TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã hợp tác với Viện Động vật Xanh Petecbua (Nga), Bảo tàng Hoàng gia Ontario (Canada) và Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ để thực hiện công trình nghiên cứu kỹ lưỡng nhất về bò sát và ếch nhái.
Chương trình hợp tác nghiên cứu tại VQG Tam Đảo được thực hiện trong hai giai đoạn từ 1993 đến 1997 và từ 1999 đến 2000, đã ghi nhận 123 loài bò sát thuộc 17 họ, 3 bộ, cùng với 56 loài ếch nhái thuộc 8 họ, 3 bộ Kết quả cho thấy khu hệ bò sát và ếch nhái của VQG Tam Đảo là một trong những hệ sinh thái đa dạng nhất tại Việt Nam Nghiên cứu còn phát hiện 30 loài quý hiếm và đặc hữu, cũng như một loài ếch nhái mới - Leptplatex sung vào năm 1998 Phân bố của các loài bò sát và ếch nhái theo sinh cảnh cũng được đề cập, với áp lực từ buôn bán và sử dụng quá mức được xác định là tác động lớn nhất đến các loài này tại VQG Tam Đảo.
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật cùng các chuyên gia từ Viện Động vật Saint Peterburg đã phát hiện loài Cá cóc bụng hoa, hay còn gọi là Cá cóc tam đảo, tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn – Kỳ Thượng ở huyện Hoành Bồ vào năm 2007.
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, cùng với các nhà nghiên cứu từ Vườn thú Cologne (CHLB Đức), đã phát hiện loài Cá cóc Việt Nam tại Khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng vào năm 2007.
Vào năm 2013, các nhà nghiên cứu từ Đại học Kyoto (Nhật Bản) và Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam đã công bố một loài Cá cóc mới trên tạp chí Current Herpetology Loài mới này được mô tả dựa trên sự so sánh về hình thái và sinh học phân tử với các loài Cá cóc đã được ghi nhận tại Việt Nam và các nước láng giềng như Trung Quốc và Lào Mẫu vật của loài mới được thu thập tại vùng núi tỉnh Hà Giang và Cao Bằng.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Việt Nam sở hữu một hệ sinh thái phong phú với nhiều loài động, thực vật đặc hữu, đặc biệt là bò sát và lưỡng cư Những loài này không chỉ có giá trị sinh thái và kinh tế mà còn là nguồn dược liệu quý giá từ thiên nhiên Nghiên cứu về bò sát tại Việt Nam đã bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, chủ yếu do các nhà khoa học nước ngoài thực hiện, như Tirant (1885), Boulenger (1903) và Smith (1921, 1924).
Từ năm 1934 đến 1944, nhà khoa học người Pháp Bourret đã thực hiện một nghiên cứu quan trọng về bò sát Đông Dương, bao gồm nhiều công trình như "Các thông báo về Bò sát - Lưỡng cư Đông Dương" (1934 - 1941) và "Khu hệ Ếch nhái Đông Dương và các loại Rùa Đông Dương" (1942) Trong quá trình nghiên cứu, ông đã ghi nhận 177 loài và phân loài thằn lằn, 145 loài và phân loài rắn, cùng với 45 loại và phân loại rùa Nghiên cứu này đã góp phần đáng kể vào việc hiểu biết về hệ sinh thái bò sát tại Việt Nam và Đông Dương.
Hiện nay, đã xác định được 171 loài và phân loài ếch nhái Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc thu thập mẫu và thống kê phân loại, chưa mở rộng địa bàn nghiên cứu ra ngoài những khu vực có điều kiện thuận lợi.
Trích dẫn Báo cáo đề tài KT 02.08 Nguyễn Văn Sảng, Hồ Thu Cúc (1996)
Từ năm 1945 đến 1954, do tác động của chiến tranh, nghiên cứu về động vật học tại Việt Nam gần như không có Tuy nhiên, giai đoạn từ 1954 đến 1975, miền Bắc Việt Nam đã thực hiện một nghiên cứu quan trọng, ghi nhận 68 loại ếch nhái và 159 loài bò sát (Trần Kiên và cs, 1981) Ở miền Nam, Campden - Main (1970) đã mô tả 77 loài rắn trong cuốn sách nhận dạng của ông.
Từ năm 1976 đến 1980, chương trình hợp tác nghiên cứu giữa Việt Nam và Nga đã tiến hành một số nghiên cứu về bò sát tại miền Bắc và miền Trung Việt Nam.
Sau hòa bình lập lại ở Miền Bắc Việt Nam (1954) các nghiên cứu về thành phần Lưỡng cư, Bò sát mới được tăng cường bởi các tác giả Việt Nam
Giai đoạn từ năm 1970 đến 1990, một số công trình nghiên cứu đáng chú ý đã được thực hiện, bao gồm "Kết quả điều tra cơ bản động vật miền Bắc Việt Nam" do Trần Kiên và Nguyễn Văn Sáng thực hiện.
Hổ Thu Cúc (1981) đã thống kê được 159 loại Bò sát, 69 loài Lưỡng cư
Vào những năm 1970, đoàn thực tập thiên nhiên khoa Sinh vật trường Đại học Sư phạm II Hà Nội đã phối hợp với trường cấp II Tam Đảo để nghiên cứu khu vực Tam Đảo Kết quả nghiên cứu đã thống kê được 19 loài rắn, 3 loài thằn lằn, 4 loại rùa và 5 loại ếch nhái (Nguồn: Trích dẫn từ báo cáo, Hồ Thu Cúc, Nikolai Ortov, Army Latitro 2000).
Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật (1985) “Tuyển tập báo cáo kết quả điều tra thống kê động vật Việt Nam, đã thống kê được 350 loài Lưỡng cư,
Bò sát tại Việt Nam bao gồm 260 loài, trong khi lưỡng cư có 90 loài Các tác giả đã phân tích sự phân bố của các loài trong các sinh cảnh khác nhau Đào Văn Tiến (1978) đã tổng hợp và xây dựng khóa định loại cho 87 loài ếch nhái, 77 loài thằn lằn, 165 loài rắn, 32 loài rùa và 2 loài cá sấu, đồng thời đề cập đến 2 loài cá cóc có phân bố tại Việt Nam.
Nguyễn Văn Sáng và Hồ Thu Cúc (1996) đã thống kê tại Việt Nam có tổng cộng 340 loài động vật, bao gồm 82 loài ếch nhái và 258 loài bò sát Trong danh mục này, họ cũng đề cập đến sự phân bố và tình trạng của loài cá cóc Tam Đảo.
Ngoài các nghiên cứu về khu hệ, Trần Kiên và cộng sự còn tập trung vào đặc điểm sinh học và sinh thái học của các loài, nhằm nhân nuôi những loài có giá trị kinh tế Những nghiên cứu này đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng quy trình nuôi và bảo tồn các loài này.
Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2002: Đây là giai đoạn nghiên cứu
Lưỡng cư, Bò sát ở nước ta được tăng cường Đặc biệt nhiều nhất là từ năm
Từ năm 1995, nhiều tác giả như Đinh Thị Phương Anh, Hổ Thu Cúc, Hoảng Nguyễn Bình, Ngô Đắc Chứng, Lê Nguyên Ngật, Hoàng Xuân Quang, Nguyễn Văn Sáng, và Nguyễn Quảng Trường đã công bố danh sách thành phần động vật ở một số khu vực Cụ thể, VQG Bạch Mã ghi nhận 52 loài lưỡng cư và bò sát thuộc 15 họ, 3 bộ; trong khi đó, VQG Ba Vì có 62 loài thuộc 16 họ, 3 bộ; và vùng núi Ngọc Linh (Kom Tum) cũng góp mặt trong danh sách này.
