không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho khu rừng.
Tình hình nghiên cứu LSNG
2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các nhóm tài nguyên thực vật ngoài gỗ (cây làm thuốc; cây cho dầu, nhựa; cây làm cảnh; song mây, )
Hai xã vùng đệm (Xuân Trạch và Phúc Trạch) VQG Phong Nha – Kẻ Bàng
- Đánh giá hiện trạng và tiềm năng nguồn thực vật cho LSNG tại 2 xã vùng đệm (Xuân Trạch và Phúc Trạch) VQG Phong Nha-Kẻ Bàng
Để quản lý và phát triển nguồn tài nguyên hiệu quả, cần đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao giá trị sử dụng về mặt kinh tế và đảm bảo tính bền vững về môi trường Các giải pháp này bao gồm việc tối ưu hóa quy trình khai thác, áp dụng công nghệ hiện đại và tăng cường giáo dục cộng đồng về bảo vệ tài nguyên Đồng thời, cần thiết lập các chính sách hỗ trợ và khuyến khích các hoạt động phát triển bền vững, từ đó góp phần bảo tồn nguồn tài nguyên cho thế hệ tương lai.
2.3.1 Đánh giá hiện trạng tài nguyên LSNG tại hai xã vùng đệm (Xuân Trạch và Phúc Trạch) VQG Phong Nha - Kẻ Bàng
- Thống kê nguồn tài nguyên LSNG trên địa bàn hai xã vùng đệm (cây làm thuốc, cây ăn được, cây cho tinh dầu,
2.3.2 Tình hình khai thác LSNG của người dân tại 2 xã vùng đệm (Xuân Trạch và Phúc Trạch) VQG Phong Nha-Kẻ Bàng
2.3.3 Đề xuất một số giải pháp quản lý bền vững LSNG tại một số xã vùng đệm (Xuân Trạch và Phúc Trạch) VQG Phong Nha - Kẻ Bàng
- Những giải pháp kinh tế - xã hội vĩ mô
- Những giải pháp kinh tế - xã hội vi mô
Đối tượng, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các nhóm tài nguyên thực vật ngoài gỗ (cây làm thuốc; cây cho dầu, nhựa; cây làm cảnh; song mây, )
Hai xã vùng đệm (Xuân Trạch và Phúc Trạch) VQG Phong Nha – Kẻ Bàng.
Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá hiện trạng và tiềm năng nguồn thực vật cho LSNG tại 2 xã vùng đệm (Xuân Trạch và Phúc Trạch) VQG Phong Nha-Kẻ Bàng
Để quản lý và phát triển nguồn tài nguyên một cách hiệu quả, cần đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao giá trị sử dụng về mặt kinh tế và đảm bảo tính bền vững về môi trường Việc áp dụng các biện pháp bảo tồn, tái sử dụng và phát triển bền vững sẽ góp phần tối ưu hóa lợi ích kinh tế, đồng thời bảo vệ hệ sinh thái Hơn nữa, cần tăng cường giáo dục cộng đồng về tầm quan trọng của việc sử dụng tài nguyên một cách hợp lý, từ đó tạo ra nhận thức chung và hành động tích cực trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Nội dung nghiên cứu
2.3.1 Đánh giá hiện trạng tài nguyên LSNG tại hai xã vùng đệm (Xuân Trạch và Phúc Trạch) VQG Phong Nha - Kẻ Bàng
- Thống kê nguồn tài nguyên LSNG trên địa bàn hai xã vùng đệm (cây làm thuốc, cây ăn được, cây cho tinh dầu,
2.3.2 Tình hình khai thác LSNG của người dân tại 2 xã vùng đệm (Xuân Trạch và Phúc Trạch) VQG Phong Nha-Kẻ Bàng
2.3.3 Đề xuất một số giải pháp quản lý bền vững LSNG tại một số xã vùng đệm (Xuân Trạch và Phúc Trạch) VQG Phong Nha - Kẻ Bàng
- Những giải pháp kinh tế - xã hội vĩ mô
- Những giải pháp kinh tế - xã hội vi mô
- Những giải pháp tổ chức kỹ thuật và công nghệ
2.4.1 Phương pháp thu thập số liệu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu đa dạng sinh học của Nguyễn Nghĩa Thìn29
2.4.2 Phương pháp kế thừa Điều tra hu thập thông tin từ những tài liệu, văn bản hiện có, những số liệu thống kê, lưu trữ hàng năm có liên quan đến đối tượng điều tra bao gồm:
- Kế thừa các kết quả nghiên cứu về LSNG
- Kế thừa các tài liệu có liên quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội tại khu vực nghiên cứu
- Kế thừa các tư liệu của VQG Phong Nha-Kẻ Bàng
2.4.3 Phương pháp nghiên cứu LSNG theo tuyến điều tra
2.4.4 Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp nghiên cứu chuyên gia bao gồm việc tham khảo ý kiến và nhận sự hỗ trợ từ các chuyên gia trong lĩnh vực thực vật, lâm học, kinh tế - xã hội và văn hóa dân tộc Đặc biệt, cần chú trọng đến những chuyên gia đã có kinh nghiệm nghiên cứu tại miền Trung Trung Bộ và Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng.
