TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Tình hình nghiên cứu bướmtrên thế giới
Bướm là loài động vật rất phong phú, xuất hiện trong hầu hết các hệ sinh thái trên cạn, ngoại trừ vùng cực bắc và các đỉnh núi cao trên 5500m (Schappert, 2000) Tại Việt Nam, đất nước nằm trong khu vực Đông Phương, có khoảng 21,4% tổng số loài bướm trên toàn thế giới.
Bướm đã được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng cả trong khu vực và trên thế giới Nhiều công trình nghiên cứu đáng chú ý về thành phần loài bướm đã được công bố, bao gồm nghiên cứu của Chou (1994) về bướm ở Trung Quốc, Ek – Amnuay (2012) về bướm Thái Lan, và Corbet & Pendlebury (1992) về bướm ở Malaysia, cũng như D’Abrera (1982).
1986) về bướm ở vùng Đông Phương - Úc, Osada et al (1999) về bướm ở Lào, Wynter-Blyth (1957) về bướm ở Ấn Độ
Sự đa dạng của côn trùng tăng lên khi kích thước và độ phức tạp của sinh cảnh gia tăng Cụ thể, các khu rừng có cấu trúc nhiều tầng tán và sự phong phú về thực vật sẽ hỗ trợ nhiều loài côn trùng hơn so với các khu rừng có cấu trúc ít tầng tán và hệ thực vật đơn giản.
Tính đa dạng về thực vật thay đổi nhiều theo thời gian và không gian
Theo Price (1975), sự đa dạng thực vật tăng lên trong quá trình diễn thế rừng tự nhiên, dẫn đến sự thay đổi cấu trúc quần xã côn trùng Ngược lại, các loài côn trùng ăn thực vật có thể ảnh hưởng đáng kể đến quá trình diễn thế của quần xã thực vật Đồng thời, côn trùng cũng điều chỉnh chu trình sống và tập tính của mình để thích ứng với sự thay đổi của thực vật trong các giai đoạn khác nhau của quá trình diễn thế.
Theo New & Collins (1991) có bốn nguyên nhân gây áp lực làm cho các loài bướm bị đe doạ là: (1) sự phá huỷ và làm thay đổi sinh cảnh (habitat),
(2) ô nhiễm môi trường, (3) các loài ngoại lai (Exotic species), và (4) khai thác thương mại
Các loài bướm phân bố hẹp sống trong rừng rất dễ bị tổn thương và cần được bảo vệ thông qua việc bảo tồn rừng Nghiên cứu của Thomas (1991) về bướm ở Costa Rica cho thấy các loài bướm có phân bố địa lý hẹp khó sống trong môi trường bị thay đổi hơn so với các loài có phân bố rộng Sự hạn chế của các loài này ở các sinh cảnh chưa bị tác động cho thấy rằng nạn phá rừng có ảnh hưởng tiêu cực đến sự tồn tại của chúng.
Nghiên cứu năm 1985 chỉ ra rằng sự đa dạng của loài bướm liên quan chặt chẽ đến tỷ lệ che phủ thực vật trên mặt đất Nhiều loài bướm phụ thuộc vào các giai đoạn diễn thế cụ thể của rừng, do đó, để bảo tồn bướm hiệu quả, cần bảo vệ đa dạng các sinh cảnh khác nhau.
Theo Schappert (2000), để bảo tồn bướm và các loài động vật, thực vật khác, cần giải quyết ba vấn đề chính Thứ nhất, xác định vị trí và mối quan hệ của chúng với các loài gần gũi và xung quanh Thứ hai, tìm hiểu về phân bố địa lý và điều kiện sinh thái, bao gồm yêu cầu và sự ưa thích sinh cảnh của loài Cuối cùng, cần thu thập thông tin chi tiết về sinh học của loài để thực hiện các biện pháp bảo tồn hiệu quả.
Trên toàn cầu, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về sinh học và bảo tồn bướm, cung cấp thông tin quý giá về cây chủ, vòng đời, tập tính và phân bố của các loài bướm Đặc biệt, một số loài bướm quý hiếm nằm trong danh mục của CITES và IUCN cũng đã được khảo sát Những tài liệu này đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo tồn và nhân nuôi bướm (Igarashi 2001; Igarashi & Fukuda, 1997-2000; Koiwaya, 1996).
Tình hình nghiên cứu bướm ở Việt Nam
Nghiên cứu về bướm ở Việt Nam bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, với cuốn sách "Côn trùng Đông Dương" (Dubois & Vitalis, 1919) là công trình đầu tiên, liệt kê 611 loài bướm và là danh mục đầu tiên cho khu vực Đông Dương (Việt Nam, Lào và Campuchia) Tiếp theo, vào năm 1957, Metaye đã xác định thêm 454 loài bướm tại Việt Nam.
Kết quả điều tra côn trùng miền Bắc Việt Nam (Viện Bảo vệ Thực vật,
Năm 1976, các nhà côn trùng học từ Trung Quốc và Việt Nam đã hợp tác xác định 181 loài bướm thuộc 9 họ khác nhau, chủ yếu tập trung vào các loài côn trùng gây hại Tiếp đó, từ năm 1960 đến 1970, một công trình điều tra cơ bản về côn trùng miền Bắc Việt Nam đã được thực hiện bởi Mai Phú Qúy và các đồng nghiệp.
1981) đã xác định danh lục 161 loài
Từ những năm 90 của thế kỷ XX, nhiều nghiên cứu về bướm đã được tiến hành tại Việt Nam, đặc biệt ở các Vườn Quốc gia và Khu Bảo tồn Thiên nhiên Các nhà côn trùng học quốc tế, chủ yếu từ Nhật Bản, Liên Bang Nga, Cộng hòa Séc và một số quốc gia khác, đã tích cực nghiên cứu bướm ở Việt Nam Tại Việt Nam, Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga và Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật là hai cơ sở chính thực hiện các khảo sát và nghiên cứu về bướm.