53 loài thuộc 30 họ, 4 bộ, khu vực Tây Nam Nghệ An có 56 loài thuộc 17 hộ,
Khu BTTN Xuân Sơn (Phú Thọ) có 46 loài thuộc 15 họ và 3 bộ; khu vực Hữu Liên (Lạng Sơn) có 48 loài thuộc 15 họ và 4 bộ; khu vực núi Yên Tử (Quảng Ninh) có 55 loài thuộc 18 họ và 4 bộ; VQG Bến En (Thanh Hóa) có 85 loài thuộc 21 họ và 4 bộ; khu vực núi Bà Đen (Tây Ninh) có 34 loài thuộc 16 họ và 5 bộ; khu BTTN Sơn Trà (Đà Nẵng) có 34 loài thuộc 19 họ và 3 bộ; khu vực núi Kon Ka Kinh (Gia Lai) có 51 loài thuộc 15 họ và 4 bộ; khu vực Chí Linh (Hải Dương) có 87 loài thuộc 20 họ và 4 bộ; khu BTTN Pù Mát (Nghệ An) có 7 loài thuộc 21 họ và 4 bộ; VQG U Minh Thượng (Kiên Giang) có 38 loài thuộc 4 bộ.
14 họ, 3 bộ, khu vực đầm Ao Châu (Hạ Hỏa Phú Thọ) có 54 loài thuộc 20 họ,
4 bộ, khu vực A Lưới (Thừa Thiên Huế) có 76 loài thuộc 20 họ, 4 bộ, khu vực rừng Konplông (Kom Tum) có 46 loài thuộc 16 họ, 3 bộ
Lê Nguyên Ngật (2000) đã nghiên cứu đặc điểm sinh thái học của Cá cóc bụng hoa trong điều kiện nuôi, cho thấy khả năng nuôi sinh sản thành công loài cá này trong phòng thí nghiệm Nghiên cứu mở ra cơ hội bảo tồn Cá cóc bụng hoa thông qua cả hai hình thức nguyên vị và chuyển vị.
Nguyễn Quảng Trường (2000) đã tiến hành nghiên cứu về phân bổ và đánh giá hiện trạng khai thác loài Cá cóc bụng hoa tại VQG Tam Đảo Nghiên cứu đã khảo sát sự phân bố của loài Cá cóc ở 28 suối thuộc khu vực Tây Thiên (Vĩnh Phúc), Ninh Lai, Thiện Kế, Hợp Hoả (Tuyên Quang) và Quân Chu (Thái Nguyên) Kết quả nghiên cứu cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình khai thác và sử dụng loài Cá cóc trong khu vực.
Nguyễn Văn Sáng và cộng sự (2005) đã thống kê được 458 loài, bao gồm 162 loài ếch nhái và 296 loài bò sát, trong danh mục Bò sát - Ếch nhái của Việt Nam Danh mục này đã bổ sung khoảng 200 loài so với các danh mục trước đó, nhờ vào những khám phá mới và ghi nhận từ nhiều chương trình hợp tác nghiên cứu diễn ra trong suốt 25 năm qua (1980 - 2006).
Lê Nguyên Ngật (2008) đã có nghiên cứu về phân bố và tình trạng loài
Cá cóc tam đảo ở Việt Nam bài báo đã đề cập đến phân bố, tình trạng và giá trị về thẩm mỹ, khoa học, du lịch và thương mại
Một số nghiên cứu về loài Cá cóc Tam Đảo (Paramesotriton deloustali, Bourret, 1934) (Nguồn: Sách đỏ Việt Nam 2007, trang 260)
Cá cóc tam đảo (Paramesotriton deloustali) là loài phổ biến nhất trong số 8 loài cá cóc tại Việt Nam Loài này có thân hình thuôn dài, hơi dẹt, với đuôi dài và mút đuôi tròn Da cá có nhiều mụn sù sì và tiết chất nhầy, lưng có màu xám đen với hai gờ nổi sần sùi và một gờ giữa sống lưng Bụng cá có màu đỏ da cam với các đường xám đen nối nhau như hình mạng lưới Chiều dài thân có thể đạt tới 92 mm và chiều dài đuôi lên đến 87 mm, trong đó cá cái thường lớn hơn cá đực Đặc biệt, trong mùa sinh sản, cá cóc đực xuất hiện dải xanh sáng chạy dọc hai bên mặt đuôi.
Cá cóc có đặc điểm nổi bật với đuôi thường màu đỏ da cam, đặc biệt là khu vực gần hậu môn Với bốn chi ngắn nhưng mạnh mẽ, cá cóc có khả năng di chuyển nhanh chóng trên mặt đất Trong môi trường nước, cá bơi chủ yếu bằng cách uốn lượn đuôi, trong khi chân áp sát vào thân.
Hình 1.1 Hình ảnh Cá cóc tam đảo A) Mặt lưng; B) Mặt bụng
Sinh sống và tập tính: Cá cóc tam đảo thường sống ở suối có độ cao
Cá cóc là loài ăn tạp, sống ở độ cao từ 200-1000m, với chế độ ăn bao gồm thảo mộc, côn trùng, trứng ếch nhái, nòng nọc, cá con và bùn Chúng thường đẻ trứng vào cuối mùa Xuân (tháng 1-4) và quá trình thụ tinh không hoàn toàn diễn ra trong nước Sau khi thụ tinh, cá cóc cái bò lên các đám lá mục, ẩm ướt dưới tảng đá gần suối để đẻ trứng Mỗi lần đẻ, cá cóc cái có thể đẻ từ 2-36 quả trứng, cả ban ngày và ban đêm, với nhiệt độ thích hợp để nở từ 17°C - 27°C Nòng nọc có màu đen với mang đỏ và bụng sáng, sau hai tháng sẽ chuyển sang màu vàng và xuất hiện họa tiết đen giống như cá trưởng thành.
Qua điều tra và phỏng vấn, đã ghi nhận Cá cóc Tam Đảo tiêu thụ 9 loại thức ăn chính, chủ yếu là động vật nhỏ và côn trùng, như thể hiện trong bảng dưới đây.
Bảng 1 1 Danh sách thức ăn của Cá cóc tam đảo
STT Tên phổ thông Bộ phận ăn Nguồn
1 Giun sp Toàn bộ PV
3 Cá bống nhỏ Toàn bộ PV
4 Nòng nọc sp Toàn bộ PV
5 Cá sp Toàn bộ PV
6 Rong rêu Ngọn, thân QS
7 Nhện nước Toàn bộ PV
8 Ấu trùng muỗi Toàn bộ PV
9 Mối đất Toàn bộ PV
Ghi chú: PV- Phỏng vấn; QS-Quan sát
Cá cóc di chuyển chậm trên cạn, sử dụng chân để leo lên mặt đất, khe đá và rễ cây Vào mùa mưa, chúng có khả năng di chuyển tốt hơn, leo lên các tảng đá và khe đá ngược dòng nước Khi phát hiện con mồi, cá cóc từ từ tiến lại và chờ thời điểm thích hợp để tấn công Trong quá trình di chuyển, chúng thường đi 3-5 bước rồi nghỉ ngơi, tiếp tục di chuyển bằng nửa thân trên và hai chi trước, trong khi hai chi sau hỗ trợ nâng đỡ cơ thể và đuôi giữ thăng bằng.
Cá cóc di chuyển dưới nước với tốc độ nhanh để tìm kiếm thức ăn Chúng thường nổi lên mặt nước để hít thở không khí và sau đó lại lặn xuống Trong quá trình này, cá cóc sử dụng đuôi để đẩy và điều khiển hướng di chuyển, trong khi bốn chi của chúng có xu hướng hướng về phía sau khi bơi.
Cá cóc Tam Đảo hoạt động chủ yếu trong suốt cả ngày, với sự di chuyển nhiều hơn vào buổi sáng để tìm kiếm thức ăn Vào buổi chiều và tối, chúng thường ít di chuyển, thường nằm chờ rình mồi ở những nơi có ít nước chảy, tĩnh và khe nước cạn.
Cá cóc có tập tính rình mồi đặc biệt, thường nằm bất động trong rêu hoặc đá để ẩn mình Khi phát hiện con mồi, chúng sử dụng chi trước để giữ chặt và từ từ nuốt hết con mồi Sau khi ăn xong, cá cóc di chuyển vào các khe đá hoặc khu vực nhiều rêu để ẩn nấp và tiếp tục săn mồi.
Cá cóc tam đảo phân bố chủ yếu tại các suối trên dãy Tam Đảo, nằm giữa ba tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang và Vĩnh Phúc, cùng với khu vực Ba Bể thuộc tỉnh Bắc Kạn Theo thông tin mới nhất, đã phát hiện thêm ba quần thể cá cóc tại Chợ Đồn (Bắc Kạn), Sín Mần (Hà Giang), Văn Bàn (Lào Cai) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) (IUCN, 2020; Zhang và cs, 2020).
