TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Tài nguyên rừng công cộng, chế độ sở hữu tài nguyên rừng cộng cộng
1.1.1.Tài nguyên rừng công cộng
Trong nhiều xã hội, tài nguyên thiên nhiên như nước, đồng cỏ và rừng thường được quản lý chung bởi cộng đồng địa phương thay vì cá nhân hay tổ chức nhà nước Do đó, việc hiểu rõ đặc điểm của các tài nguyên này và chế độ quyền sở hữu của chúng là rất quan trọng trong quản lý tài nguyên thiên nhiên hiệu quả.
Nhiều khu rừng có đặc tính của tài nguyên chung, được gọi là tài nguyên rừng công cộng Tài nguyên rừng chung không phải là hàng hóa tư hay hàng hóa công, nhưng lại mang đặc điểm của cả hai Giống như hàng hóa công, tài nguyên này có thể được sử dụng chung và khó ngăn chặn người khác không thuộc cộng đồng sử dụng, trong khi cũng giống hàng hóa tư ở chỗ có thể bị hao hụt khi sử dụng.
Tài nguyên rừng công cộng thường gặp khó khăn trong quản lý và sử dụng do tính chất loại trừ thấp, dẫn đến hiện tượng "mạnh ai nấy lấy" và tranh giành khai thác Điều này khiến mọi người thiếu động lực bảo vệ và quản lý tài nguyên, mà thay vào đó, có xu hướng khai thác tối đa Hơn nữa, việc sử dụng quá mức dễ xảy ra khi nhiều người cùng tham gia khai thác một khu rừng Kết quả là, tài nguyên công cộng thường bị khai thác quá mức, gây nguy cơ mất mát nghiêm trọng.
1.1.2 Chế độ sở hữu tài nguyên rừng công cộng
Gần đây, các nhà khoa học đã nhận thấy rằng không phải tất cả tài nguyên rừng công cộng đều bị mất mát, mà yếu tố quyết định cho việc quản lý hiệu quả tài nguyên rừng chính là chế độ sở hữu của các nguồn tài nguyên này.
Sở hữu công cộng là quyền sử dụng được kiểm soát bởi một cộng đồng hoặc nhóm người nhất định, cho phép quản lý hiệu quả thông qua hành động tập thể để tạo ra hàng hóa công.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc quản lý bền vững tài nguyên rừng trong chế độ cộng đồng có thể đạt được nếu cộng đồng sở hữu đủ bốn quyền cơ bản: tiếp cận, sử dụng, quản lý và loại trừ Điều này cho thấy rằng quyền chuyển nhượng không phải là yếu tố cần thiết cho sự bền vững trong quản lý rừng.
Quản lý rừng cộng đồng thực chất là việc quản lý tài nguyên rừng dưới chế độ sở hữu cộng đồng, cho phép thực hiện các phương pháp quản lý bền vững.
Trên thế giới
Rừng ở châu Á là tài nguyên công cộng quan trọng, và quản lý rừng công cộng được thực hiện dựa trên nhóm, bao gồm các tình huống mà trách nhiệm quản lý được giao cho các tập thể như dòng họ, bộ tộc, hay cộng đồng Quản lý rừng tập thể liên quan đến việc một số nhóm người nhất định nắm giữ quyền về đất đai, cây rừng và sản phẩm của chúng Trách nhiệm này thường được phân bổ cho một nhóm địa phương, với sự sở hữu công cộng hoặc quyền lợi được giao cho các tổ chức chung, thường là các thôn bản hoặc dòng họ Quản lý rừng cộng đồng, đặc biệt được giao cho các cộng đồng ở châu Á, thu hút sự quan tâm ở nhiều quốc gia trong khu vực.
Tại Nepal, việc quản lý và bảo vệ rừng cộng đồng thường gắn liền với các thôn bản nhỏ, nơi có những nét chung trong quản lý tài nguyên rừng, đặc biệt hiệu quả trong việc bảo vệ Các chỉ tiêu về quy chế tổ chức dựa trên sự thống nhất ý kiến của người sử dụng là yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống quản lý rừng bản địa, được xây dựng từ năm 1950 Từ đó, Chính phủ Nepal đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong thái độ đối với rừng vùng đồi, phản ánh sự tàn phá rừng ngày càng gia tăng và ảnh hưởng của nó đến đời sống nông thôn Mặc dù việc thi hành luật bảo vệ phát triển rừng ban đầu gặp thất bại, nhưng đã có nhiều thay đổi về chính sách, chuyển giao quyền quản lý rừng cho cộng đồng thôn bản.
Tại Ấn Độ, quá trình hiện đại hóa đã mang lại nhiều lợi ích cho các thôn bản xung quanh Delhi, nhưng cũng dẫn đến sự bùng nổ dân số, đảo lộn cân bằng tài nguyên và sự tan rã của các tổ chức cổ truyền Sự chuyển nhượng đất công từ sở hữu cộng đồng sang sử dụng tư nhân ngày càng gia tăng, làm gia tăng diện tích đất hoang hóa Trong thế kỷ 19, 2/3 đất đai Ấn Độ thuộc về cộng đồng, nhưng quá trình tư nhân hóa đã làm giảm tỷ lệ này Các phương thức quản lý tài nguyên công cộng truyền thống đã suy yếu, mặc dù vẫn đóng vai trò quan trọng trong nông nghiệp và đời sống của người nghèo Để quản lý tài nguyên công cộng bền vững, chính phủ Ấn Độ cần ưu tiên sửa đổi chính sách và hạn chế tư nhân hóa Vào đầu những năm 1970, chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển lâm nghiệp làng bản, đầu tư khoảng 400 triệu USD trong 15 năm cho chương trình này, với sự tham gia của người dân trong việc thiết lập các vườn ươm.
Tại Kalimanta, Indonesia, người dân thực hiện canh tác du canh, bắt đầu từ các khu rừng tự nhiên và sau đó mở rộng sang rừng thứ sinh Với áp lực dân số ngày càng tăng, các hộ gia đình yêu cầu quyền sở hữu nương rẫy và đất bỏ hoang, dẫn đến việc mở rộng quyền lợi cho thế hệ tiếp theo Sự cạnh tranh về nguồn lâm sản phụ như song mây, gỗ trầm hương và tổ ong giữa người dân địa phương và bên ngoài ngày càng gia tăng Tại miền Nam và Tây Sumatra, cộng đồng có quyền thu hái lâm sản và canh tác trên đất rừng của làng, trong khi một số khu rừng được bảo tồn và không ai được phép xâm phạm.
Tại miền núi Nam Á, có mối liên kết chặt chẽ giữa nông nghiệp và rừng, nơi rừng cung cấp các nguyên liệu thiết yếu cho hoạt động trang trại Những nguồn tài nguyên này bao gồm phân xanh, củi đun nấu, năng lượng sưởi ấm, cùng với gỗ xây dựng cho nhà cửa và chuồng trại.