Phương pháp nghiên cứu PRA và RRA là những công cụ quan trọng trong việc thu thập thông tin thông qua phỏng vấn hộ gia đình và các thành phần tham gia trong các kênh tiêu thụ PRA (Đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của người dân) cho phép cộng đồng chia sẻ và phân tích kiến thức về đời sống và điều kiện nông thôn, từ đó lập kế hoạch và hành động hiệu quả Việc kết hợp cả hai phương pháp này giúp phát huy tối đa năng lực của cộng đồng thông qua sự tham gia tích cực vào hoạt động điều tra thực địa, đồng thời phân tích các áp lực lên tài nguyên rừng và tìm kiếm giải pháp bảo tồn và phát triển RRA (Đánh giá nhanh nông thôn) là bước khởi đầu quan trọng để hiểu rõ tình hình địa phương, sử dụng bảng câu hỏi phỏng vấn bán cấu trúc để thu thập ý kiến từ các đối tượng như lâm dân, cán bộ quản lý rừng, và lãnh đạo chính quyền địa phương.
Việc thu thập thông tin về lâm sản ngoài gỗ thông qua khảo sát thị trường, các kênh tiêu thụ, chủng loại, số lượng và thời vụ là rất quan trọng Sử dụng phương pháp điều tra đánh giá có sự tham gia của người dân sẽ giúp đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của dữ liệu Đồng thời, cần vận dụng hợp lý các công cụ của PRA và RRA để tối đa hóa khả năng và ưu điểm của chúng trong quá trình thu thập thông tin.
2.4.5 Phương pháp xử lý số liệu và viết báo cáo
CHƯƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN-KINH TẾ XÃ HỘI
Điều kiện tự nhiên
Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được thành lập theo Quyết định số 89/2001/QĐ-TTg ngày 12 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ, với tổng diện tích 85.754 ha Vào ngày 14 tháng 7 năm 2008, Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết định số 1678/QĐ-UBND, giao thêm 31.070 ha đất cho Ban Quản lý VQG Phong Nha – Kẻ Bàng để mở rộng khu vực bảo tồn.
Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là mẫu chuẩn của hệ sinh thái rừng nhiệt đới nguyên sinh trên núi đá vôi lớn nhất Việt Nam, với 93,8% diện tích rừng được che phủ Trong đó, 88,3% là rừng nguyên sinh chưa hoặc ít bị tác động, chứa đựng nhiều giá trị tiềm ẩn về đa dạng sinh học chưa được khám phá.
Khu hệ thực vật tại đây rất phong phú với 2.651 loài thuộc 193 họ và 906 chi, đại diện cho 6 ngành thực vật bậc cao khác nhau Nhiều loài thực vật đặc hữu và quý hiếm đã được ghi nhận trong Sách đỏ Việt Nam cũng như Danh lục đỏ thế giới (IUCN).
Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng tọa lạc tại khu vực Trung Trung Bộ, phía Tây tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới 50 km về phía Tây và cách Thủ đô Hà Nội 500 km về phía Nam.