Hình 1.2 Bản đồ phân bố loài Cá cóc tam đảo theo (IUCN 2020)
Giá trị: Có trị bảo tồn và khoa học, dược liệu, làm cảnh, thương mại và biểu tượng
Tình trạng: Sách đỏ Việt Nam (2007), mức độ đe dọa cấp EN: Nghị định 06/2019 NĐ-CP phụ lục IIB.
Một số nghiên cứu về loài Cá cóc tam đảo (Paramesotriton deloustali, Bourret, 1934)
Nghiên cứu của Nguyễn Quảng Trường và cộng sự (2009) về quan hệ di truyền và phân loại các loài trong họ Cá cóc tại Việt Nam cho thấy Cá cóc tam đảo là một nhánh phát sinh riêng biệt, khác hẳn với nhóm Cá cóc sần Tylototriton Mặc dù quần thể Cá cóc quảng tây (Parasmesotriton guangxiensis) ở Cao Bằng có mối quan hệ di truyền gần gũi và hình thái tương tự với Cá cóc tam đảo (Paramesotriton deloustali), nhưng vẫn được coi là hai loài riêng biệt và cần nghiên cứu thêm Bour và cộng sự (2009) đã tổng hợp các đặc điểm của mẫu vật từ các nghiên cứu trước đó của Bourret (1934).
Các nghiên cứu vào các năm 1937, 1939, 1940 và 1942 đã chỉ ra đặc điểm cấu trúc hộp sọ cũng như hình thái và kích thước của loài Cá cóc Tam Đảo ở cả con đực và con cái Báo cáo khảo sát và chương trình tập huấn giám sát các loài bò sát và ếch nhái quan trọng tại Vườn quốc gia Tam Đảo năm 2004 đã thiết lập một chương trình giám sát hiệu quả.
Cá cóc tam đảo thông qua các tọa độ khảo sát được, qua đó xây dựng được kế họach quản lý và bảo tồn loài của VQG Tam đảo
Lưu Quang Vinh (2017) đã cập nhật thành phần bò sát và lưỡng cư tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên – Văn Bàn, Lào Cai, bao gồm loài Cá cóc tam đảo Trước đó, vào năm 2002, Nguyễn Quảng Trường đã khảo sát bò sát ếch nhái tại khu vực này và thu thập được mẫu Cá cóc tam đảo, một số mẫu được lưu giữ tại Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật Nghiên cứu của Zhang và cộng sự (2017) đã phân tích hệ gen của loài trong họ Cá cóc ở Vân Nam, Trung Quốc, và xác nhận loài mới phát hiện chính là Cá cóc tam đảo Kết quả nghiên cứu này cho thấy rằng Cá cóc tam đảo không còn là loài đặc hữu của Việt Nam mà đã mở rộng vùng phân bố sang phía nam Trung Quốc.
Nghiên cứu của Zhang và cộng sự (2008) về mối quan hệ họ hàng giữa các loài trong họ Cá cóc đã chỉ ra rằng các đặc điểm của hệ gen đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự liên kết giữa các loài này.
Cá cóc tam đảo (Paramesotriton deloustali) có mối quan hệ gần nhất với loài
Cá cóc hồng kông (Paramesotriton hongkongensis)
Currently, Vietnam has recorded eight species of newts, including the Tam Dao Newt (Paramesotriton deloustali), Guangxi Newt (Paramesotriton guangxiensis), Vietnamese Newt (Tylototriton vietnamensis), Ziegler's Newt (Tylototriton ziegleri), and Lao Newt (Tylototriton notialis).
Cá cóc gờ sọ mảnh (Tylototriton anguliceps Le, Nguyen, Nishikawa, Nguyen, Pham, Matsui, Bernardes, and Nguyen, 2015) và 2 loài mới công bố năm
2020 Tylototriton pasmansi Bernardes, Le, Nguyen, Pham, Pham, Nguyen, and Ziegler, 2020 và loài Tylototriton sparreboomi Bernardes, Le, Nguyen,
Pham, Pham, Nguyen, and Ziegler, 2020
Đã có một số nghiên cứu về các loài Cá cóc ở Việt Nam, đặc biệt là Cá cóc Tam Đảo Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu liên quan đến thức ăn, di chuyển và sinh thái của loài này vẫn còn hạn chế, chưa đủ sâu sắc và chưa tương xứng với giá trị khoa học và bảo tồn cần thiết.
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Điều kiện tư nhiên Vườn Quốc gia Tam Đảo
2.1.1 Vị trí, danh giới và địa hình Vườn Quốc gia Tam Đảo
Tam Đảo là một dãy núi dài 80 km, nổi bật với ba đỉnh cao: Thiên Thị (1.378 m), Thạch Bàn (1.388 m) và Phủ Nghĩa (1.375 m), trong đó đỉnh Tam Đảo Bắc cao nhất với 1.592 m Vườn quốc gia Tam Đảo nằm trong khu vực này, kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, và được quy hoạch để bảo tồn các giá trị thiên nhiên.
Vườn quốc gia Tam Đảo nằm trong khu vực có tọa độ từ 21°21 - 21°42' vĩ độ Bắc đến 105°23 - 105°44' kinh độ Đông, thuộc địa giới hành chính của 3 tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang Với vị trí cách thủ đô Hà Nội 75 km về phía Tây Bắc và cách thành phố Vĩnh Yên 13 km về phía Bắc, vườn quốc gia này có diện tích ban đầu là 36,883 ha từ độ cao 100 m trở lên Sau khi điều chỉnh ranh giới năm 2002, diện tích hiện nay do Vườn quốc gia Tam Đảo quản lý là 34,995 ha, với địa hình được chia thành 4 kiểu chính.
1 Thung lũng giữa núi và đồng bằng ven sông, suối: Độ cao dưới 100 m, độ dốc < 7°, phân bố dưới chân núi vả ven sông, suối
2 Đồi cao trung bình: Độ cao 100 - 400 m, độ dốc từ 10° – 25°; phân bổ xung quanh chân núi và tiếp giáp với đồng bằng
3 Núi thấp: Độ cao từ 400 - 700 m, độ dốc > 25 °; phân bố giữa 2 kiểu địa hình đồi cao và núi trung bình
4 Núi trung bình: Độ cao từ 700 - 1500 m, độ dốc > 25°; phân bố ở phần trên của khối núi; các đỉnh và dông núi đều sắc và nhọn, địa hình rất hiểm trở
2.1.2 Tài nguyên rừng và đất rừng
Hiện trạng tài nguyên và sử dụng đất của Vườn (theo dự án đầu tư giai đoạn 2005 - 2008) được thể hiện theo bảng sau:
Bảng 2.1 Hiện trạng tài nguyên rừng và sử dụng đất
(Nguồn: Vườn quốc gia Tam Đảo)
2.1.3 Các hệ sinh thái rừng
Vườn quốc gia Tam Đảo là một khu vực đa dạng sinh học, nơi tập hợp nhiều loại thực vật từ các khu rừng nhiệt đới Đông Nam Á, rừng nhiệt đới Nam Trung Quốc và rừng á nhiệt đới vùng núi Himalaya Theo nghiên cứu, VQG Tam Đảo có 8 kiểu rừng khác nhau, bao gồm: rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, rừng kín thường xanh mưa ấm á nhiệt đới, rừng lùn trên núi, rừng tre nứa, rừng phục hồi sau nương rẫy và khai thác kiệt, rừng trồng, trảng cỏ, và trảng cỏ cây bụi.