Rừng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thức ăn cho gia súc như trâu, bò, dê, và cừu, góp phần vào hệ canh tác địa phương Mối quan hệ chặt chẽ giữa con người, đất đai, gia súc và rừng đã dẫn đến sự hình thành các tổ chức địa phương quản lý rừng công cộng trên diện tích lớn Các phương thức quản lý rừng không chỉ tập trung vào việc khai thác gỗ mà còn chú trọng đến việc thu hái thức ăn cho gia súc và chăn thả trong rừng Những phương pháp như luân canh đồng cỏ, chăn thả gia súc có kiểm soát, và chặt cụt ngọn cây để nuôi gia súc tại chuồng thường được áp dụng để thay thế cho hình thức chăn thả tự do.
Vào tháng 9 năm 2001, Chiang Mai, Thái Lan đã tổ chức hội thảo quốc tế về lâm nghiệp cộng đồng, nhấn mạnh nhu cầu phát triển mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam.
Việc phân chia lợi ích giữa cộng đồng bản địa, Nhà nước và các tổ chức bên ngoài đang gây ra mâu thuẫn nghiêm trọng tại nhiều quốc gia Hậu quả của việc can thiệp từ trên xuống trong quản lý tài nguyên đã dẫn đến sự suy giảm tài nguyên rừng và đất rừng, do thiếu thỏa thuận hợp lý trong việc bảo vệ và quản lý Mặc dù người dân địa phương và các tổ chức bên ngoài đã nỗ lực duy trì nguồn tài nguyên, nhưng hiệu quả vẫn chưa đạt được Do đó, nhiều quốc gia đang thử nghiệm các chương trình và cải thiện chính sách để giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích của người dân bản địa và yêu cầu phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường.
Châu Mỹ La Tinh là khu vực có diện tích rừng lớn nhất trong số các nước đang phát triển, với 996 triệu ha rừng và tỷ lệ che phủ đạt 48% Hơn một nửa diện tích rừng nhiệt đới còn lại trên thế giới hiện nay nằm trong khu vực này.
Rừng đóng vai trò quan trọng về kinh tế, sinh thái và xã hội trong sự phát triển của các quốc gia Tuy nhiên, tại các nước Châu Mỹ La Tinh, hoạt động lâm nghiệp và khai thác tài nguyên rừng thường bị lơ là trong các kế hoạch phát triển Tình trạng tàn phá rừng diễn ra nhanh chóng đã dẫn đến nhiều vấn đề nghiêm trọng như xói mòn đất, cạn kiệt nguồn nước, và sự tuyệt chủng của nhiều loài động thực vật Đồng thời, hiện tượng nóng lên toàn cầu và mất mát tài nguyên di truyền cũng gia tăng Để đối phó với nạn phá rừng, các quốc gia Châu Mỹ La Tinh đã áp dụng hai biện pháp chính: nhà nước quản lý rừng và trao quyền quản lý cho cộng đồng, cá nhân Kết quả là các nhóm cộng đồng đã tham gia vào các chương trình tự quản, góp phần tạo ra sự sử dụng bền vững rừng và khôi phục những tổn thất về môi trường và xã hội do khai thác rừng gây ra.
Tại Bolivia, mô hình phát triển quản lý tài nguyên rừng tập trung vào việc tổ chức các hợp tác xã lâm nghiệp và xây dựng xưởng cưa nhằm tạo thêm lợi tức, kết hợp với quản lý rừng để đạt được sản xuất bền vững Mặc dù cây rừng được quản lý tập thể, việc khai thác vẫn cần giấy phép từ chính quyền Bolivia hàng năm Cộng đồng cũng dành lại những loài cây nhập nội có giá trị cao để xây dựng quỹ tiết kiệm, chỉ sử dụng khi thật sự cần thiết.
- Tại Peru, Chương trình quản lý tài nguyên Selva Trung ương, năm
Vào năm 1980, chương trình này được phát triển nhằm quản lý tài nguyên rừng, đặc biệt là rừng đầu nguồn Mục tiêu chính là tạo ra việc làm và thu nhập cho các thành viên trong cộng đồng, đồng thời bảo tồn các khu rừng tự nhiên do cộng đồng quản lý.
Nghiên cứu về nhóm người Indieng Kapor tại miền đông Amazon, Brazil, cho thấy rằng các nhóm bản địa đã có những tác động tích cực đến hệ động thực vật, từ đó tăng cường tính đa dạng sinh học Điều này không chỉ giúp duy trì mà còn nâng cao khả năng cung ứng của rừng cho con người trong thời gian dài.
Tại Mexico, sự tham gia của nông dân trong quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng được thúc đẩy bởi chính sách “Kinh tế lâm nghiệp thôn xã” Chính sách này đã chứng minh rằng sự tham gia trực tiếp của người dân địa phương là yếu tố then chốt cho sự thành công của các chương trình phát triển tài nguyên rừng cộng đồng.
Tại châu lục này, hai hệ thống quản lý rừng song song tồn tại: hệ thống quản lý rừng địa phương, dựa trên kiến thức bản địa, và hệ thống quản lý rừng gắn với bên ngoài, thường nhận hỗ trợ khoa học và tài chính từ bên ngoài Mục tiêu của hệ thống này là bảo vệ các hệ sinh thái và khuyến khích cộng đồng tham gia vào các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng Sự cạnh tranh về lợi ích từ rừng giữa người dân, Nhà nước và các tổ chức bên ngoài đã giảm bớt, chuyển sang giai đoạn hợp tác phát triển Các chương trình hiện nay chú trọng tham khảo ý kiến của người dân trong cộng đồng để bảo vệ và phát triển rừng hiệu quả hơn.
Ở Việt nam
Mức độ phong phú tài nguyên rừng ở Việt Nam thay đổi giữa các vùng miền do nhiều nguyên nhân khác nhau Điều này dẫn đến sự khác biệt trong các quy định quản lý rừng và các hoạt động quản lý rừng cộng đồng.
Bảng 1.1: Diện tích có rừng ở các vùng chính miền Bắc và các hoạt động quản lý rừng cộng đồng
Diện tích có rừng (ha)
Diện tích rừng tính độ che phủ(ha) Độ che phủ của rừng (%)
Mặc dù miền Bắc có diện tích đất lâm nghiệp khá lớn, nhưng diện tích rừng còn lại lại rất ít và chất lượng rừng thấp Điều này dẫn đến việc diện tích rừng được giao cho cộng đồng cũng hạn chế, chủ yếu là rừng nghèo và rừng non.