Phía Tây và Tây Nam giáp với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Phía Bắc giáp huyện Minh Hóa và đường Hồ Chí Minh
Phía Đông giáp đường Hồ Chí Minh
Phía Nam và Đông Nam giáp xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch và huyện Quảng Ninh
Tổng diện tích: 343.503 ha, trong đó diện tích vùng lõi: 116.824 ha, diện tích vùng đệm: 226.679 ha
Vùng lõi VQG bao gồm diện tích cũ 85.754 ha nằm trên địa bàn 5 xã (Xuân Trạch, Phúc Trạch, Sơn Trạch, Tân Trạch, Thượng Trạch) của huyện
Bố Trạch và phần diện tích mở rộng 31.070 ha nằm trên địa bàn 2 xã (Thượng Hóa, Hóa Sơn) của huyện Minh Hóa
Vùng đệm bao gồm 13 xã thuộc 3 huyện, cụ thể là xã Trọng Hóa, Dân Hóa, Trung Hóa, Thượng Hóa, Hóa Sơn của huyện Minh Hóa; xã Xuân Trạch, Phúc Trạch, Sơn Trạch, Hưng Trạch, Phú Định, Tân Trạch, Thượng Trạch của huyện Bố Trạch; và xã Trường Sơn thuộc huyện Quảng Ninh.
Phúc Trạch và Xuân Trạch là hai xã thuộc huyện Bố Trạch, nằm trong số 13 xã vùng đệm của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng Xã Phúc Trạch bao gồm 12 thôn, cụ thể là: Phúc Đồng 1, Phúc Đồng 2, Phúc Đồng 3, Phúc Đồng 4, Phúc Khê 1, Phúc Khê 2, Phúc Khê 3, Thanh Sen 1, Thanh Sen 2, Thanh Sen 3 và Thanh Sen.
4, Chày Lập) và xã Xuân Trạch có 10 thôn (Thôn 1, Thôn 2, Thôn 3, Thôn 4, Thôn 5, Thôn 6, Thôn 7, Thôn 8, Thôn 9, Thôn 10)
Diện tích của các xã vùng đệm huyện Bố Trạch là 167.608 ha, bao gồm 85.754 ha vùng lõi và 81.854 ha vùng đệm Trong đó, hai xã Phúc Trạch và Xuân Trạch chiếm diện tích 23.739 ha, với 4.292 ha thuộc vùng lõi và 19.447 ha thuộc vùng đệm.
Diện tích các xã vùng đệm của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng
TT Huyện/xã Tổng diện tích (ha)
Khu vực VQG chủ yếu có địa hình núi đá vôi, chiếm tỷ lệ lớn, trong khi địa hình núi đất chỉ chiếm tỷ lệ thấp và phân bố ở phía Đông Nam với độ cao từ 500 đến 1.000 m, đỉnh cao nhất là núi U bò (1.009 m) Địa hình ở đây có độ chia cắt sâu và độ dốc lớn, trung bình từ 25 đến 30 độ Ngoài ra, còn có địa hình chuyển tiếp với sự xen kẽ phức tạp giữa các khối đá vôi và địa hình lục nguyên, tạo thành những vùng gò đồi thấp dọc theo các con đường.
Hồ Chí Minh nhánh Đông
Nguồn: Dự án đầu tư VQG PN-KB 2001; Cục thống kê tỉnh Quảng Bình, 2008 Địa hình núi đá vôi chiếm 87% tổng diện tích của VQG với 101.543 ha Khối núi đá vôi Kẻ Bàng kéo dài từ huyện Minh Hóa đến huyện Quảng Ninh, có diện tích gần 200.000 ha.
Vùng Karst Phong Nha – Kẻ Bàng nằm trong khu vực trũng Trường Sơn, với cấu trúc địa chất đa dạng và phản ánh lịch sử phát triển lâu dài của vỏ Trái đất Nơi đây ghi nhận đầy đủ các giai đoạn phát triển chính từ Kỷ Ordovic cho đến nay, trải qua 5 chu kỳ kiến tạo lớn, tương ứng với 5 giai đoạn tiến hóa địa chất của thế giới.