Bảo cáo quy hoạch Vườn quốc gia Tam Đảo)
2.1.4 Sự đa dạng về khu hệ thực vật Đa dạng về thành phần loài: Đến nay đã thống kê được 1.282 loài thuộc 660 chi, 179 họ thực vật bậc cao có mạch Trong đó có 42 loài thực vật
TT Loại đất - Loại rừng Diện tích (ha) Tỷ lệ(%)
2 Đất khác (chưa bàn giao cho
Vườn Quốc gia có diện tích 1.869,93 ha, với 5,34% diện tích là các loài thực vật đặc hữu và 64 loại quý hiếm cần được bảo vệ Một số loài tiêu biểu bao gồm Hoàng Thảo Tam Đảo (Dendrobium TanDaoensis), Trà hoa đài (Camellia lengicaudata), Trà hoa vàng Tam Đảo (Camellia petelotii), Hoa tiên (Aarium petelotii), Chuỷ hoa leo (Mosla tamdaoensis), và Trọng lâu kim tiền (Paris delavai) Đặc biệt, vườn còn đa dạng về giá trị sử dụng với 234 loại cây gỗ quý.
Vườn quốc gia Tam Đảo sở hữu sự đa dạng sinh học phong phú với nhiều nhóm cây khác nhau, bao gồm: (i) Nhóm cây gỗ quý như Sến mật, Dẻ, Re, Giổi; (ii) Nhóm cây ăn quả với 109 loại như Sấu, Trám, Khế; (iii) Nhóm cây tinh dầu gồm 32 loài như Gù hương, Màng tang; (iv) Nhóm cây cảnh với 152 loại như Tuế, Đỗ quyên, Phong lan; (v) Nhóm cây dược liệu lên tới 361 loài; và (vi) Nhóm cây cho tinh bột với 5 loại như Củ mài, Dong giềng.
2.1.5 Sự đa dạng về khu hệ động vật
Vườn Quốc gia Tam Đảo ghi nhận 77 loài thú, trong đó có 16 loài bị đe dọa ở cấp quốc gia và 17 loài ở cấp độ thế giới Theo Nghị định 32/2006/NĐ-CP, có 16 loài thú được đặc biệt chú ý Tổng cộng có 21 loài thuộc diện ưu tiên bảo tồn, trong đó 17 trong số 31 loài thú lớn (54,8%) cũng nằm trong danh sách ưu tiên bảo tồn của VQG và Việt Nam.
Khu hệ chim: theo số liệu điều tra giai đoạn 2004-2005 (Peter.D và Lê
Theo nghiên cứu của Mạnh Hùng (2005) và các số liệu từ nhiều nguồn khác, Khu hệ chim tại VQG Tam Đảo có hơn 280 loài Đây là lần đầu tiên ghi nhận được số lượng lớn các loài chim di cư ăn thịt, khẳng định VQG Tam Đảo là một địa điểm quan sát chim quan trọng ở miền Bắc Việt Nam.
Khu hệ bò sát và ếch nhái tại VQG Tam Đảo đã được ghi nhận với 180 loài, bao gồm 57 loài ếch nhái thuộc 3 bộ và 8 họ, cùng 123 loài bò sát thuộc 3 bộ và 17 họ Đặc biệt, khu vực này đã phát hiện 2 loài mới cho khoa học là Leptolalax sunggi (1998) và Rana trankien (2003) Trong tổng số loài, có 38 loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam.
Nam và thế giới, loại CITES và NĐ 32/2006)
Khu hệ côn trùng: Theo các báo cáo nghiên cứu, Khu hệ bướm VQG
Theo nghiên cứu của Vũ Văn Liên (2005), Vườn quốc gia Tam Đảo đã ghi nhận tổng cộng 360 loài bướm Trong đó, họ Nymphalidae chiếm ưu thế với 86 loài, tiếp theo là họ Hesperiidae với 77 loài và họ Lycaenidae có 53 loài Hai họ Aeraieidae và Lylytheidae có số loài ít nhất, mỗi họ chỉ có 3 loài Đáng chú ý, trong số các loài bướm này, có 9 loài quan trọng (Nguồn: Báo cáo quy hoạch Vườn quốc gia Tam Đảo).
Theo quyết định 136/TTg, dự án đầu tư xây dựng Vườn quốc gia Tam Đảo được phê duyệt với ranh giới từ độ cao 100 m trở lên làm đường cơ sở Khi triển khai quy hoạch và giao đất, ngoài yếu tố độ cao, cần xem xét các yếu tố khác như tính bền vững, dễ nhận biết và đảm bảo sự hài hòa giữa bảo tồn và phát triển.
Về quản lý hành chính: Vùng lõi nằm trên địa bàn của 23 xã thuộc 4 huyện Tam Đảo, Bình Xuyên (Vĩnh Phúc), Sơn Dương (Tuyên Quang) và Đại
Tổng diện tích vùng lõi theo quy hoạch hiện nay là: 34.995 ha
+ Vùng lõi được phân chia thành 3 phân khu chức năng:
- Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt:
Diện tích: là 17.295 ha, từ độ cao 400 trở lên
Chức năng: Bảo vệ nghiêm ngặt, cấm mọi hoạt động làm ảnh hưởng đến hệ động vật, thực vật rừng
- Phân khu phục hồi sinh thái
Diện tích của khu vực này là 15.398 ha, được xác định là phần diện tích bao quanh phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, kéo dài từ ranh giới của Vườn đến ranh giới của phân khu bảo vệ nghiêm ngặt.
Chức năng của việc bảo vệ rừng bao gồm bảo tồn các khu rừng hiện có, khoanh nuôi những khu vực có khả năng tái sinh tự nhiên, và trồng rừng mới trên những diện tích đất trống Điều này nhằm phục hồi diện tích rừng đã bị tàn phá và bảo vệ các phân khu bảo vệ nghiêm ngặt.
- Phân khu dịch vụ - hành chính
Khu vực có diện tích 2.302 ha, bao gồm một phần đất thị trấn Tam Đảo, tọa lạc trên sườn núi Tam Đảo thuộc tỉnh Vĩnh Phúc Nơi đây bao quanh khu nghỉ mát Tam Đảo và nằm ở km 13 trên đường lên núi Tam Đảo.
Chức năng của tổ chức là thúc đẩy du lịch sinh thái tại Việt Nam, thu hút du khách trong và ngoài nước đến khám phá thiên nhiên Điều này bao gồm việc xây dựng các cơ sở như nhà làm việc, nhà khách, vườn thực vật và phòng nghiên cứu về động thực vật rừng, cùng với các công trình hỗ trợ phục vụ cho nghiên cứu khoa học và phát triển du lịch.
Kinh tế - xã hội
Vườn quốc gia Tam Đảo và vùng đệm bao gồm 27 xã, thị trấn thuộc 6 huyện, thị xã của 3 tỉnh: Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang, với tổng dân số khoảng 201.971 người và 45.526 hộ vào năm 2009 Trong đó, nam giới chiếm 48,27% và nữ giới chiếm 51,73% Khu vực này không chỉ có người Kinh, mà còn có 7 dân tộc thiểu số khác, với người Kinh chiếm 63% và các dân tộc còn lại chiếm 37%, bao gồm Sản Dìu, Sán Chi, Dao, Tày, Nùng, Cao Lan, Hoa và Ngải Tỷ lệ tăng dân số bình quân trong vùng đệm là 1,10%.
Thị trấn Tam Đảo, nằm trong ranh giới của Vườn Quốc gia Tam Đảo, là một khu hành chính độc lập đã tồn tại từ lâu, không thuộc sự quản lý của VQG Trong vùng lõi của thị trấn, hiện có 65 hộ dân với khoảng 200 nhân khẩu, phân bố ở các huyện Đại Từ (36 hộ), Tam Đảo (27 hộ) và Sơn Dương.
Trước khi Vườn được thành lập vào ngày 15/5/1996, có 02 hộ dân đã cư trú tại đây, trong đó một số hộ đã được cấp sổ đỏ từ năm 1996 Thu nhập chính của các hộ này chủ yếu đến từ nghề trồng chè, bên cạnh đó họ còn có nguồn thu từ việc trồng hoa màu như lúa nước một vụ, ngô, khoai, sắn và chăn nuôi gia súc thông qua việc nhận khoán bảo vệ rừng.
Mật độ dân số: Bình quân chung: 233 người/km, cụ thể như sau:
Tỉnh Vĩnh Phúc có mật độ dân số trung bình đạt 230 người/km², trong khi tỉnh Tuyên Quang ghi nhận mật độ là 192 người/km² Đặc biệt, tỉnh Thái Nguyên có mật độ dân số cao nhất với 253 người/km².