Các hoạt động quản lý rừng cộng đồng ở miền Bắc chủ yếu tập trung vào việc bảo vệ rừng và khai thác lâm sản ngoài gỗ Nhiều cộng đồng đã nhận được sự hỗ trợ từ các dự án quản lý rừng, qua đó xây dựng các Kế hoạch quản lý rừng, Quy ước bảo vệ và phát triển rừng, cũng như Quy chế quản lý Quỹ bảo vệ và phát triển rừng Tuy nhiên, số lượng cộng đồng tham gia khai thác lâm sản vẫn còn rất hạn chế.
Các dự án hỗ trợ đã mở rộng quản lý rừng cộng đồng qua hai hình thức: thứ nhất, các hộ gia đình góp đất tham gia vào các hoạt động của dự án, như Dự án trồng rừng cộng đồng tại thôn Suối Ngành, xã Mông Hóa, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình do JIPRO hỗ trợ từ 2003-2005; thứ hai, các hộ gia đình tham gia quản lý rừng cộng đồng thông qua Dự án Kfw pha 3 QUICK WIN, hỗ trợ từ 2008-2011 nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý dự án và cộng đồng Các cộng đồng quản lý rừng được hỗ trợ trồng rừng nguyên liệu như gỗ dăm, gỗ ván thanh từ Keo Lai, khai thác nhựa Thông, và trồng cây lâm sản ngoài gỗ như Hồi, Quế, Ba kích, Mây nếp, cho thấy tính bền vững nhờ vào lợi ích từ nguồn thu lâm sản và lâm sản ngoài gỗ có giá trị.
Bảng 1.2: Diện tích có rừng ở các vùng thuộc miền Trung và các hoạt động quản lý rừng cộng đồng
Diện tích có rừng (ha) Diện tích rừng tính độ che phủ(ha) Độ che phủ của rừng (%)
Bắc Trung bộ 2.807.204 2.127.322 679.872 48.808 2.758.397 53,6 Duyên Hải 1.919.735 1.428.235 491.500 56.724 1.863.011 37,9
Rừng miền Trung có chất lượng phong phú hơn so với miền Bắc, với sự phân bổ cả rừng trung bình và rừng đủ tiêu chuẩn khai thác gỗ được giao cho cộng đồng Tuy nhiên, do miền Trung có chiều rộng hẹp, phần lớn rừng ven biển là rừng trồng thuộc rừng sản xuất, trong khi rừng vùng núi chủ yếu là rừng phòng hộ và đặc dụng, dẫn đến diện tích rừng giao cho cộng đồng quản lý không nhiều.
- Ví dụ trường hợp rừng cộng đồng thôn Tà Lềnh, xã Đăkrông, tỉnh Quảng Trị + Tổng diện tích khai thác là 24ha
+ Cỡ kính khai thác >30cm
+ Thời hạn khai thác: 5 năm, từ 2008 – 2012
+ Khối lượng khai thác: 410 cây
Bảng 1.3: Diện tích có rừng ở các tỉnh thuộc Tây nguyên và các hoạt động quản lý rừng cộng đồng
Diện tích có rừng (ha) Diện tích rừng tính độ che phủ(ha) Độ che phủ của rừng (%)
Gia Lai 719.812 673.541 46.272 10.035 709.777 45,5 Lâm Đồng 601.207 538.557 62.651 6.712 594.496 60,8 Đăk Lăk 610.489 567.854 42.635 13.109 597.380 45,5 Đăk
Rừng Tây Nguyên có diện tích lớn hơn so với miền Bắc và miền Trung, chủ yếu là rừng trung bình và rừng giàu Do đó, các khu rừng được giao cho cộng đồng cũng bao gồm cả loại rừng này Nhiều cộng đồng tại đây có hoạt động khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ rất đáng kể.
- Ví dụ trường hợp rừng cộng đồng Buôn TaLy, xã Ea Sol, huyện
+ Diện tích rừng cộng đồng Buôn TaLy: 214,6ha, trong đó rừng giàu là 89,6ha; rừng trung bình là 125ha
Năm 2006, Buôn TaLy được Ủy ban nhân dân tỉnh Đăk Lăk cho phép khai thác 368 m³ gỗ, mang lại tổng giá trị 616 triệu đồng Sau khi trừ các chi phí khai thác, vận chuyển và thuế tài nguyên, cộng đồng đã thu được 236 triệu đồng.
1.3.4 Những tài liệu, chương trình, dự án chính về quản lý rừng cộng đồng
- Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) năm
Năm 1998, tài liệu về Lâm nghiệp cộng đồng và Sổ tay cẩm nang do FAO-UNDP xuất bản đã cung cấp những kiến thức cơ bản liên quan đến Lâm nghiệp cộng đồng, bao gồm khái niệm, phương pháp và công cụ tham gia của người dân trong các hoạt động lâm nghiệp Các tài liệu này cũng đề cập đến việc thẩm định nhanh quyền hưởng dụng đất và cây rừng của cộng đồng, góp phần quan trọng cho nghiên cứu và phát triển Lâm nghiệp cộng đồng tại Việt Nam trong giai đoạn tiền phát triển Lâm nghiệp cộng đồng được hiểu là các hoạt động lâm nghiệp do cá nhân trong cộng đồng thực hiện nhằm gia tăng lợi ích mà họ đánh giá là có giá trị.
Chương trình hợp tác lâm nghiệp giữa Việt Nam và Thụy Điển đã xuất bản nhiều tài liệu hữu ích cho quản lý rừng cộng đồng, bao gồm "Điều tra đánh giá nông thôn có sự tham gia của nông dân" và "Phát triển Quỹ thôn bản" Những tài liệu này hỗ trợ trong việc xây dựng kế hoạch phát triển tại các thôn bản, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên rừng.
Dự án Lâm nghiệp xã hội sông Đà, hợp tác với Cộng hòa liên bang Đức, nhấn mạnh tầm quan trọng của hưởng dụng đất và cây rừng trong quản lý lâm nghiệp cộng đồng Hưởng dụng được xem là yếu tố then chốt điều tiết kiểm soát và tiếp cận tài nguyên rừng Cần phân biệt giữa hưởng dụng thực tế, được địa phương công nhận, và hưởng dụng theo quy định, được pháp luật công nhận và nhà nước hỗ trợ Một tài nguyên có thể thuộc hưởng dụng theo quy định nhưng vẫn được các nhóm sử dụng địa phương coi là tài sản của họ, từ đó đòi hỏi quyền và trách nhiệm trong quản lý tài nguyên.
Hệ thống hưởng dụng là tập hợp các dạng thức hưởng dụng trong một xã hội, bao gồm nhiều loại hình khác nhau phục vụ cho các mục đích và đối tượng sử dụng đa dạng Tất cả các dạng hưởng dụng này phải liên kết chặt chẽ và bổ sung cho nhau, tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh.
Có nhiều hình thức hưởng dụng trong nông nghiệp, với nhiều nông dân áp dụng các hệ thống hưởng dụng bản địa Những hệ thống này được phát triển để đáp ứng nhu cầu cụ thể của các dân tộc trong các môi trường khác nhau và sử dụng các kỹ thuật đặc thù Sự đa dạng của các hình thức hưởng dụng này khiến việc khái quát trở nên khó khăn Ở nhiều quốc gia, luật pháp thường có những quy định nhằm điều chỉnh và bảo vệ các hệ thống này.