Nghiên cứu về bướm đã được thực hiện tại nhiều Vườn Quốc gia ở Việt Nam, bao gồm Ba Bể, Bắc Cạn (Đặng Thị Đáp & Hoàng Vũ Trụ, 2003; Monastyrskii et al., 1998), Hoàng Liên, Lào Cai (Vũ Văn Liên, 2003; Monastyrskii & Hill, 1997; Monastyrskii et al., 1999), Cúc Phương, Ninh Bình (Đặng Thị Đáp và nnk., 1995; Lương Văn Hào et al., 2004; Vũ Văn Liên & Đặng Thị Đáp, 2002; Ikeda et al., 1998, 1999, 2000), Tam Đảo, Vĩnh Phúc (Đặng Thị Đáp và nnk., 2011; Phạm Văn Lầm, 2005; Khuất Đăng Long & Vũ Quang Côn, 2005), Cát Bà, Hải Phòng (Đặng Ngọc Anh & Vũ Văn Liên, 2005), Phong Nha-Kẻ Bàng, Quảng Bình (Đặng Thị Đáp, 1997) và Núi Chúa, Ninh Thuận.
Các nghiên cứu về bướm tại các Khu Bảo tồn Thiên nhiên ở Việt Nam đã được thực hiện, bao gồm khu vực Ngọc Linh, Kon Tum (Bùi Xuân Phương, 2005) và Hòn Bà, Khánh Hoà (Vũ Văn Liên, 2005).
Việt Nam hiện có hơn 1000 loài bướm, với nhiều công trình nghiên cứu mô tả các loài mới cho khoa học Đặc biệt, Devyatkin đã công bố nhiều loài bướm thuộc họ Hesperiidae trong các năm 1996 và 1997 Ngoài ra, các tác giả khác như Devyatkin & Monastyrski (1999), Funahasha (2003), Monastyrskii (2005), Monastyrskii & Devyatkin (2003) và Yokochi (2004) cũng đã đóng góp vào việc mô tả các loài bướm mới.
Nghiên cứu về phân bố bướm theo đai độ cao ở Miền Trung Việt Nam chỉ ra rằng sự đa dạng và phong phú của các loài bướm trong quần xã ở đai cao thấp hơn so với ở đai thấp (Vũ Văn Liên, 2005).
Nghiên cứu về bướm ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc xây dựng danh sách loài, trong khi các nghiên cứu về sinh học và sinh thái học còn hạn chế Spitzer et al (1987) đã chỉ ra rằng tại rừng khô Khánh Hòa, có mối quan hệ chặt chẽ giữa đa dạng thành phần loài bướm và đa dạng thành phần loài thực vật có mạch Số lượng loài bướm có sự tương quan tích cực với số loài thực vật có mạch trong khu vực này.
Nghiên cứu về sinh học bướm ở Việt Nam đã được thực hiện bởi các nhà khoa học nước ngoài, trong đó có Koiwaya et al (2003), tập trung vào vòng đời của bốn loài bướm thuộc giống Theclini (Lycaenidae) tại khu vực Phia Oác.
(Cao Bằng) và Sapa (Lào Cai) Đây là những loài chỉ sống trên các vùng núi cao ở Việt Nam
Theo nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm 2006 về quản lý thực vật và động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, Việt Nam có 4 loài bướm là
Teinopalpus aureus, T imperialis, Troides helena ceberus và Zeuxidia masoni thuộc danh mục nhóm II, nhóm này bị hạn chế khai thác và sử dụng cho mục đích thương mại Những loài này có giá trị cao về khoa học, môi trường và kinh tế, đồng thời số lượng của chúng trong tự nhiên đang giảm sút hoặc có nguy cơ tuyệt chủng.
Tạ Huy Thịnh và Hoàng Vũ Trụ (2004) đã nghiên cứu sự tương đồng về thành phần loài bướm giữa các Vườn Quốc gia và Khu Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam, chỉ ra rằng yếu tố địa lý - khí hậu và độ cao là những yếu tố quyết định ảnh hưởng đến sự tương đồng này Trong nghiên cứu tiếp theo của Tạ Huy Thịnh và cộng sự (2005b) về côn trùng dọc theo tuyến đường cao tốc Hà Nội-Thái Nguyên, các tác giả ghi nhận chỉ số đa dạng côn trùng thấp, với xu hướng tăng dần từ Hà Nội đến Thái Nguyên, tuy nhiên, sự đa dạng này vẫn ở mức thấp do hệ sinh thái chủ yếu là nông nghiệp.
Nghiên cứu bướm ở Việt Nam đã bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, với nhiều công trình tập trung vào việc xây dựng danh lục loài Các nghiên cứu này chủ yếu được thực hiện tại các Vườn Quốc gia và Khu bảo tồn Thiên nhiên trên toàn quốc Một số khu vực tiêu biểu có nhiều nghiên cứu về bướm bao gồm Tam Đảo, Cúc Phương, Hoàng Liên và Cát Tiên.
Nghiên cứu về bướm tại Đắkrông, Bạch Mã và Bà Nà – Núi Chúa
Nghiên cứu về bướm đã được thực hiện bởi nhiều công trình, trong đó nổi bật là công trình của Lê Trọng Sơn và các tác giả khác Các khu vực nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự đa dạng và phân bố của loài bướm.
Kết quả điều tra khu hệ bướm ngày (Lepidoptera, Rhopalocera) tại Vườn Quốc gia Bạch Mã được công bố vào năm 2003 Năm 2004, Lê Trọng Sơn đã nghiên cứu về đa dạng sinh học của côn trùng trong khu vực này Tiếp theo, vào năm 2005, Lê Trọng Sơn cùng các đồng nghiệp đã công bố kết quả nghiên cứu về sự đa dạng của họ Nymphalidae (Lepidoptera) tại VQG Bạch Mã.