Các dân tộc trên thường sinh sống xen kẽ nhau, hình thành nên các thôn, bản ở khu vực xung quanh chân núi Tam Đảo, nơi mỗi dân tộc mang trong mình những tập quán và nét văn hóa riêng biệt, tạo nên sự đa dạng và phong phú về bản sắc văn hóa địa phương.
2.2.2 Tình hình kinh tế và và thu nhập
Theo kết quả điều tra năm 2006 của Dự án Quản lý VQG Tam Đảo và vùng đệm, được hỗ trợ bởi tổ chức GTZ (Đức), khu vực vùng đệm VQG Tam Đảo không còn hộ đói, với tỉ lệ hộ nghèo trung bình chỉ còn 11,33%.
Bảng 2.2 Tình trạng đói nghèo khu vực
Số hộ nghèo Số hộ TB, khá, giàu
(Nguồn: Dự án quản lý Vườn quốc gia Tam Đảo) 2.2.3 Cơ cấu lao động
Lực lượng lao động trong độ tuổi từ 18 đến 60 tại khu vực Tam Đảo đạt 122.190 người, chiếm khoảng 60% tổng dân số Dân số trẻ và sự gia tăng lực lượng lao động đang diễn ra, tuy nhiên, trình độ lao động còn thấp với tỷ lệ học sinh trung học phổ thông chỉ đạt 5% Lao động nông nghiệp chiếm tới 94%, dẫn đến tình trạng dư thừa lao động nông thôn ngày càng gia tăng Hầu hết lao động chưa qua đào tạo, gây ra hiệu quả lao động thấp và thiếu việc làm, tạo nên những vấn đề bức xúc trong khu vực hiện nay.
Lao động trong ngành lâm nghiệp tại vùng đệm hiện chỉ chiếm khoảng 6% tổng số lao động, một tỷ lệ quá thấp so với tiềm năng thiên nhiên và lợi thế của khu vực Tình trạng này dẫn đến lực lượng lao động không ổn định và thiếu việc làm Do đó, cần thiết phải có các chính sách đầu tư vốn và trang bị kiến thức để xây dựng mô hình trang trại nông lâm nghiệp, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế lâm nghiệp.
Chương 3 MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Bổ sung cơ sở dữ liệu về tình trạng và phân bố của loài Cá cóc Tam Đảo (Paramesotriton deloustali Bourret, 1934) ở Việt Nam
- Xác định tình trạng, khu vực phân bố của Cá cóc Tam Đảo tại Vườn Quốc gia Tam Đảo
- Xác định các mối đe dọa đến loài Cá cóc Tam Đảo tại Vườn Quốc gia Tam Đảo
- Đề xuất các giải pháp quản lý và bảo tồn Cá cóc Tam Đảo tại Vườn Quốc gia Tam Đảo.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Loài Cá cóc Tam Đảo (Paramesotriton deloustali Bourret,1934)
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm các xã Tây Thiên, Tam Đảo, Vĩnh Phúc, Đạo Trù, Tân Đồng, Tam Quan, Ninh Lai, Sơn Dương, Tuyên Quang, Thiện Kế, Hợp Hòa, Kháng Nhật, và thị trấn Tam Đảo, cùng với các khu vực như Mỹ Yên, Hoàng Nông, Phú Xuyên, Quân Chu, La Vương thuộc Vườn Quốc gia Tam Đảo, tỉnh Thái Nguyên.
Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu hiện trạng của Cá cóc Tam Đảo (Paramesotriton deloustali Bourret, 1934) tại Vườn Quốc gia Tam Đảo
- Nghiên cứu khu vực phân bố Cá cóc Tam Đảo (Paramesotriton deloustali Bourret, 1934) tại Vườn Quốc gia Tam Đảo
- Xác định các mối đe dọa đến loài Cá cóc Tam Đảo (Paramesotriton deloustali Bourret, 1934) tại Vườn Quốc gia Tam Đảo
- Đề xuất các giải pháp quản lý và bảo tồn Cá cóc Tam Đảo (Paramesotriton deloustali Bourret, 1934) tại Vườn Quốc gia Tam Đảo.
Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Phương pháp kế thừa, chọn lọc tài liệu
Bài viết này kế thừa thông tin và tư liệu từ nhiều nguồn tài liệu quan trọng như giáo trình, bài giảng, tạp chí khoa học, báo cáo khoa học và luận chứng kinh tế kỹ thuật của Vườn Quốc gia Tam Đảo, nhằm phục vụ cho nội dung nghiên cứu một cách hiệu quả.
- Các báo cáo khoa học ngoài nước liên quan đến phân bố, tình trạng các loài Cá cóc ở Việt Nam nói chung và Cá cóc Tam Đảo nói riêng
Phỏng vấn người dân địa phương và cán bộ quản lý, kết hợp với việc thu thập mẫu vật sử dụng trong nhà như mẫu ngâm rượu, nuôi làm cảnh và mẫu khô, giúp cung cấp thông tin quan trọng về phân bố và tình trạng của Cá cóc ở khu vực điều tra Đối tượng phỏng vấn bao gồm những người có kinh nghiệm đi rừng, cán bộ quản lý, kiểm lâm viên và người dân bản địa am hiểu về Cá cóc Tam Đảo Câu hỏi phỏng vấn cần được chuẩn bị ngắn gọn và dễ hiểu, và thông tin thu thập sẽ được ghi vào mẫu biểu đã định sẵn.
Mẫu biểu 01 Câu hỏi phỏng vấn
Tên người phỏng vấn, tuổi, dân tộc và địa chỉ của người được phỏng vấn được ghi rõ Ngày và nơi phỏng vấn cũng được ghi lại Người phỏng vấn hỏi về các khu vực mà Cá cóc Tam Đảo thường sinh sống trong Vườn Quốc gia Tam Đảo thuộc xã La Bằng, Hoàng Nông Ngoài ra, người phỏng vấn cũng muốn biết thời gian trong ngày mà Cá cóc Tam Đảo thường xuất hiện nhiều nhất.
Cá cóc Tam Đảo thường ăn các loại thức ăn tự nhiên như côn trùng và thực vật thủy sinh Thời gian sinh sản của Cá cóc Tam Đảo thường diễn ra vào mùa mưa, khi điều kiện môi trường thuận lợi cho sự phát triển của chúng.
Cá cóc Tam Đảo thường kiếm ăn vào ban đêm, và hiện nay chúng xuất hiện nhiều ở các con suối trong khu vực Tam Đảo.
Bác (Anh,chị) cho biết hiện nay người dân có đánh bắt Cá cóc Tam Đảo không?
Bác (Anh,chị) cho biết Cá cóc Tam Đảo còn nhiều so với 5 năm về trước không?
Bác (Anh,chị) cho biết Cá cóc Tam Đảo giảm là do đâu?
Bác (Anh,chị) cho biết những ảnh hưởng đến loài Cá cóc Tam Đảo?
Bác (Anh,chị) cho biết sinh cảnh sống của Cá cóc Tam Đảo có chịu tác động của con người hay không?
Bác (Anh,chị) cho biết tác dụng của Cá cóc Tam Đảo là gì? Cách chế biến, sử dụng và bảo quản?
Bác (Anh,chị) cho biết muốn bảo tồn Cá cóc Tam Đảo cần phải làm gì?
Cảm ơn Bác (Anh,chị) cho biết những thông tin cần thiết và quan trọng về
3.4.3 Phương pháp điều tra thực địa
Dựa vào thông tin phỏng vấn và tài liệu liên quan, nghiên cứu đã xác định các khu vực chính phân bố Cá cóc Tam Đảo tại Vườn Quốc gia Tam Đảo Trong đợt nghiên cứu này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 20 tuyến khác nhau.
Bảng 3.1 Danh sách các tuyến điều tra tại khu vực nghiên cứu
Stt Tên tuyến Tọa độ điểm đầu Tọa độ điểm cuối
Tam Quan, Tam Đảo, Vĩnh Phúc 562487/2371632 563887/2372907 1300
Stt Tên tuyến Tọa độ điểm đầu Tọa độ điểm cuối
La Vương, Mỹ Yên, Đại Từ, Thái Nguyên 404422/2387729 403695/2387375 1300
Hình 3.1 Sơ đồ các tuyến điều tra tại khu vực nghiên cứu
Trên tuyến điều tra, người điều tra sẽ di chuyển dọc theo lộ trình để ghi nhận các thông tin quan trọng Họ cần chú ý đến tốc độ di chuyển phù hợp và quan sát tỉ mỉ những khu vực có sự xuất hiện nhiều nhất của loài, đặc biệt là các khe nước, vũng nước, cùng với vị trí và sinh cảnh thích hợp cho Cá cóc.