- Chương trình tài trợ các dự án nhỏ quản lý rừng bền vững rừng nhiệt đới
(SGP PTF/UNDP) cho xuất bản Sổ tay hướng dẫn quản lý rừng cộng đồng -
Bài viết năm 2007 cung cấp phân tích và hướng dẫn chi tiết về các điều kiện cơ bản trong quản lý rừng cộng đồng, đồng thời nêu rõ các cơ sở pháp lý và luật tục có ảnh hưởng đến quá trình này và các hoạt động liên quan.
- Chương trình hỗ trợ ngành Lâm nghiệp và đối tác xuất bản tài liệu “Cẩm nang ngành Lâm nghiệp - Chương Lâm nghiệp cộng đồng “ năm
Năm 2006, cẩm nang này đã tổng hợp kinh nghiệm về lâm nghiệp cộng đồng từ một số quốc gia Châu Á, đồng thời phân tích các khái niệm, đặc trưng và tiêu chí nhận biết lâm nghiệp cộng đồng tại Việt Nam Bài viết cũng đề cập đến hiện trạng phát triển, các hình thức quản lý rừng cộng đồng, kinh nghiệm quản lý, khuôn khổ pháp lý và lợi ích từ việc quản lý rừng cộng đồng ở nước ta.
Dự án Chương trình thí điểm Lâm nghiệp cộng đồng năm 2008 đã phát hành hai tài liệu quan trọng: Hướng dẫn kỹ thuật quản lý rừng cộng đồng và tài liệu liên quan.
Thảo luận
Qua tổng quan các vấn đề có liên quan đến chủ đề nghiên cứu trên, có thể rút ra một số nhận định sau:
Quản lý tài nguyên rừng hiện nay được thực hiện dưới hai hình thức sở hữu song song: một là quản lý từ các tổ chức nhà nước và hai là quản lý công cộng, trong đó có sự tham gia của cộng đồng.
- Quản lý rừng cộng đồng bền vững cần được hỗ trợ của các tổ chức nhà nước
Rừng cộng đồng ở Việt Nam không chỉ bao gồm các loại rừng đã được giao quyền sử dụng lâu dài cho cộng đồng, mà còn được mở rộng với nhiều hình thức như rừng quản lý theo nhóm hộ và rừng do các hộ gia đình góp đất Các loại rừng này đều có Ban quản lý rừng do dân bầu ra, được chính quyền địa phương công nhận, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý rừng Tuy nhiên, hiệu quả này còn phụ thuộc vào điều kiện tài nguyên, mức độ hỗ trợ từ các chương trình dự án và năng lực quản lý của các ban Cộng đồng thôn bản đã được nhà nước công nhận quyền lợi và trách nhiệm trong quản lý rừng từ năm 2004, theo Luật bảo vệ và phát triển rừng Trong bối cảnh đa dạng và mới mẻ của rừng cộng đồng, vai trò của Ban quản lý rừng trở nên rất quan trọng, đặc biệt khi nhận được sự hỗ trợ từ Nhà nước hoặc các chương trình dự án.
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1 Mục tiêu chung: Đánh giá hiệu quả các hình thức quản lý rừng thôn bản đang thực hiện tại Dự án KfW3 - pha 3, rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực quản lý rừng với các hình thức quản lý rừng
Đánh giá hiệu quả và rút ra bài học kinh nghiệm từ các hoạt động quản lý rừng và quản lý quỹ là rất quan trọng Các hình thức quản lý như quản lý rừng cộng đồng, quản lý rừng thôn bản, và quản lý hợp tác xã lâm nghiệp thông qua các Ban quản lý đã chứng minh được vai trò thiết yếu trong việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng Những kinh nghiệm từ các mô hình này giúp cải thiện hiệu quả quản lý và nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường.
Để nâng cao năng lực quản lý rừng và khắc phục những hạn chế trong quản lý quỹ, cần đề xuất các giải pháp cụ thể cho hình thức quản lý rừng thôn bản, quản lý rừng cộng đồng và quản lý HTX lâm nghiệp Các giải pháp này bao gồm tăng cường đào tạo cho cán bộ quản lý, cải thiện cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan, và phát triển các chương trình truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát triển rừng Bên cạnh đó, cần thiết lập các quy định rõ ràng về trách nhiệm và quyền lợi của các tổ chức, cá nhân tham gia quản lý rừng để đảm bảo tính bền vững trong công tác quản lý tài nguyên rừng.
2.2 Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào các hoạt động của Ban quản lý rừng thôn bản, Ban quản lý rừng cộng đồng và Ban quản lý HTX lâm nghiệp nhằm đánh giá hiệu quả các hình thức quản lý rừng cấp thôn bản trong khuôn khổ Dự án KfW3 - pha 3.
Hiện trạng tài nguyên rừng tại các hình thức quản lý rừng thôn bản, quản lý rừng cộng đồng và quản lý hợp tác xã lâm nghiệp đang được nghiên cứu tại hai huyện đại diện Việc đánh giá tình hình này giúp hiểu rõ hơn về hiệu quả và thách thức trong việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, đồng thời đề xuất các giải pháp cải thiện quản lý rừng bền vững.
2 tỉnh: Lạng Sơn và Bắc Giang
Nội dung nghiên cứu
2.3.1 Đánh giá hiệu quả hoạt động của các Ban quản lý rừng của các hình thức quản lý rừng khác nhau:
1) Cơ sở pháp lý của các Ban quản lý rừng: Kết quả mong đợi là xem xét quá trình thành lập và hoạt động của các Ban quản lý rừng có gì vướng mắc hoặc trái với quy định của nhà nước từ đó đề xuất biện pháp khắc phục
2) Về cơ cấu tổ chức của các Ban quản lý rừng: Kết quả mong đợi là đánh giá bộ máy tổ chức hiện nay đã phù hợp chưa?, có gì tồn tại?; Để Ban QLR hoạt động tốt và có hiệu quả cần bổ sung và khắc phục những gì?