Bé (2008) về Kết quả nghiên cứu họ Bướm phượng (Papilionidae) ở hành lang Phong Điền – Bạch Mã, Thừa Thiên Huế; Nguyễn Thế Nhã và nnk
Năm 2011, các nghiên cứu đã được thực hiện để điều tra và lập danh mục các loài côn trùng tại khu mở rộng Vườn quốc gia Bạch Mã Huỳnh Văn Kéo và Trần Thiên Ân đã tiến hành kiểm kê động – thực vật tại đây, trong đó phần côn trùng đã xác định được 256 loài bướm thuộc các họ như Papilionidae, Pieridae, Danaidae, Satyridae, Amathusiidae, Nymphalidae, Lycaenidae và Hesperiidae.
Bà Nà – Núi Chúa: Theo tài liệu thống kê của Trần Khánh Toàn (2004), có 45 loài bướm ngày tại KBTTN Bà Nà – Núi Chúa
Nhìn chung, có khá nhiều công trình nghiên cứu về bướm ở VQG Bạch
Mã Nghiên cứu về bướm ở KBTTN Đắkrông và KBTTN Bà Nà – Núi Chúa chưa có nhiều.
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Vườn Quốc gia Bạch Mã
Tọa độ địa lý: 15 o 59'-16 o 16' vĩ độ Bắc, 107 o 37'-107 o 54' kinh độ Đông
Phía Bắc giáp Công ty lâm nghiệp Phú Lộc
Phía Nam giáp xã A Ting, Tà Lu huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam
Phía Đông giáp xã Hòa Bắc huyện Hoà Vang thành phố Đà Nẵng
Phía Tây giáp thị trấn Khe Tre tỉnh Thừa Thiên Huế
VQG Bạch Mã, thuộc dãy Trường Sơn Bắc, nổi bật với các đỉnh núi cao trên 1.000m, chạy theo hướng Tây - Đông và dần thấp xuống biển Địa hình nơi đây hiểm trở, với độ dốc trung bình từ 15° đến 25°, nhiều khu vực có độ dốc đứng trên 40° Dưới chân các dải núi là những thung lũng hẹp, dài, cùng với các dòng suối trong sạch, tạo nên vẻ đẹp độc đáo thu hút du khách và cải tạo tiểu khí hậu, góp phần vào sự đa dạng sinh học của khu vực Tổng thể, Bạch Mã sở hữu địa hình phức tạp, được chia thành hai kiểu địa hình phụ chính: núi trung bình và núi thấp.
Vườn tọa lạc trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nơi khí hậu chịu ảnh hưởng từ hai loại gió mùa chính Gió mùa Đông Bắc mang theo mưa từ tháng 9 đến tháng 4 năm sau, trong khi gió mùa Tây Nam gây ra tình trạng khô hạn từ tháng 5 đến tháng 9.
Dựa trên số liệu từ các trạm khí tượng thủy văn, khu vực Vườn Quốc Gia Bạch Mã có những đặc trưng khí hậu nổi bật Những thông tin này giúp hiểu rõ hơn về điều kiện khí hậu tại VQG Bạch Mã, góp phần vào việc bảo tồn và phát triển bền vững khu vực này.
Nhiệt độ bình quân năm tại vùng Bạch Mã dao động từ 24 o C ở Nam Đông đến 25 o C tại chân Vườn, trong khi khu vực đỉnh Bạch Mã có nhiệt độ trung bình là 19 o C do độ cao trên 1.200m Chế độ nhiệt tại đây có sự biến đổi theo thời gian, độ cao và khu vực, với nhiệt độ giảm dần khi lên cao Cụ thể, từ độ cao trên 1.000m, mỗi 100m tăng thêm sẽ khiến nhiệt độ giảm khoảng 10 o C, điều này giải thích cho mức nhiệt độ thấp tại khu vực đỉnh Bạch Mã.
Mã thấp hơn so với nhiệt độ bình quân toàn vùng và chân vùng Bạch Mã
Mùa mưa và mùa khô ở khu vực này không có sự phân biệt rõ rệt Thời gian mưa chủ yếu tập trung từ tháng 5 đến tháng 12, trong khi các tháng còn lại cũng có lượng mưa đáng kể, ngoại trừ tháng 3 hàng năm, khi lượng mưa dưới 50mm.
Khu vực đỉnh Bạch Mã, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, là nơi có lượng mưa cao nhất miền Trung Việt Nam Nghiên cứu khí tượng thủy văn từ năm 1998 đến 2000 cho thấy lượng mưa trung bình hàng năm tại đây đạt tới 10.758 mm.
Khu vực Bạch Mã có lượng mưa trung bình lớn nhất đạt 8.000 mm/năm, trong khi lượng mưa bình quân toàn vùng là 3.440 mm Độ ẩm tại đỉnh Bạch Mã rất cao, lên tới 90%, và độ ẩm trung bình toàn vùng là 85% Sự khác biệt về độ ẩm giữa các đai cao là rõ rệt, với sương mù gần như bao phủ quanh năm từ độ cao 900m trở lên, tạo ra khí hậu mát mẻ và ôn hòa.
Với nhiệt độ mát mẻ từ 18°C đến 23°C vào mùa hè, Bạch Mã trở thành điểm nghỉ dưỡng lý tưởng để du khách tránh nóng oi bức ở đồng bằng Chính vì vậy, khu vực này đã được người Pháp phát hiện và xây dựng Hiện nay, nhiều doanh nghiệp du lịch trong tỉnh đã đầu tư khôi phục các ngôi biệt thự cũ, tạo điều kiện cho khách tham quan và nghỉ ngơi.
Hệ thống thuỷ văn khu vực Bạch Mã rất dày đặc, đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa nguồn nước cho các con sông lớn như sông Truồi, sông Cuđê và sông Tả Trạch, nguồn chính của sông Hương Bạch Mã không chỉ là nguồn dự trữ nước quan trọng cho các xã vùng đệm của Vườn Quốc gia mà còn có một hồ chứa nước với dung tích khoảng 60.000.000m³ được xây dựng trên thượng nguồn sông Truồi Hồ chứa này cung cấp nước cho sản xuất nông lâm nghiệp, hỗ trợ việc đẩy mặn cho sông Hương, cải tạo tiểu khí hậu và giữ ẩm cho cây nông nghiệp, lâm nghiệp, giúp chúng sinh trưởng và phát triển tốt hơn.