Hình 3.2 Điều tra thực địa
Khi tiến hành mô tả sinh cảnh, cần đếm số lượng cá thể, xác định giới tính và cấu trúc quần thể Việc chụp ảnh sinh cảnh, sử dụng vợt và kẹp để bắt Cá cóc nhằm xác định giới tính cũng rất quan trọng Tất cả thông tin này cần được ghi chép cẩn thận trong các biểu mẫu quy định.
Mẫu biểu 01 PHIẾU ĐIỀU TRA CÁ CÓC TAM ĐẢO THEO TUYẾN
Tuyến số: Khu vực điều tra:
Tọa độ điểm đầu: Tọa độ điểm cuối:
Ngày điều tra: Thời tiết:
Thời gian bắt đầu: Thời gian kết thúc:
Số lượng cá cóc Tam Đảo
Vị trí cá cóc khi quan sát Đặc điểm sinh cảnh
Mẫu biểu 02 PHIẾU ĐIỀU TRA ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI CỦA CÁ CÓC TAM ĐẢO TRONG MÔI
Ngày điều tra: Thời tiết: Người điều tra: Khu vực điều tra: Sinh cảnh chủ yếu: Thời gian bắt đầu: Thời gian kết thúc:
Sinh cảnh Độ tàn che
Dài thân (cm) (nếu bắt được)
Dài đuôi (cm) (nếu bắt được)
(g) (nếu bắt được) Độ rộng của suối (m) Độ sâu của nước (m)
Vị trí của cá cóc so với mặt nước (m)
Hoạt động của cá cóc tại thời điểm quan sát
Nhiệt độ môi trường (độ c)
Mẫu biểu 03 PHIẾU ĐIỀU TRA PHÂN BỐ CÁ CÓC TAM ĐẢO
Tuyến số: Khu vực điều tra:
Tọa độ điểm đầu: Tọa độ điểm cuối:
Ngày điều tra: Thời tiết:
Thời gian bắt đầu: Thời gian kết thúc:
Tọa độ ghi nhận Độ cao
Số lượng cá thể bắt gặp
Hình 3.3 Mặt lưng và mặt bụng Cá cóc Tam Đảo
Hình 3.4 Đo kích thước của Cá cóc Tam Đảo
3.4.4 Phương pháp xử lý số liệu
- Mật độ trung bình trên các tuyến điều tra
Tổng hợp kết quả điều tra trên tuyến quan sát được tính mật độ trung bình trên tuyến của loài thông qua công thức sau:
DT: Mật độ trên tuyến n: Số cá thể quan sát thấy trên tuyến
St: Diện tích tuyến quan sát (ha)
Chiều rộng của tuyến được xác định bằng cách đo chiều rộng tại ba điểm: đầu tuyến (khe suối), giữa suối và điểm cuối tuyến Sau đó, tổng hợp các giá trị đo được và tính giá trị trung bình Chiều dài của tuyến được tính từ điểm đầu đến điểm kết thúc của quá trình điều tra.
Xđ: điểm đầu Xg: điểm giữa Xc: điểm cuối
- Mật độ trung bình quần thể trên toàn suối khu vực VQG (cá thể/ha):
Tổng hợp kết quả điều tra trên các tuyến ta tính được mật độ trung bình trên toàn suối VQG qua công thức:
- Hiệu suất tìm kiếm Để đánh giá về phân bố, tình trạng, tần suất tìm kiếm của loài sử dụng công thức tính hiệu suất tìm kiếm sau:
X= 𝑁 𝐻 (cá thể/giờ tìm kiếm) Trong đó:
N: Số cá thể tìm thấy
H=h*n (h là số giờ tìm kiếm, n số loài tìm thấy).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Mật độ, hiệu suất tìm kiếm Cá cóc tam đảo tại khu vực nghiên cứu
4.1.1 Mật độ trung bình Cá cóc tam đảo trên tuyến điều tra
Nghiên cứu đã điều tra 20 tuyến ở khu vực nghiên cứu, cho thấy mật độ trung bình của các tuyến khác nhau Tuyến 14 có mật độ cao nhất với 38,89 cá thể/ha, tiếp theo là tuyến 1 với 23,14 cá thể/ha Các tuyến khác ghi nhận mật độ thấp hơn, cụ thể tuyến 13 là 1,82 cá thể/ha, tuyến 7 là 1,45 cá thể/ha, tuyến 3 là 1,19 cá thể/ha và tuyến 8 chỉ ghi nhận 0,42 cá thể/ha 14 tuyến còn lại không có ghi nhận nào, điều này được thể hiện rõ qua biểu đồ.
Mật độ trung bình trên tất cả các tuyến điều tra: DT=3,35 (cá thể/ha)
Hình 4.1 Biểu đồ mật độ trung bình Cá cóc tam đảo trên các tuyến điều tra
4.1.2 Mật độ trung bình Cá cóc tam đảo trên toàn suối khu vực nghiên cứu
Kết quả điều tra từ 20 tuyến tại khu vực nghiên cứu cho thấy mật độ trung bình của cá cóc Tam Đảo ở các tuyến điều tra khác nhau Tuyến số 14 ghi nhận mật độ trung bình cao nhất với 16,5 cá thể/ha, tiếp theo là tuyến khác.
Mật độ trung bình cá thể cá cóc tam đảo trên các tuyến điều tra cho thấy sự biến đổi rõ rệt: tuyến số 1 ghi nhận 15,83 cá thể/ha, trong khi tuyến số 13 chỉ có 5 cá thể/ha, tuyến số 2 là 4,76 cá thể/ha, tuyến số 7 có 3,47 cá thể/ha, và tuyến số 8 là 2,08 cá thể/ha Các tuyến còn lại không ghi nhận cá thể nào Sự khác biệt về số lượng cá cóc tam đảo giữa các tuyến điều tra có thể được giải thích bởi độ cao, địa hình, diện tích và sinh cảnh của từng tuyến.
Theo kết quả điều tra, mật độ trung bình của cá cóc Tam Đảo tại các suối trong VQG đạt 2,38 cá thể/ha.
Hình 4.2 Biểu đồ thể hiện mật độ trung bình trên toàn suối VQG
4.1.3 Hiệu suất tìm kiếm Cá cóc tam đảo ở khu vực nghiên cứu
Trong nghiên cứu về loài Cá cóc Tam Đảo, tổng số giờ tìm kiếm đạt 222 giờ với sự tham gia của 49 người Kết quả cho thấy tuyến điều tra số 14 có hiệu suất bắt gặp cao nhất với 2 cá thể/giờ, tiếp theo là tuyến số 1 với 1,41 cá thể/giờ, tuyến số 7 ghi nhận 0,45 cá thể/ha, tuyến số 2 có 0,44 cá thể/giờ, tuyến số 8 với 0,38 cá thể/giờ và tuyến số 13 đạt 0,33 cá thể/giờ Các tuyến còn lại không ghi nhận được cá thể nào trong đợt nghiên cứu này.
Mật độ trung bình toàn suối VQG (cá thể/ha)
Hiệu suất tìm kiếm trung bình trong khu vực nghiên cứu đạt 0,022 cá thể/giờ, cho thấy rằng một người tìm kiếm trong một giờ có khả năng phát hiện 0,022 cá thể Cá cóc Tam Đảo.