3) Tình hình hoạt động của các Ban QLR : Kết quả mong đợi là đánh giá mặt mạnh, mặt yếu trong việc chỉ đạo, điều hành và thực hiện các hoạt động đã được thiết lập?; mô hình Ban QLR hiện nay? có phù hợp và nhân rộng được không? để Ban quản lý rừng hoạt động tốt hơn cần để xuất biện pháp gì
2.3.2 Đánh giá công tác quản lý quỹ của các Ban quản lý rừng
1) Tình hình các nguồn thu chi trong quản lý rừng của các Ban quản lý
2) Quản lý thu chi của các Ban quản lý rừng
3) Nguyên tắc và kỹ năng ghi chép thu chi của các Ban quản lý
2.3.3 Đánh giá hiện trạng rừng trên 2 huyện đại diện cho 2 tỉnh: Lạng Sơn và Bắc Giang
Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Phương pháp đánh giá hoạt động các Ban quản lý rừng
2.4.1.1 Xác định dung lượng mẫu và lựa chọn mẫu để đánh giá
Dựa trên danh sách các Ban quản lý rừng thôn bản, Ban quản lý rừng cộng đồng và Ban quản lý HTX lâm nghiệp do Ban quản lý dự án KFW3 pha 3 cung cấp, chúng tôi sẽ tiến hành đánh giá tình hình hoạt động và quản lý quỹ tại các Ban quản lý rừng Để đảm bảo tính khách quan, trung thực và chính xác, tỷ lệ và tiêu chuẩn lựa chọn mẫu sẽ được áp dụng trong quá trình đánh giá.
- Dự kiến dung lượng mẫu đánh giá chiếm tỷ lệ 30% tổng số Ban quản lý rừng đã được thành lập
Mỗi huyện có Ban quản lý rừng sẽ chọn từ 1 đến 3 đơn vị để thực hiện đánh giá, số lượng mẫu đánh giá sẽ tùy thuộc vào số Ban quản lý rừng của từng huyện cụ thể.
Huyện có từ 1 đến 4 Ban quản lý rừng sẽ chọn 1 mẫu đánh giá điển hình, trong khi huyện có từ 5 đến 10 Ban quản lý rừng sẽ lựa chọn 2 mẫu đánh giá, bao gồm 1 mẫu điển hình và 1 mẫu được chọn ngẫu nhiên thông qua việc đánh số thứ tự và bốc thăm.
Huyện có hơn 11 ban quản lý rừng sẽ lựa chọn 3 mẫu đánh giá, trong đó có 2 mẫu điển hình Các mẫu đánh giá điển hình được chọn dựa trên kết quả thực hiện tốt các hoạt động của Ban quản lý rừng, đồng thời tham khảo ý kiến từ các Ban quản lý cấp huyện và tỉnh.
Cụ thể: a) Đối với Ban quản lý rừng cộng đồng:
- Dung lượng mẫu đánh giá là 12 đơn vị/ 5 huyện/ 36 Ban quản lý rừng;
- Mẫu đánh giá điển hình và ngẫu nhiên có danh sách kèm theo b) Đối với Ban quản lý rừng thôn bản:
- Dung lượng mẫu đánh giá là 10 đơn vị/ 8 huyện/35 Ban quản lý rừng;
- Mẫu đánh giá điển hình và ngẫu nhiên có danh sách kèm theo
Bảng 2.1: Danh sách các Ban quản lý rừng tiến hành đánh giá
TT Hình thức quản lý Ban quản lý rừng Xã Huyện Tỉnh
Quản lý rừng thôn bản
1) Thôn Háng Cút Bắc Thủy Chi lăng
2) Bản Tát Thanh Long Văn Lãng
3) Bản Pò Hà Trùng Khánh Văn Lãng
4) Thôn Khòn Quắc Đồng Bục Lộc Bình
5) Thôn Am Sang Đông Hưng
6) Thôn Văn Giang Huyền Sơn
7) Thôn Vật Phú Tân Hoa Lục Ngạn
Quản lý rừng cộng đồng
1) Thôn Mu Nầu Mẫu Sơn
2) Thôn Đông Chắn Công Sơn
4) Thôn Rõng An Lạc Sơn Động I Bắc
5) Thôn Gà Thanh Luận Sơn Động II
3 Hợp tác xã quản lý rừng
1) HTX Việt Đức Đình Lập Đình Lập Lạng
2) HTX Bình Minh, Đồng Cốc Lục Ngạn Bắc
2.4.1.2 Kế thừa tài liệu do các Ban quản lý Dự án cung cấp
Tại mỗi Ban quản lý, sẽ có báo cáo tóm tắt về quá trình thành lập và hoạt động, tình hình quản lý và sử dụng vốn, cũng như những khó khăn, thuận lợi và giải pháp khắc phục của cơ sở.
- Kiểm tra, xem xét hồ sơ, tài liệu và đối chiếu với kết quả thực hiện;
Gặp gỡ và trao đổi với cán bộ Ban quản lý rừng theo từng chuyên đề nhằm đánh giá trình độ và năng lực của họ là rất cần thiết Việc này giúp xác định xem họ có đáp ứng được các yêu cầu công việc hay không.
1) Theo phương pháp phỏng vấn và tham vấn bán định hướng Để đánh giá tình hình quản lý rừng và quản lý quỹ của các Ban quản lý đã tiến hành phỏng vấn các Ban quản lý rừng; tham vấn các một số tổ, nhóm, hộ gia đình để biết được nhận thức, nguyện vọng, những đánh giá của họ về quá trình hoạt động và sử dụng vốn của Ban quản lý rừng? (theo bảng câu hỏi bán định hướng đã lập sẵn); a) Các mẫu bảng câu hỏi Phỏng vấn vầ tham vấn:
Bảng 2.2: Tính pháp lý của hình thức quản lý rừng và Ban quản lý rừng thôn bản được thành lập
TT Câu hỏi Trả lời Bằng chứng Điểm Khắc phục
PH TV HT Thực hiện
Bảng 2.3: Cơ cấu tổ chức Ban quản lý rừng thôn bản
TT Câu hỏi Trả lời Bằng chứng Điểm Khắc phục
PH TV HT Thực hiện
Bảng 2.4: Hoạt động quản lý rừng
TT Câu hỏi Trả lời Bằng chứng Điểm Khắc phục
PH TV HT Thực hiện
Bảng 2.5: Quản lý Qũy thôn bản
TT Câu hỏi Trả lời Bằng chứng Khắc phục
Bảng 2.6: Thang điểm đánh giá:
Mức độ thực hiện Điểm Ghi chú
Rất kém < 4,1 b) Nội dung các câu hỏi: Trình bày trong phụ lục
2.4.2 Phương pháp điều tra hiện trường rừng
2.4.2.1 Xác định đối tường rừng điều tra: Rừng trồng do Dự án hỗ trợ trồng thuộc huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn và huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang Vì rừng trồng 2 huyện này gần như có đủ các loài cây trồng mà Dự án đã tiến hành trồng trên toàn bộ phạm vi quản lý của Dự án tại 2 tỉnh: Lạng Sơn và tỉnh Bắc Giang và có diện tích rừng trồng Thông nhựa khá lớn và có gần đủ các cấp tuổi
2.4.2.2 Phương pháp điều tra rừng trồng: Thực hiện phương pháp rút mẫu hai cấp với những nguyên tắc sau:
Mẫu cấp 1 (mẫu sơ cấp) là các lô rừng được chọn ngẫu nhiên (rút thăm) sao cho tổng diện tích của chúng bằng 10% diện tích rừng thuộc dự án
Trên mỗi lô mẫu cấp 1, có từ 1 đến 3 ô tiêu chuẩn hệ thống được gọi là ô thứ cấp, với mỗi ô có diện tích 100m² Số lượng ô thứ cấp này phụ thuộc vào kích thước của tuyến, có thể là nhỏ hoặc lớn.