Thảm thực vật là nền tảng sống thiết yếu cho hàng triệu loài động và thực vật, cả trên cạn lẫn dưới nước Nghiên cứu từ nhiều nhà khoa học đã chỉ ra rằng thảm thực vật Bạch Mã sở hữu những đặc điểm cấu trúc cơ bản độc đáo.
Rừng rậm thường xanh nhiệt đới ưa mưa thuộc đai thấp dưới 900m bao gồm bốn trạng thái chính: rừng giàu, rừng trung bình, rừng nghèo và rừng non phục hồi Các trạng thái này tạo thành những quần xã sinh thái đa dạng, đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái rừng.
Tropical evergreen rainforests, characterized by their broadleaf trees, are less affected by environmental changes and host dominant species such as Parashorea stellata, Scaphium macropodium, Pometia pinnata, Heritiera cochinchinensis, and Hopea siamensis.
Tropical evergreen rainforests, characterized by broadleaf trees, experience significant disturbances that affect their ecosystem Dominant species in these forests include Ormosia dasycarpa, Macaranga denticulate, Cratoxylon formosum, Endospermum chinense, and Mallotus paniculatus.
Secondary evergreen shrubland is characterized by dominant species such as Rhodomyrtus tomentosa (Sim), Cratoxylon formosum (Thành ngạnh), Mallotus paniculatus (Ba bét), Eupatorium odoratum (Cỏ lào), and Mimosa pudica (Mắc cở).
+ Trảng cỏ nhiệt đới thứ sinh, ưu thế các loài như: Lau (Saccharum spontaneum), Cỏ tranh (Imperata cylindrical)…
- Kiểu 2: Rừng rậm thường xanh nhiệt đới gió mùa đai núi thấp trên 900m: gồm có 3 quần xã của các trạng thái là rừng nghèo và rừng non phục hồi
Rừng rậm thường xanh nhiệt đới gió mùa nằm ở độ cao từ 900 đến 1292m và ít bị tác động, với các loài cây ưu thế như Tùng Bạch Mã (Dacrydium elatum), Dẻ Cau (Lithocarpus fenestratus), Giổi (Michelia foveolata), Sồi (Quercus thorelii), Thích Bắc bộ (Acer tonkinensis), Gò đồng nách (Gordnia axillaris) và Hồi lá nhỏ (Illicium parviflorum).
Khu bảo tồn thiên nhiên Đắkrông
Huyện Đắk Rông nằm ở vị trí 16017`55`` đến 16049`12`` vĩ độ Bắc và 106044`01`` đến 107014`15`` kinh độ Đông, có vị trí quan trọng không chỉ đối với tỉnh Quảng Trị mà còn với cả khu vực Bắc Trung Bộ Huyện này giáp với các huyện Gio Linh, Cam Lộ ở phía Bắc, tỉnh Thừa Thiên Huế và Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào ở phía Nam, huyện Triệu Phong và Hải Lăng ở phía Đông, và huyện Hướng Hóa ở phía Tây Đây chính là cửa ngõ đi vào thị xã Đông Hà, vào Thừa Thiên Huế và là khu vực biên giới tiếp giáp với nước Lào.
2.2.2 Địa hình địa chất, khí hậu thủy văn, sông ngòi Địa hình Đắkrông cao về phía Đông – Đông Nam thấp về phía Tây - Tây Bắc Cao nhất là đỉnh Kovalađút 1251m, thấp nhất là khu vực bãi bồi Ba Lòng 25m Đồi núi tập trung ở phía Đông Nam của huyện
Đất đai ở Đắkrông rất đa dạng với bảy loại chính, bao gồm đất màu tím trên đá sét và đất nâu vàng trên phù sa cổ, phù hợp cho các loại cây công nghiệp giá trị cao như cà phê và tiêu Khu vực này có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, với ảnh hưởng rõ rệt từ dãy núi Trường Sơn và sự chuyển tiếp giữa hai mùa khí hậu nóng và lạnh Sông Đắkrông, dài 85 km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn và hợp lưu với sông Rào Quán, tạo thành sông Quảng Trị Hệ thống sông này có nhiều suối lớn như Paây và Scam, và thường xuyên xảy ra lũ lụt do độ dốc và tốc độ chảy cao trong mùa mưa.
Dân cư Đắkrông đa dạng, bao gồm người Chăm, các dân tộc thiểu số như Vân Kiều, Pa Cô và người Kinh định cư lâu dài Tính đến năm 2005, dân số Đắkrông khoảng 34.160 người Qua quá trình sống và đấu tranh với thiên nhiên, cư dân nơi đây đã hình thành một khối thống nhất, đóng vai trò quan trọng trong cộng đồng Việt Nam và Quảng Trị Cộng đồng Ba Hy là nhóm cư dân đầu tiên tại Đắkrông, sống du canh nhưng đã phải di cư do dịch bệnh và thú dữ Sau đó, người Bru, cùng với Vân Kiều và Pa Cô, đã định cư tại các xã A Túc, A Bung, Tà Rụt ở phía Tây Nam huyện.
Khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà – Núi Chúa
KBTNN Bà Nà – Núi Chúa tọa lạc tại xã Hòa Ninh, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm Đà Nẵng khoảng 30 km về phía tây và có độ cao 1.482m so với mực nước biển Núi Bà Nà tiếp giáp với Hải Vân ở phía bắc, huyện Hiên ở phía tây, huyện Đại Lộc ở phía nam, và xã Hòa Phú huyện Hòa Vang ở phía đông Vị trí này khiến Bà Nà trở thành vùng giao lưu chuyển tiếp giữa miền bắc và miền nam Việt Nam, nổi bật với sự đa dạng động thực vật của cả hai khu vực.