Hình 4.3 Biểu đồ thể hiện hiệu suất tìm kiếm Cá cóc tam đảo
Phân bố Cá cóc tam đảo theo khu vực nghiên cứu và đai độ cao
4.2.1 Phân bố Cá cóc tam đảo theo các tuyến và khu vực điều tra
Trong nghiên cứu tại Vườn quốc gia Tam Đảo, 20 tuyến được điều tra ở 3 tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và Thái Nguyên đã ghi nhận sự xuất hiện của Cá cóc tam đảo Cụ thể, 68 cá thể được phát hiện tại 6 tuyến, trong đó tuyến số 14 có số lượng cao nhất với 33 cá thể (48,5%), tiếp theo là tuyến số 1 với 19 cá thể (27,9%) thuộc khu vực Tây Thiên, tỉnh Vĩnh Phúc Tuyến 7 ghi nhận 5 cá thể (7,4%) tại Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, trong khi 2 tuyến 2 và 13 mỗi tuyến ghi nhận 4 cá thể (5,9%) cũng thuộc Tây Thiên, Vĩnh Phúc Tuyến 8 ghi nhận 3 cá thể (4,4%) tại Sơn Dương, Tuyên Quang 14 tuyến còn lại không phát hiện Cá cóc tam đảo, trong đó có 6 tuyến ở Thái Nguyên, 2 tuyến ở Tuyên Quang và 6 tuyến ở Vĩnh Phúc.
Hình 4.4 Biểu đồ thể hiện số lượng Cá cóc tam đảo trên các tuyến
Theo biểu đồ, số lượng Cá cóc tam đảo được ghi nhận chủ yếu tại tỉnh Vĩnh Phúc với 60 cá thể, chiếm 88,2% tổng số Tiếp theo là tỉnh Tuyên Quang với 8 cá thể, chiếm 11,8% Trong khi đó, khu vực Thái Nguyên không ghi nhận được cá thể nào.
Hình 4.5 Biểu đồ thể hiện số lượng Cá cóc tam đảo ở các khu vực nghiên cứu
Số lượng Cá cóc bắt gặp trên tuyến
Vĩnh Phúc Tuyên Quang Thái Nguyên
Số Lượng cá thể bắt gặp
Khu vực tỉnh Vĩnh Phúc ghi nhận số lượng cá cóc nhiều nhất, tiếp theo là tỉnh Tuyên Quang, trong khi khu vực thuộc tỉnh Thái Nguyên không được ghi nhận trong nghiên cứu này.
4.2.2 Phân bố Cá cóc tam đảo theo đai độ cao
Bain & Hurley (2011) căn cứ vào điều kiện tự nhiên gồm địa hình và thảm thực vật đã phân chia khu vực Đông Dương thành 02 đai độ cao dưới
Nghiên cứu về Cá cóc Tam Đảo đã phân chia các đai độ cao từ 0-1000m, cụ thể là 0-200m, 200-400m, 400-800m và 800-1000m Trong tổng số 68 cá thể Cá cóc được ghi nhận qua 20 tuyến điều tra, đai độ cao từ 200-400m có số lượng cá thể cao nhất với 58 cá thể, chiếm 85,3% tổng số Tiếp theo là đai 0-200m với 6 cá thể, chiếm 8,8% Hai đai 400-800m và 800-1000m chỉ ghi nhận 2 cá thể, mỗi đai chiếm 2,9% tổng số cá thể.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, Cá cóc chủ yếu phân bố ở độ cao từ 200-400m so với mực nước biển, tiếp theo là khu vực từ 0-200m Tuy nhiên, do chỉ điều tra 20 tuyến trong thời gian ngắn, kết quả này chưa phản ánh đầy đủ sự phân bố của loài Cá cóc Tam Đảo.
Hình 4.6 Biểu đồ thể hiện phân bố theo đai độ cao
Phân bố Cá cóc theo độ cao
Ghi nhận Cá cóc tam đảo theo độ sâu bắt gặp so với mặt nước
Trong quá trình điều tra vị trí của Cá cóc Tam Đảo, các cá thể được ghi nhận ở ba độ sâu khác nhau: dưới 0,25 mét, từ 0,25-0,3 mét và trên 0,3 mét Kết quả cho thấy, độ sâu trên 0,3 mét có số lượng cá thể cao nhất với 40 cá thể, chiếm 58,8% tổng số cá thể ghi nhận Tiếp theo, ở độ sâu từ 0,25-0,3 mét ghi nhận 19 cá thể, chiếm 27,9%, trong khi độ sâu dưới 0,25 mét chỉ ghi nhận 9 cá thể, chiếm 13,2% tổng số cá thể.
Các mối đe dọa đến loài Cá cóc tam đảo (Paramesotriton deloustali Bourret, 1934) tại Vườn Quốc gia Tam Đảo
Việc khai thác du lịch tại VQG Tam Đảo đã dẫn đến mất sinh cảnh sống của loài Cá cóc tam đảo, khi các tuyến du lịch và cáp treo được xây dựng Nhiều khe suối trong khu vực hiện nay bị ảnh hưởng bởi sự phát triển du lịch, với nhiều quán xá mọc lên gần các điểm vào suối để phục vụ nhu cầu ăn uống của du khách Hàng ngày, hàng loạt đoàn khách ghé thăm, làm gia tăng áp lực lên môi trường tự nhiên nơi đây.
Vị trí bắt gặp Cá cóc so với mặt nước
Các bãi tắm nhỏ trong các khe suối, nơi mọi người nghỉ ngơi, vui chơi và ăn uống, chính là môi trường sống của loài Cá cóc Tuy nhiên, việc xả rác ra môi trường này đang đe dọa sự tồn tại của chúng.
Hình 4.8 Hoạt động du lịch gây tác động đến môi trường
Hoạt động phát triển du lịch tại vườn quốc gia đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường, đặc biệt là sinh cảnh sống của Cá cóc Tuyến đường đi qua vườn quốc gia không chỉ gây ô nhiễm môi trường mà còn ảnh hưởng đến các khe suối đầu nguồn như suối Tây Thiên và suối chảy ra Tam Quan.
Hình 4.9 Hoạt động mở đường làm tuyến du lịch xuyên Vườn quốc gia
Xâm lấn và chiếm dụng đất lâm nghiệp là vấn đề phổ biến tại khu vực ranh giới giữa Vườn Quốc Gia và vùng đệm, ngay cả ở những nơi đã xác định rõ ràng Tại những khu vực có người dân sinh sống và canh tác bên trong Vườn, họ thường xuyên di chuyển để sản xuất và thu hoạch các sản phẩm như chè và cây công nghiệp Hoạt động lấn chiếm đất rừng ở những nơi này diễn ra một cách tinh vi và khó kiểm soát.
Săn bắt, buôn bán và sử dụng trái phép sản phẩm từ các loài hoang dã, cùng với việc khai thác tài nguyên phi gỗ như củi và dược liệu, đang tạo ra áp lực liên tục tại nhiều khu vực trong và xung quanh Vườn Quốc Gia.
Hình 4.10 Ảnh người dân vào khai thác củi và lâm sản ngoài gỗ
Một số loài bò sát và ếch nhái phổ biến bị săn bắt và buôn bán bao gồm tắc kè, rắn ráo thường, rắn sọc dưa, rắn hổ mang, rùa đất Spengle, rùa sa nhân và cá cóc Tam Đảo.
Hình 4.11 Ảnh buôn bán Cá cóc làm thuốc
Du lịch tại thị trấn Tam Đảo, một trung tâm nghỉ dưỡng lâu đời nằm trong Vườn Quốc gia, đang chịu tác động lớn từ sự thiếu quản lý trong phát triển du lịch sinh thái bền vững Khu vực này không chỉ thu hút du khách mà còn phải đối mặt với các vấn đề như săn bắt và buôn bán trái phép các loài động, thực vật, bao gồm cả cá cóc Sự phát triển du lịch cần được điều chỉnh để bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học, đồng thời đảm bảo lợi ích cho các bên liên quan.
Nhận thức về bảo tồn và đa dạng sinh học của cộng đồng địa phương, đặc biệt là đối với loài Cá cóc tam đảo, vẫn còn hạn chế, đặc biệt ở các cộng đồng người dân tộc thiểu số Các hoạt động khai thác bất hợp pháp nguồn tài nguyên chủ yếu xuất phát từ đời sống và phong tục tập quán lạc hậu của người dân Hơn nữa, sự thiếu hiểu biết về bảo tồn, đặc biệt trong số 30% dân số vùng đệm là người dân tộc thiểu số, cũng đóng vai trò quan trọng trong vấn đề này.