Điều tra ô mẫu (mẫu thứ cấp) được thực hiện để đo đạc các thông số như đường kính ngang ngực (d1.3), đường kính gốc (do), chiều cao thân cây (h), đường kính tán (dt) và phân loại phẩm chất của tất cả các cây gỗ trong từng ô tiêu chuẩn Đối với các ô tiêu chuẩn thuộc công thức rừng phục hồi, điều tra bổ sung tái sinh tự nhiên sẽ được thực hiện trên 4 ô dạng bản (1m²/ô) đại diện, nhằm xác định tên loài, chiều cao và phẩm chất của từng cây tái sinh Bên cạnh đó, các đặc điểm khác như đất, thực bì, sâu bệnh hại, địa hình và lửa rừng cũng sẽ được mô tả Kết quả điều tra sẽ được ghi vào phiếu điều tra ô tiêu chuẩn.
Bảng 2.7: Phiếu điểu tra ô tiêu chuẩn PHIẾU ĐIỀU TRA Ô TIÊU CHUẨN RỪNG TRỒNG
Diện tích lô: Số hiệu Ô: Loài cây :
Phẩm chất ĐT NB BQ A B C
PHIẾU ĐIỀU TRA Ô TIÊU CHUẨN RỪNG TỰ NHIÊN
Diện tích lô: Số hiệu Ô: Trạng thái:
Phẩm chất ĐT NB BQ A B C
- Xử lý tài liệu điều tra
Tài liệu điều tra ô tiêu chuẩn được xử lý tính toán theo nguyên tắc sau:
+ Coi mỗi lô mẫu (ô sơ cấp) là một đơn vị tính toán (gộp tài liệu các ô
100m 2 trên 1 lô thành một đơn vị chỉnh lý, tính toán)
Để đánh giá số lượng và chất lượng rừng, cần tính toán các chỉ tiêu như mật độ, đường kính bình quân, tổng tiết diện ngang, trữ lượng cho các lô rừng phục hồi hoặc rừng trồng tuổi lớn, cũng như tỷ lệ phần trăm cây tốt, trung bình và xấu Đối với những lô có điều tra tái sinh, các chỉ tiêu cần tính toán bao gồm mật độ, tổ thành, tỷ lệ cây tốt, trung bình, xấu và phần trăm cây tái sinh có triển vọng Các công thức tính toán này phải tuân thủ theo hướng dẫn trong tài liệu kỹ thuật kiểm kê của dự án đã được biên soạn.
+ Ước lượng các chỉ tiêu số, chất lượng rừng cho từng công thức trồng
Kết quả tính toán từ các ô sơ cấp cho phép ước lượng các trị số biểu thị số lượng và chất lượng rừng cho từng phương thức trồng Phương pháp ước lượng được áp dụng là số trung bình hoặc thành số tổng thể trong thống kê toán học.
- Đánh giá số chất lượng rừng trồng dự án
Dựa trên kết quả xử lý tài liệu, có thể đưa ra một số nhận xét về số lượng và chất lượng rừng thông qua phương pháp phân tích chuyên gia, một kỹ thuật phổ biến trong thực tiễn lâm nghiệp Việc áp dụng phương pháp này giúp đánh giá chính xác tình trạng rừng, từ đó đưa ra các biện pháp quản lý và bảo vệ hiệu quả hơn.
Hình 2.1: Phỏng vấn trong phòng + Khảo sát hiện trường
ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Điều kiện cơ bản tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang là tỉnh có diện tích 382.738 ha, tọa lạc cách thủ đô Hà Nội 50 km về phía Bắc, cách cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị 110 km về phía Nam và hơn 100 km về phía Tây so với cảng Hải Phòng.
Tỉnh này nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Tây và Tây Bắc giáp Hà Nội và Thái Nguyên, trong khi phía Nam và Đông Nam giáp các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh.
2) Địa hình địa thế: Địa hình Bắc Giang gồm 2 tiểu vùng miền núi và trung du có đồng bằng xen kẽ Vùng núi bao gồm 7 huyện: Sơn Động, Lục Nam, Lục Ngạn, Yên Thế, Tân Yên, Yên Dũng, Lạng Giang Vùng trung du bao gồm 2 huyện Hiệp Hòa, Việt Yên, và TP Bắc Giang
Bắc Giang có khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng của vùng Đông Bắc, với bốn mùa rõ rệt trong năm Mùa Đông lạnh và mùa hè nóng ẩm, trong khi mùa xuân và mùa thu mang đến khí hậu ôn hòa Nhiệt độ trung bình tại đây dao động từ 22 đến 23 độ C, cùng với độ ẩm lớn từ 73 đến 87%.
Lượng mưa hàng năm 1500-1700 mm Độ ẩm không khí trung bình 82% Nắng trung bình hàng năm từ 1.500 - 1.700 giờ, thuận lợi cho phát triển cây trồng
Chế độ gió: Gió Đông Nam về mùa hè và gió Đông Bắc thường kèm mưa rét, sương muối vào mùa đông
Thời tiết Bắc Giang có tác động rõ rệt đến sản xuất lâm nghiệp, đặc biệt là gây chết cây Keo lá tràm khi nhiệt độ giảm xuống dưới 5-7 độ C Ngoài ra, gió lốc cục bộ vào mùa hè thường làm gãy đổ cây Keo lai và một số loại cây gỗ mềm mọc nhanh khác.
4) Thuỷ văn: Bắc Giang có 3 con sông lớn chảy qua: Sông Thương; sông Cầu và sông Lục Nam, với tổng chiều dài 347 km Lưu lượng lớn và có nước quanh năm Bắc Giang còn có nhiều hồ, đầm, trong đó có hồ Cấm Sơn và Khuôn Thần Hồ Cấm Sơn nằm ở khu vực giáp tỉnh Lạng Sơn, dài 30 km, nơi rộng nhất
Hồ Khuôn Thần có diện tích mặt nước 240 ha, với chiều dài 7 km và chỗ hẹp nhất chỉ 200m Nơi đây nổi bật với 5 đồi đảo được bao phủ bởi rừng thông trên 20 tuổi Hồ còn có khả năng cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt nhờ vào lượng nước mặt, nước mưa và nước ngầm dồi dào.