KBTNN Bà Nà – Núi Chúa nằm ở tọa độ 15°55' đến 26°4'22'' vĩ độ Bắc và 107°59' đến 108°6'30'' kinh độ Đông Địa hình khu vực này có độ dốc cao, với nhiều sông suối phức tạp, tạo nên một hệ sinh thái đa dạng và phong phú.
Núi Bà Nà có ba loại đá chính: đá Granit, đá sét biến chất và đá cát kết Nhóm đất ferarit núi thấp phát triển trên đá Granit, sét biến chất và đá cát kết, trong khi nhóm đất ferarit mùn ở núi trung bình chủ yếu phát triển trên đá Granit và đá cát kết Đối với nhóm đất ferarit đồi thấp, chúng phát triển trên đá Granit, đá cát kết và đá biến chất Ở độ cao trên 1000m, đất mùn có màu vàng đỏ phát triển trên đá Granit, và đất màu nâu vàng đỏ xuất hiện trên đất sét và đá biến chất.
Bà Nà có vị trí địa lý và địa hình đặc biệt, tạo ra một vùng khí hậu đa dạng Nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nơi đây nhận lượng bức xạ dồi dào Đặc biệt, khi càng lên cao, nhiệt độ giảm và độ ẩm tăng, hình thành hai vành đai khí hậu: vành đai á nhiệt đới ẩm ở phía bắc và vành đai nhiệt đới ẩm ở phía nam, tạo nên sự phong phú trong điều kiện khí hậu của khu vực này.
Nhiệt độ tại khu vực này chịu ảnh hưởng của địa hình, thay đổi theo độ cao và theo tháng trong năm Nhiệt độ trung bình dao động từ 14,1°C vào tháng 2 đến 20,8°C vào tháng 5 Trong những ngày có gió mùa đông bắc, nhiệt độ có thể giảm xuống còn 10°C, trong khi ở vùng cao, nhiệt độ có thể xuống đến 7°C.
Lượng mưa tại Bà Nà chịu ảnh hưởng bởi địa hình và chế độ gió mùa, với tổng lượng mưa trung bình dao động từ 2500mm đến 5185mm Khu vực này có hai mùa mưa rõ rệt, tạo nên đặc điểm khí hậu độc đáo cho nơi đây.
Mùa khô diễn ra từ tháng I đến tháng VII, trong khi mùa mưa bắt đầu từ tháng VIII đến tháng XII, với lượng mưa trong mùa mưa chiếm 74,5% tổng lượng mưa hàng năm Độ ẩm trung bình hàng năm dao động từ 80% đến 90%, đạt mức cao nhất 99,4% vào tháng XII và thấp nhất 85,2% vào tháng II Nhiệt độ thấp nhất ghi nhận được là 14,4°C vào tháng XII, trong khi nhiệt độ cao nhất đạt 20,8°C vào tháng VI.
Có nhiều con sông, suối chảy qua, lòng sông hẹp có nhiều thác, gềnh Sông Vàng: là hợp lưu của các nhánh sông: Yang, Tam Lang, suối Bà
Nà, những sông này bắt nguồn từ các tỉnh phía Tây Nam của dãy núi Cà Nhông và phía tây bắc của dãy núi Bà Nà
Sông Túy Loan: Bắt nguồn từ các đỉnh phía đông của dãy núi Bà Nà, gặp sông Lô Đông, sông Đỏ rồi đổ ra sông Hàn
Sông Lô Đông: Bắt nguồn từ các đỉnh phía nam của dãy núi Bà Nà
Bà Nà, nằm ở phía tây thành phố Đà Nẵng, là khu vực rừng núi với nhiều đặc điểm nguyên sinh của miền Trung Với vị trí địa lý, địa hình, thổ nhưỡng và khí hậu đa dạng, nơi đây sở hữu hệ sinh thái phong phú và đa dạng.
Bà Nà nổi bật với sự đa dạng thực vật phong phú, bao gồm 423 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 109 họ và 276 chi Đặc biệt, nơi đây còn có 16 loài thực vật quý hiếm, thể hiện giá trị sinh học cao của khu vực này.
Khu hệ động vật ở Bà Nà rất phong phú với 40 loài giun đất (Trần Thái Bái và nnk, 2003), 45 loài bướm ngày (Trần Khánh Toàn, 2004) và 17 loài mối (Đinh Thị Phương Anh và nnk, 2000) Sự đa dạng này góp phần tạo nên hệ sinh thái độc đáo của khu vực.
Khu vực Bà Nà chủ yếu dân cư là người Kinh với mật độ dân số thưa thớt và trình độ văn hóa thấp Nền kinh tế nơi đây còn lạc hậu, dẫn đến đời sống khó khăn Trước đây, một bộ phận dân cư đã phụ thuộc vào nghề khai thác lâm sản, gây ảnh hưởng tiêu cực đến diện tích rừng cũng như đa dạng sinh học của khu vực.
MỤC TIÊU, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định thành phần loài bướm và so sánh sự đa dạng loài bướm ở ba khu vực trong một khoảng thời gian điều tra nhất định (tháng 4 và 5)
Nghiên cứu tính đa dạng loài bướm tại ba Vườn Quốc Gia và Khu bảo tồn thiên nhiên nhằm đề xuất các giải pháp hiệu quả cho việc quản lý, bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên côn trùng, đặc biệt là bướm.
Nghiên cứu này nhằm xác định thành phần và mức độ phong phú của các loài bướm trong các sinh cảnh khác nhau tại ba khu rừng đặc dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
- Xác định đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của một số bướm tại ba khu rừng đặc dụng
Để quản lý và sử dụng hợp lý các loài bướm tại Vườn Quốc Gia và Khu bảo tồn thiên nhiên, cần đề xuất các giải pháp phù hợp với điều kiện địa phương Việc bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững là mục tiêu chính, đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của các loài bướm trong hệ sinh thái Áp dụng các biện pháp giám sát và nghiên cứu sẽ giúp theo dõi tình trạng quần thể bướm, từ đó đưa ra các chiến lược bảo vệ hiệu quả Hợp tác với các tổ chức bảo tồn và phát triển du lịch sinh thái cũng là một phần quan trọng trong việc quản lý nguồn tài nguyên này.
Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Khu bảo tồn Thiên nhiên (KBTTN) Đắkrông, Vườn Quốc Gia (VQG) Bạch Mã và KBTTN Bà Nà – Núi Chúa
Khu vực điều tra ở các dạng sinh cảnh, các dạng trạng thái rừng điển hình của các Vườn Quốc Gia và Khu Bảo tồn Thiên nhiên.
Thời gian nghiên cứu
Thời gian thực hiện luận văn từ tháng 04/2013 đến 10/2013
Nghiên cứu và thu thập số liệu cùng mẫu vật ngoài thực địa được thực hiện trong 15 ngày, từ 26/4 đến 10/5/2013 Mỗi khu vực điều tra được khảo sát trong 5 ngày, cụ thể: Đắkrông từ 26 đến 30/4/2013, Bạch Mã từ 1 đến 5/5/2013, và Bà Nà – Núi Chúa từ 6 đến 10/5/2013.
Thời gian phân tích và làm tiêu bản mẫu vật sẽ diễn ra từ giữa tháng 5 đến tháng 7 tại Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, địa chỉ 18 Hoàng Quốc Việt Các mẫu vật này sẽ được lưu giữ tại Bảo tàng để phục vụ cho nghiên cứu và giáo dục.
Thời gian viết luận văn tháng 7-9 năm 2013.
Nội dung nghiên cứu
Với những mục tiêu mà đề tài đặt ra, các nội dung nghiên cứu bao gồm:
1 Xác định thành phần loài bướm ở các khu vực nghiên cứu
2 Đánh giá tính đa dạng sinh học của các loài Bướm trong các khu vực nghiên cứu, so sánh thành phần loài giữa 3 khu vực nghiên cứu:
- Đa dạng theo khu vực;
- Mức độ giống/khác nhau về thành phần loài giữa 3 khu vực
- Ý nghĩa của các loài bướm ở 3 khu rừng đặc dụng:
+ Các loài quý, hiếm có giá trị bảo tồn;
+ Các loài có hình thái đẹp, hấp dẫn có thể phục vụ du lịch;
+ Loài có ý nghĩa chỉ thị môi trường;
+ Các loài có ích, loài gây hại
- Tìm hiểu dẫn liệu sinh học, sinh thái học của một số loài bướm
3 Đề xuất biện pháp quản lý nhằm tăng tính đa dạng của các loài bướm trong khu vực nghiên cứu:
- Các tác động ảnh hưởng đến đa dạng bướm;
- Biện pháp bảo tồn các loài bướm.
Phương pháp nghiên cứu
Dựa theo các phương pháp nghiên cứu của các tác giả: Nguyễn Thế Nhã và nnk (2001), Vũ Văn Liên & Lưu Hoàng Yến (2011) và các tác giả khác
Thu thập các tài liệu có liên quan: Bản đồ địa hình, điều tra sơ thám khu vực nghiên cứu, tài liệu phân loại
Chuẩn bị dụng cụ cần thiết:
Vợt bắt bướm là một dụng cụ hữu ích được làm từ vải mềm với miệng có đường kính từ 30cm đến 60cm Khung vợt được chế tạo từ nhôm, gắn liền với một cán gỗ dài 1m, hoặc có thể là cán sợi carbon có khả năng kéo dài từ 6 đến 7m.
Bao giấy giữ mẫu được làm từ giấy can hoặc giấy glassin nhẵn bóng, có tác dụng bảo vệ mẫu vật khỏi rách nát, mất màu và hỏng hóc Trên bao mẫu, thông tin về ngày tháng điều tra, vị trí thu bắt và các chi tiết khác được ghi rõ ràng Kích thước bao đựng mẫu thay đổi tùy thuộc vào kích thước của mẫu vật Để gập bao giữ mẫu, cần gấp chéo tờ giấy sao cho hai bên thừa ra bằng nhau với chiều rộng từ 2-3cm, sau đó gấp hai đầu giấy vào và cuối cùng gấp hai đầu lại để hoàn thành bao Mẫu vật cần được giữ nguyên trạng thái, không xước, không mất lớp phấn và đảm bảo đầy đủ các bộ phận.
- Bàn bướm (bàn bằng gỗ để căng bướm) Ngoài ra, có thể sử dụng tấm xốp để căng mẫu
- Kim cắm mẫu Kim không gỉ, có mũ, có nhiều kích thước khác nhau, số 0 đến số 7, thông thường sử dụng kim số 1-3 để cắm mẫu bướm
- Hộp gỗ, hộp nhựa để bảo quản mẫu
- Kẹp côn trùng, địa bàn, sách nhận dạng các loài bướm
- Máy ảnh, GPS và một số dụng cụ cần thiết khác
Trong khu vực nghiên cứu, chúng tôi đã xác định các dạng sinh cảnh đặc trưng theo tiêu chuẩn chung, phản ánh tính điển hình của khu vực Cụ thể, một số dạng sinh cảnh được phân loại dựa trên từng khu vực nghiên cứu đã được ghi nhận.
- Đất canh tác nông – lâm nghiệp
3.5.2.1 Xác định các tuyến điều tra
Các loài trong bộ Cánh vẩy có miệng hút, chủ yếu ăn mật hoa và các chất khoáng, thường tập trung ở những khu vực như ven suối, ven đường, và các khu cây bụi có nhiều hoa, cây hoa màu và cây ăn quả Một số loài chỉ sống trong thảm thực vật rừng, vì vậy chúng tôi đã áp dụng phương pháp điều tra tuyến để nghiên cứu.
- Cách lập tuyến điều tra
Chúng tôi xác định tuyến điều tra dựa trên địa hình và kiểu thảm thực vật của khu vực nghiên cứu Các tuyến điều tra phải đáp ứng các tiêu chí cụ thể để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong quá trình thu thập dữ liệu.