Hệ thống hang động Phong Nha – Kẻ Bàng rất đa dạng và phức tạp, bao gồm cả hang động Phong Nha và hệ thống Hang Vòm Gần đây, nhiều hang động kỳ vĩ đã được phát hiện, nổi bật nhất là hang Đoòng, được công nhận là hang động cao và rộng nhất thế giới.
- Đất đen Macgalit – Feralit phát triển trên núi đá vôi (MgFv): chiếm không đáng kể và phân tán trong vùng núi đá vôi
Đất Feralit màu đỏ và đỏ nâu trên núi đá vôi (Fv) có tổng diện tích 8.462 ha, chiếm 7,3% tổng diện tích khu vực Loại đất này thường phân bố ở những sườn dông ít dốc hoặc chân dông, với lớp phủ thực bì còn tốt Đặc điểm pH của đất dao động từ 5,5 đến 6,0, cùng với lượng Ca++ và Mg++ trao đổi khá cao, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thực vật.
Đất Feralit đỏ vàng, với diện tích 2.805 ha (chiếm 2,4% tổng diện tích), phát triển trên phiến thạch sét (Fs) và chủ yếu phân bố ở phía Đông Nam VQG Đặc điểm của loại đất này là có lượng mùn trung bình, cùng với lượng Ca++ và Mg++ trao đổi thấp, dẫn đến độ no Bazơ cũng ở mức thấp.
- Đất Feralit vàng đỏ trên đá Macma axít (Fa): Diện tíh 5.062 ha, chiếm 4,3%, phân bố chủ yếu trên các sườn dốc hiểm trở
- Đất Feralits vàng nhạt trên đá Sa thạch (Fq): Diện tích 591 ha, chiếm 0,5%; phân bố rộng rãi ở chân dông
- Đất dốc tụ trong thung lũng đá vôi (Tv): Diện tích 2,817 ha, chiếm 2,4%; pH = 5,5 – 6,5
- Đất dốc tụ trong thung lũng hay máng trũng (T1, T2): Diện tích 1.638 ha, chiếm 1,4%, phân bố rải rác trong khu vực; pH = 5,5 – 6,0
- Núi đá vôi dạng khối uốn nếp có quá trình Karst trẻ lại (K): Diện tích 95.074 ha, chiếm 81,4%
- Đất khác: Diện tích 47 ha, chiếm 0,3% Đất này sử dụng cho quốc phòng và bảo vệ một số hang động
3.1.6 Khí hậu – Thủy văn a/ Chế độ nhiệt
Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 23°C đến 25°C, với sự biến động lớn giữa các tháng Tháng 7 thường ghi nhận nhiệt độ cực đại trên 40°C, trong khi tháng 1 có nhiệt độ cực tiểu từ 5°C đến 7°C Thời tiết lạnh nhất diễn ra vào các tháng 12, 1, 2 với nhiệt độ trung bình từ 14°C đến 20°C, còn thời tiết nóng nhất vào tháng 6, 7, 8 với nhiệt độ trung bình trên 28°C Mùa hè có nhiệt độ cao kèm theo gió khô nóng từ gió Lào, dẫn đến nhiệt độ tuyệt đối thường vượt quá 40°C Biên độ nhiệt trong ngày khá lớn, lên đến 10°C vào mùa hè và từ 5°C đến 7°C vào mùa đông.
Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 2.000 đến 2.500 mm, có nơi đạt tới 3.000 mm, với ba tháng mưa lớn nhất là tháng 9, 10 và 11 chiếm 70% tổng lượng mưa Ngược lại, tháng 2, 3 và 4 là ba tháng có lượng mưa thấp nhất, chỉ đạt 100 – 200 mm Số ngày mưa trung bình hàng năm dao động từ 130 đến 160 ngày Độ ẩm không khí trung bình đạt 84%, ít biến động theo mùa, và ở các thung lũng có thể lên tới 80 – 90% Trong mùa khô, độ ẩm giảm xuống khoảng 67%, thậm chí có lúc xuống dưới 30% Khu vực này cũng có lượng bốc hơi cao, từ 1.000 đến 1.300 mm, với đỉnh điểm vào các tháng 5, 6, 7 và 8.