Việc sử dụng kích điện để đánh bắt cá tại xã Ninh Lai và Sơn Sơn Dương đang gây ra tác động nghiêm trọng đến nguồn tài nguyên dưới nước Người dân tại khu vực này khai thác tài nguyên bằng phương pháp này, dẫn đến sự cạn kiệt nghiêm trọng của các loài như tôm và cá Đặc biệt, loài cá cóc cũng chịu ảnh hưởng nặng nề, với nguy cơ tuyệt chủng cao do sự tàn phá của kích điện Theo lời người dân, hoạt động này không chỉ làm giảm số lượng cá mà còn đe dọa sự tồn tại của các loài động vật dưới nước khác trong khu vực.
Đề xuất các giải pháp quản lý và bảo tồn Cá cóc tam đảo (Paramesotriton deloustali Bourret, 1934) tại Vườn Quốc gia Tam Đảo
Hiện nay, gần 1.556 loài động vật đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng, trong đó gần một nửa số sinh vật trên Trái Đất sinh sống tại các khu rừng nhiệt đới Tuy nhiên, diện tích rừng nhiệt đới đang giảm mạnh, dẫn đến sự tuyệt chủng của nhiều loài Việc bảo vệ động vật hoang dã trở nên cấp bách, không chỉ do sự tàn phá môi trường sống mà còn do hoạt động săn bắn của con người Bảo vệ động vật hoang dã là cần thiết để duy trì cân bằng sinh thái, đảm bảo môi trường sống trong lành, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và phát triển y học.
Ngày nay, sự gia tăng nhanh chóng của dân số toàn cầu đã dẫn đến nhu cầu thực phẩm cao, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên đất Nhiều cá nhân và tổ chức đang khai thác tài nguyên để làm giàu và phát triển du lịch, nhưng chủ yếu chỉ tập trung vào mục tiêu kinh tế mà bỏ qua bảo vệ môi trường Việc thiếu quy hoạch chi tiết và cơ chế quản lý lỏng lẻo tại các Vườn quốc gia và Khu bảo tồn càng làm trầm trọng thêm vấn đề, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn ra.
Dựa vào mật độ, phân bố và số lượng cá thể Cá cóc Tam Đảo qua điều tra và phỏng vấn, cho thấy chúng chủ yếu tập trung ở các khu vực ít bị tác động như Vĩnh Phúc và Tuyên Quang Do đó, cần đề xuất một số giải pháp bảo tồn hiệu quả nhằm bảo vệ loài này.
- Giải pháp về quản lý:
Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, đặc biệt là loài cá cóc, là nhiệm vụ quan trọng của cán bộ quản lý và lực lượng kiểm lâm Cần xây dựng một đội ngũ kiểm lâm mạnh mẽ để thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên quý giá này.
Để bảo vệ quần thể Cá cóc Tam Đảo tại tỉnh Thái Nguyên, cần tăng cường tuần tra và giám sát, đặc biệt trong mùa lễ hội và du lịch nhằm giảm thiểu các áp lực đe dọa đến loài này trong Vườn Quốc gia Tam Đảo.
Hạn chế tối đa các hoạt động du lịch xung quanh các suối còn phân bố của
Cá cóc tam đảo khu vực Tây Thiên Tăng cường lực lượng cán bộ quản lý
Tăng cường truy quét và xử lý nghiêm các hành vi khai thác, sử dụng trái phép tài nguyên, đặc biệt là nạn khai thác động vật rừng và loài Cá cóc Mục tiêu là nhanh chóng lập lại trật tự và kỷ cương trong quản lý tài nguyên tại VQG.
Cần tiến hành điều tra và xử lý nghiêm các đối tượng cầm đầu trong đường dây buôn bán động vật hoang dã trái phép, đặc biệt là buôn bán cá cóc Đồng thời, cần xóa bỏ tình trạng tham nhũng và những hành vi tiếp tay cho các đối tượng vi phạm pháp luật.
Để đạt được hiệu quả trong việc bảo vệ động vật hoang dã, cần có biện pháp răn đe mạnh mẽ thông qua việc trừng trị thích đáng các đối tượng vi phạm trong lĩnh vực vận chuyển và buôn bán động vật hoang dã Hành động này không chỉ giúp ngăn chặn các hành vi vi phạm mà còn tạo ra tác động răn đe đối với những đối tượng khác, góp phần bảo tồn các loài động vật quý hiếm.
+ Nghiêm cấm buôn bán các loài động vật hoang dã nói chung và buôn bán Cá cóc nói riêng
Vườn Quốc gia cần đầu tư vốn để nâng cao công tác bảo vệ và bảo tồn loài Cá cóc tam đảo
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và dụng cụ quan sát, điều tra phục vụ cho công tác quản lý và bảo tồn
Tạo sinh kế cho người dân địa phương sống xung quanh Vườn Quốc gia Ví dụ trồng cây dược liệu dưới tán rừng
Để bảo tồn và bảo vệ Cá cóc, cán bộ Vườn Quốc gia cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm hạn chế tối đa việc đánh bắt Cá cóc Tam Đảo cho mục đích thương mại Cần tịch thu các tang vật liên quan đến hoạt động đánh bắt và áp dụng hình phạt nghiêm minh đối với các hành vi săn bắt, mua bán trái phép.
Để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cộng đồng về bảo vệ loài cá cóc Tam Đảo, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục Qua đó, người dân sẽ nhận thức rõ vai trò quan trọng của rừng trong phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, cũng như hiểu được tầm quan trọng của đa dạng sinh học Việc này sẽ góp phần tăng cường sự giám sát của cộng đồng và các đoàn thể đối với công tác quản lý, bảo vệ rừng và loài cá cóc Tam Đảo tại địa phương.
Xây dựng các chương trình giáo dục truyền thông nhằm nâng cao nhận thức về pháp luật bảo vệ và phát triển loài Cá cóc Tam Đảo Cần đổi mới phương pháp tuyên truyền để phù hợp với từng đối tượng tiếp nhận thông tin, từ đó tăng cường hiệu quả trong việc phổ biến kiến thức và bảo vệ loài này.
Vận động các hộ dân trong rừng và gần rừng cam kết bảo vệ tài nguyên rừng, tài nguyên rừng cũng như bảo vệ Cá cóc tam đảo
Cộng đồng dân cư trong khu vực chủ yếu là người dân tộc thiểu số, đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến tài nguyên rừng và đa dạng sinh học (ĐDSH) Kinh tế là yếu tố quyết định trong đời sống của họ, vì vậy phát triển kinh tế bền vững và tạo nguồn thu nhập thay thế là cần thiết Điều này không chỉ giúp ổn định và nâng cao đời sống cho cộng đồng mà còn giảm bớt sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng, từ đó góp phần bảo tồn ĐDSH hiệu quả hơn.
- Giải pháp nghiên cứu khoa học:
Giám sát lặp lại cho loài cá cóc là cần thiết để hiểu rõ hơn về sinh thái, tập tính và nguồn thức ăn của chúng Việc này giúp đưa ra các biện pháp cải thiện môi trường sống, đặc biệt trong bối cảnh ứng phó với biến đổi khí hậu Hiểu biết sâu sắc về loài sẽ góp phần phát triển và bảo tồn hiệu quả hơn cho loài cá cóc.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trong nghiên cứu này, đã phát hiện Cá cóc Tam Đảo tại 6 tuyến điều tra với tổng cộng 68 cá thể Tuyến số 14 ghi nhận số lượng cao nhất với 33 cá thể, tiếp theo là các tuyến khác.
1 với 19 cá thể, thuộc khu vực Tây thiên tỉnh Vĩnh Phúc, tuyến số 7 ghi nhận
5 cá thể thuộc khu vực Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, 2 tuyến ghi nhận 4 cá thể gồm tuyến số 2 và tuyến số13
Mật độ trung bình của cá cóc trong khu vực điều tra đạt 3,35 cá thể/ha, trong khi mật độ quần thể trung bình là 2,38 cá thể/ha Hiệu suất tìm kiếm trung bình là 0,022 cá thể/giờ Cá cóc chủ yếu phân bố ở độ cao từ 200-400m so với mực nước biển, tiếp theo là khu vực từ 0-200m.