Kết quả điều tra xây dựng bản đồ dạng đất trên địa bàn tỉnh Bắc Giang có
40 đơn vị đất đai thuộc các nhóm đất chính sau:
- Đất Feralit trên núi trung bình: Diện tích 200ha, chiếm 0,1% diện tích tự nhiên Phân bố ở độ cao > 700m thuộc 2 dãy An Châu, Yên Tử
- Đất Feralit trên núi thấp: Diện tích 28.530 ha, chiếm 7,5% diện tích tự nhiên
- Đất Feralit vùng đồi phát triển trên đá sa thạch: Diện tích 76.400 ha chiếm 20% diện tích tự nhiên Phân bố chủ yếu ở huyện Lục Nam, Sơn Động
Đất Feralit là loại đất phát triển trên đá phiến thạch sét, với tổng diện tích lên tới 83.910ha, chiếm 22% diện tích tự nhiên của khu vực Loại đất này chủ yếu phân bố tại các huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế và Lạng Giang.
Đất phù sa cổ có diện tích 8.880 ha, chiếm 2,3% tổng diện tích tự nhiên, chủ yếu phân bố ở hạ lưu sông Lục Nam và các huyện vùng trung du Trong khi đó, đất thung lũng dốc tụ có diện tích 8.170 ha, chiếm 2,1% diện tích tự nhiên và phân bố ven các sông, suối chính trong tỉnh, với tầng đất dày và độ phì cao, giàu dinh dưỡng.
Đất Feralit, với diện tích 176.110 ha, chiếm 46% tổng diện tích tự nhiên, chủ yếu phân bố ở các huyện Việt Yên, Hiệp Hoà, Tân Yên, Yên Dũng và Lạng Giang, là loại đất chủ yếu được sử dụng cho canh tác nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa.
Đất đai của tỉnh chủ yếu hình thành từ các loại đá mẹ như sa thạch, phiến thạch và phù sa cổ Đặc biệt, diện tích đất trên đá sa thạch thường có tầng đất trung bình, với độ dinh dưỡng thấp, nhiều khu vực khô cằn và khả năng giữ nước kém.
6) Hiện trạng Sử dụng Đất đai
Tỉnh Bắc Giang có 382.738 ha đất tự nhiên Kết quả chuyên đề điều tra cập nhật xây dựng bản đồ rừng và sử dụng đất năm 2008 như sau:
Bảng 3.1: Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Bắc Giang năm 2008
Loại đất loại rừng Diện tích (ha) Tỷ lệ %
II Các loại đất nông nghiệp khác 103.628 27,1
Hiện trạng sử dụng đất tại Bắc Giang đang chuyển dịch theo hướng tăng diện tích đất phi nông nghiệp và giảm đất chưa sử dụng, nhờ vào sự phát triển công nghiệp và đô thị hóa Với địa hình đa dạng gồm vùng núi, trung du và đồng bằng, hệ sinh thái nông lâm nghiệp tại đây rất phong phú Đất chưa sử dụng có tiềm năng lâm nghiệp lớn, trong khi đất nông nghiệp không chỉ phục vụ thâm canh lúa mà còn phát triển rau củ quả cho Hà Nội và các tỉnh lân cận Tỉnh Bắc Giang đã lên kế hoạch chuyển đổi hàng chục nghìn ha đất trồng lúa sang trồng cây ăn quả, cây công nghiệp và nuôi trồng thủy sản có giá trị kinh tế cao Hơn 26.000 ha đất chưa sử dụng, trong đó khoảng 16.000 ha có thể đưa vào sản xuất lâm nghiệp, tạo cơ hội lớn cho doanh nghiệp và nhà đầu tư trong lĩnh vực trồng rừng và chế biến lâm sản.
7) Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên
Tỉnh Bắc Giang nằm gần khu tam giác kinh tế phía Bắc và các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, cũng như cửa khẩu Lạng Sơn Với hệ thống giao thông thuận lợi bao gồm quốc lộ 1A và đường sắt liên vận quốc tế, Bắc Giang kết nối dễ dàng với thị trường Trung Quốc, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho tỉnh trong việc tiêu thụ lâm sản và tiếp thu công nghệ tiên tiến vào sản xuất.
Diện tích đất lâm nghiệp tại tỉnh Bắc Giang chiếm 43%, chủ yếu nằm ở vùng đồi núi thấp dưới 500m, với điều kiện đất đai tốt và khí hậu ôn hòa Khu vực này ít xảy ra thiên tai và có nhiều đất đồi núi chưa được khai thác, tạo cơ hội lớn cho sản xuất nông, lâm nghiệp Những yếu tố này mang lại lợi thế cho Bắc Giang trong việc phát triển nền sản xuất nông lâm nghiệp đa dạng so với các tỉnh miền núi và đồng bằng Bắc Bộ.
3.1.2 Điều kiện kinh tế-xã hội
3.1.2.1 Nguồn nhân lực: dân số; dân tộc; lao động
Toàn tỉnh Bắc Giang có 09 huyện và 01 thành phố với 230 xã, phường và thị trấn Dân số 1.613.576 người (Nguồn số liệu niên giám thống kê năm
2007) Mật độ dân số bình quân 421,6 người/km 2 , thấp nhất là huyện Sơn Động (86 người/km 2 ), cao nhất là thành phố Bắc Giang (3.317 người/km 2 )
Tỷ lệ tăng dân số bình quân 1,18%
Bắc Giang là một tỉnh đa dạng với 27 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Kinh chiếm ưu thế với 87,1%, còn lại là các dân tộc ít người như Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chỉ, Hoa, Mường, Dao, và Cao Lan, chiếm khoảng 12,9%.
Số người trong độ tuổi lao động là 1.033.000 người (chiếm 64 % dân số)
Số lao động tham gia hoạt động kinh tế khoảng 830.000 người Trong đó tham gia trong ngành công nghiệp xây dựng là 8,8 %; dịch vụ là 14,6 %;
Điều kiện cơ bản Tỉnh Lạng Sơn
Lạng Sơn, tỉnh miền núi biên giới thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, giáp với Trung Quốc, nổi bật với 3 cửa khẩu, trong đó có cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị, cùng 7 cặp chợ biên giới Tọa độ địa lý của tỉnh nằm trong khoảng từ 21°20' đến 22°27' vĩ độ Bắc.
Vùng địa lý này nằm trong khoảng kinh độ Đông từ 106°08' đến 107°22', với ranh giới phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Đông Nam giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Nam giáp tỉnh Bắc Giang, và phía Tây giáp tỉnh Bắc Kạn cùng Thái Nguyên.
Lạng Sơn có vị trí địa lý và kinh tế quan trọng, với các tuyến Quốc lộ 1A, 1B, 4B và 279, cùng hệ thống đường sắt liên vận quốc tế Những yếu tố này tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế, văn hóa và khoa học công nghệ không chỉ với các tỉnh phía Tây như Cao Bằng và Thủ đô Hà Nội, mà còn với các tỉnh khác trong cả nước, Trung Quốc và các quốc gia trên thế giới.
Lạng Sơn, nằm ở độ cao trung bình 251 m, có khí hậu đặc trưng của vùng á nhiệt đới mặc dù nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Với độ ẩm cao trên 83% và phân bố đều trong năm, Lạng Sơn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đa dạng các loại cây trồng nhiệt đới, ôn đới và á nhiệt đới, đặc biệt là các loại cây ăn quả lâu năm, cây lấy gỗ và các đặc sản như hồi, trám.
Trong những năm gần đây, tỉnh đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại với Trung Quốc Cơ cấu kinh tế đang chuyển đổi theo hướng sản xuất hàng hóa gắn liền với thị trường, tập trung vào các sản phẩm nông nghiệp có lợi thế như ngô, đỗ, rau, khoai tây, cây ăn quả, chè, cùng với chăn nuôi bò, lợn và gia cầm.
3.2.2 Điều kiện kinh tế-xã hội
Lạng Sơn bao gồm 10 huyện và thành phố Lạng Sơn, với tổng cộng 226 xã, phường và thị trấn Trong đó, có 106 xã thuộc chương trình 135, chiếm 46,9% tổng số xã Dân số nông thôn tại đây đạt 590,5 nghìn người, tương đương 79,9% Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới (năm 2005) là 33,0%, trong đó huyện Bình Gia có tỷ lệ cao nhất với 50,5%, tiếp theo là Văn Quan với 46,1%.
Cơ cấu kinh tế của tỉnh đang chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và xây dựng Năm 2005, GDP trên địa bàn (giá so sánh
Năm 1994, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 4293 tỷ đồng, trong đó nông, lâm, thuỷ sản chiếm 41,6%, công nghiệp và xây dựng chiếm 19,4%, và thương mại - dịch vụ chiếm 39,0% GDP bình quân đầu người đạt 5,81 triệu đồng/người/năm (giá hiện hành), tăng 1,9 lần so với năm 2000.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tại địa bàn đạt 380 triệu USD, trong đó giá trị xuất khẩu trực tiếp của địa phương là 75 triệu USD Các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu bao gồm ván sàn tre, cao su, hoa hồi, quả tươi, cá khô và cua nuôi sống.
3.2.2.1 Tình hình sản xuất nông nghiệp
Tình hình sử dụng đất nông lâm nghiệp hiện nay cho thấy, vào năm 2005, tổng diện tích đất nông nghiệp đạt 496,9 nghìn ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp chiếm 112,1 nghìn ha, tăng 43,1 nghìn ha so với năm 2000 Diện tích đất lúa giữ ổn định ở mức 39,9 nghìn ha từ năm 2000 đến nay, trong khi diện tích đất trồng cây lâu năm đã tăng mạnh từ 8,1 nghìn ha năm 2000 lên 43,9 nghìn ha.
Năm 2005, bình quân đất sản xuất nông nghiệp đạt 1.892,2 m²/người, trong đó đất lúa chiếm 674,2 m²/người Diện tích đất lâm nghiệp đạt 383,8 nghìn ha, với đất rừng sản xuất là 246,98 nghìn ha, chiếm 64,3% tổng diện tích đất rừng Đất rừng phòng hộ là 117,6 nghìn ha, chiếm 30,6%, trong khi đất rừng đặc dụng chiếm 5,0%.
Vào năm 2005, tổng diện tích đất chưa sử dụng đạt 303,0 nghìn ha, chiếm 36,5% diện tích đất tự nhiên Trong đó, diện tích đồi núi chưa sử dụng là 239,1 nghìn ha, núi đá không thể trồng cây rừng là 61,48 nghìn ha, và đất bằng chưa sử dụng chỉ còn 2,45 nghìn ha Đặc biệt, diện tích đất trống đồi trọc có khả năng mở rộng sản xuất nông nghiệp ước tính khoảng 26,5 nghìn ha.
Bảng 3.6: Hiện trạng diện tích sử dụng đất sản xuất nông nghiệp Đơn vị tính :ha
HẠNG MỤC 2000 2005 Đất sản xuất nông nghiệp
1 Đất trồng cây hàng năm 54721 68.186
Trong đó : Đất ruộng lúa, lúa màu 39949 39.935
2 Đất trồng cây lâu năm 13291 43.900
Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường Lạng Sơn 3.2.2.1.2 Sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản
Lạng Sơn là tỉnh miền núi cao biên giới với nền nông nghiệp phát triển khá, nhờ vào việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng hàng hóa Tỉnh đã khắc phục tình trạng độc canh và thuần nông, đồng thời phát triển đa dạng cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao Giá trị sản xuất nông nghiệp của Lạng Sơn vào năm 2005 đạt 1582 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 1994), với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2000 – 2005 đạt 5,3%/năm.
Lạng Sơn là tỉnh có tỷ lệ che phủ rừng trung bình, với tổng diện tích rừng đạt 346,8 nghìn ha vào năm 2005, chiếm 39,2% tổng diện tích đất tự nhiên Trong đó, rừng tự nhiên chiếm 207,6 nghìn ha và rừng trồng 139,2 nghìn ha Ngoài ra, tỉnh còn có 36,7 nghìn ha rừng khoanh nuôi và 34,4 nghìn ha đất trồng rừng Sản lượng gỗ tròn khai thác năm 2005 đạt 60.000 m³, chủ yếu từ gỗ rừng tự nhiên, cùng với khoảng 27 triệu cây tre luồng Giá trị lâm nghiệp năm 2005 đạt 532 tỷ đồng, chủ yếu từ khai thác gỗ và lâm sản.
Trong ba năm qua, diện tích rừng trồng mới đạt 23,1 nghìn ha, trong đó rừng sản xuất chiếm 10,9 nghìn ha Diện tích rừng hồi phục cũng tăng đáng kể, từ 31,2 nghìn ha vào năm 2004, trong đó rừng tập trung là 25,1 nghìn ha.
Bảng 3.7: Diến biến diện tích rừng Đơn vị tính: Ha
1 Đất có rừng sản xuất 146672 150121 166683 173127 3,4
2 Đất có rừng phòng hộ 114839 122582 149441 152294 5,8
3 Đất có rừng đặc dụng 15883 15884 17546 17836 3,0
Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT Lạng Sơn và Viện Điều tra quy hoạch rừng
Lạng Sơn, một tỉnh có điều kiện tự nhiên hạn chế về sông hồ và diện tích ruộng ngập nước, đã ghi nhận diện tích nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản chỉ đạt 1200 ha vào năm 2005 Tổng sản lượng thuỷ sản của tỉnh đạt 1,6 nghìn tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng chiếm 831 tấn, mang lại giá trị sản xuất 8,8 tỷ đồng.
3.2.2.1.3 Hệ thống giao thông: Đến nay đã có 100% số xã có đường ôtô tới trung tâm xã, và nhiều tuyến đường đã cải tạo mặt bằng vật liệu cứng