+ Tuyến điều tra phải đi qua các dạng sinh cảnh chính trong khu vực nghiên cứu;
+ Đảm bảo tính đại diện;
+ Thuận lợi cho việc điều tra và thu bắt mẫu
Các sinh cảnh điều tra nghiên cứu bướm trong các khu vực như sau: + Khu bảo tồn thiên nhiên Đắkrông:
Tuyến 1: Khu vực xung quanh trụ sở Khu bảo tồn, độ cao 500m bao
Tuyến 2: Dọc đường hai bên là rừng thứ sinh, rừng tự nhiên, bãi trống trong rừng trồng có các khu vực canh tác nông nghiệp như sắn, lúa Các điểm nghiên cứu chính có tọa độ địa lý là khu vực thôn La Tó, Húc Nghi, Đắkrông ở độ cao 900-1000m có tọa độ địa lý là N 16.49770’, E 107.00285’; N 16.48331’, E 107.01114’
Tuyến 3: Tuyến ven suối, rừng tự nhiên, rừng thứ sinh gần với tuyến 2, độ cao 900m
Tuyến 4: Khu vực cây bụi, rừng thứ sinh ven suối, xen lẫn cây trồng nông – lâm nghiệp như sắn, lúa dọc đường mòn và ven suối, độ cao 600- 800m, tuyến xuất phát từ gần đường mòn Hồ Chí Minh vào sâu trong rừng, tọa độ địa lý N 16.62375’, E 106.864790’; N 16.61910’, E 106.87888’ Sinh cảnh rất phong ph, úthảm thực vật bao gồm cây bụi, cây gỗ nhỏ, đôi khi xen lẫn cây bụi, bãi trồng sắn một năm (chiều cao cây 1-2m), lúa sắp đến mùa thu hoạch, bờ cỏ với các vũng nước nhỏ, đường mòn dưới tán rừng với tán cây cao 4-5 m, suối rộng 5-6m, nhiều đá sỏi, nước suối ít (mùa khô) tán rừng che phủ khoảng ẵ suối Độ cao 800-900m Độ cao khu vực nghiên cứu ở Đắkrông từ 500-1000m
+ Vườn Quốc gia Bạch Mã:
Tuyến 1: Từ Biệt thự Đỗ Quyên theo đường ô tô, xuống thác Đỗ quyên, tọa độ địa lý N 16.18630’, E 107.84880, lên khu vực Biệt thự Đỗ quyên, độ cao 1200 – 1100-1200m Rừng tự nhiên, rừng thứ sinh, ven suối
Tuyến 2: Dọc đường ô tô từ Biệt thự Đỗ quyên tới cuối đường ô tô khách sạn Morin, tọa độ địa lý N 16.19603’, E 107.86255 (1200-1400m)
Tuyến 3: Từ điểm cuối đường ô tô khách sạn Morin lên đỉnh Bạch Mã, tọa độ tọa độ địa lý N 16.19952’, E 107.85760 (1400-1450m) Rừng tự nhiên, cây bụi dọc hai bên đường và trên đỉnh Bạch Mã
Tuyến 4: Từ đường ô tô vào thác Trĩ Sao, tọa độ địa lý N 16.22933’, E 107.84875, độ cao 300-500m Rừng tự nhiên, rừng thứ sinh dọc đường mòn
Tuyến 5: khu vực trụ sở Vườn và khu du lịch gần Vườn độ cao 100- 300m Rừng thứ sinh, tái sinh, cây gỗ nhỏ, cây bụi, xe lẫn tre trúc, mua, tọa độ địa lý N 16.23538’, E 107.87205
Sinh cảnh nghiên cứu rất đa dạng, bao gồm cây bụi, khoảng trống trong rừng, ven suối, và rừng tái sinh ở khu vực thấp (100m so với mặt nước biển) cho đến rừng nguyên sinh trên đỉnh Bạch Mã cao 1470m (N 16.19952’; E 107.85760’) Rừng nguyên sinh dọc theo đường mòn từ biệt thự Đỗ Quyên ở độ cao 1200m đến đỉnh Bạch Mã, cũng như từ biệt thự Đỗ Quyên theo đường nhựa và đường mòn xuống thác Đỗ Quyên ở độ cao 1100m.
Rừng tự nhiên dọc theo đường mòn xuống thác Trĩ Sao có độ cao từ 350-450m (N 16.29330’; E 107.84785”) và sinh cảnh rừng tự nhiên tại các tuyến đường mòn du lịch núi Bạch Mã Khu vực rừng thứ sinh, tái sinh nằm ven suối gần trụ sở Vườn Quốc gia Bạch Mã (N 16.23538’; E 107.87025’) Độ cao nghiên cứu tại Bạch Mã dao động từ 100-1450m.
+ Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bà Nà – Núi chúa:
Tuyến 1: Khu vực trung tâm (khách sạn Morin Bà Nà) lên đỉnh Bà Nà, tọa độ địa lý N 15.99764’, E 107.98586 (1400-1487m) Sinh cảnh vườn hoa, cây bụi, khoảng trống hai bên đường, rừng tự nhiên trên đỉnh núi Bà Nà
Tuyến 2: Theo đường mòn gần đỉnh núi Bà Nà (1450m) Rừng tự nhiên, rừng hỗn giao tre nứa
Tuyến 3: Đường mòn rừng tự nhiên khu biệt thự Mimosa, tọa độ địa lý
N 15.99644’, E 107.99473, độ cao 1200 – 1250m Rừng tự nhiên, rừng thứ sinh, cây bụi
Tuyến 4: Dọc đường ô tô từ khách sạn Morin xuống khu vực hầm rượu (1400m – 1300) Rừng tự nhiên và cây bụi hai bên đường, vườn hoa
Tuyến 5: Ven đường ô tô độ cao 500-1200 m Rừng tự nhiên, cây bụi hai bên đường
Tuyến 6: Ven suối khu độ cao 600-700m Rừng tự nhiên và rừng thứ sinh Nói chung khu vực nghiên cứu bao gồm khu vực trên đỉnh núi Bà Nà ở độ cao 1400-1450m, dọc đường nhựa hai bên rừng ở độ cao từ 600-1400m, rừng ven suối ở các độ cao khác nhau từ 600m đến 1350m, khu vực bãi trống, vườn hoa, cây bụi ở độ cao 1400m và 800m Thảm thực vật khu vực nghiên cứu là rừng tự nhiên, rừng thứ sinh, cây bụi, bãi cỏ, vườn hoa Độ cao nghiên cứu ở Bà Nà – Núi Chúa từ 500-1500m
* Một số hình ảnh sinh cảnh nghiên cứu được trình bày ở phụ lục 1
3.5.2.2 Phương pháp điều tra theo tuyến
Việc thu thập mẫu vật được thực hiện thông qua các phương pháp thông dụng, đặc biệt là sử dụng vợt côn trùng Mẫu vật được thu thập từ nhiều sinh cảnh và độ cao khác nhau tại ba khu vực nghiên cứu, nhằm phục vụ cho công tác định loại.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đa dạng về thành phần loài
Trong quá trình nghiên cứu, đã phát hiện 188 loài bướm thuộc các họ như Papilionidae, Pieridae, Danaidae, Satyridae, Amathusiidae, Riodinidae, Nymphalidae, Lycaenidae và Hesperiidae Sự phong phú và thành phần của các loài bướm này được trình bày chi tiết trong bảng 4.1, kèm theo hình ảnh một số loài bướm trong phụ biểu 2.
Trong ba khu vực nghiên cứu, KBTTN Đắkrông dẫn đầu với 138 loài bướm, chiếm 73,40% tổng số loài được ghi nhận VQG Bạch Mã đứng thứ hai với 104 loài, tương đương 55,32%, trong khi KBTTN Bà ghi nhận ít nhất số loài bướm.
Nà – Núi Chúa (62 loài, chiếm 32,98%)
Bảng 4.1: Thành phần loài và mức độ phong phú của các loài bướm tại 3
37 Dercas verhuelli (van der Hoeven, 1839) ++ ++
Họ bướm mắt rắn Satyridae
153 Heliophorus ila (de Nicéville & Martin, 1896) +
Notocrypta paralysos (Wood Mason & de
Chú thích: +: 1-2 cá thể; ++: 3-5 cá thể; trên 5 cá thể; ô trống không có cá thể nào
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại VQG Bạch Mã cho thấy có 104 loài bướm, giảm so với 256 loài được ghi nhận trong các nghiên cứu trước đây Điều này chỉ ra rằng trong khoảng thời gian nghiên cứu 5 ngày, sự đa dạng loài bướm tại Bạch Mã có sự thay đổi đáng kể.
Mã được xác định chiếm 41% (104/256) tổng số loài ghi nhận được ở Bạch
Khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà – Núi Chúa đã xác định được 62 loài bướm, tăng 17 loài so với nghiên cứu trước đây chỉ ghi nhận 45 loài Trong khi đó, khu vực Đắkrông vẫn chưa có tài liệu công bố về bướm, do đó không thể thực hiện so sánh.
4.1.2 Đa dạng thành phần loài theo họ
- KBTTN Đắkrông: 9 họ, 99 giống, 138 loài
- VQG Bạch Mã: 9 họ, 69 giống, 104 loài
- KBTTN Bà Nà – Núi chúa: 8 họ, 47 giống, 62 loài
4.1.2.1 Thành phần loài bướm theo họ ở Đắkrông
Thành phần loài bướm theo họ ở Đắkrông được trình bày trong bảng 4.2 và hình 4.1
Bảng 4.2: Thành phần loài theo họ tại KBTTN Đắkrông
Hình 4.1: Thành phần loài bướm theo họ tại KBTTN Đắkrông
Bảng 4.2 và hình 4.1 cho thấy tại KBTTN ĐắKrông có 138 loài bướm thuộc 99 giống, 9 họ Trong đó họ Nymphalidae có số giống và loài cao nhất
Trong nghiên cứu về các loài bướm, họ Nymphalidae dẫn đầu với 27 giống và 37 loài, chiếm 27,27% số giống và 26,81% số loài Tiếp theo là họ Lycaenidae với 20 giống và 24 loài, chiếm 20,20% số giống và 17,37% số loài Họ Amathusiidae và Riodinidae có số lượng giống và loài thấp nhất, trong đó họ Amathusiidae có 4 giống và 5 loài, chiếm 4,04% số giống và 3,62% số loài, còn họ Riodinidae chỉ có 1 giống và 1 loài, chiếm 1,01% số giống và 0,72% số loài.
4.1.2.2 Thành phần loài bướm theo họ ở VQG Bạch Mã
Bảng 4.3 và hình 4.2 cho thấy VQG Bạch Mã có 104 loài bướm thuộc
Trong tổng số 69 giống và 9 họ bướm, họ Nymphalidae dẫn đầu với 18 giống và 27 loài, chiếm 26,09% số giống và 25,96% số loài Theo sau là họ Pieridae với 12 giống và 16 loài, tương ứng 17,39% số giống và 15,38% số loài Họ Papilionidae có số loài tương đương với Pieridae nhưng chỉ có 7 giống, chiếm 10,14% về số giống và 15,38% về số loài Họ Amathusiidae và Riodinidae là hai họ có số lượng giống và loài thấp nhất, với họ Amathusiidae có 3 giống và 3 loài (4,34% số giống và 2,88% số loài) và họ Riodinidae có 2 giống và 2 loài (2,90% số giống và 1,92% số loài).
Bảng 4.3: Thành phần loài theo họ tại VQG Bạch Mã
Hình 4.2: Thành phần loài theo họ tại VQG Bạch Mã
4.1.2.3 Thành phần loài bướm theo họ ở ở KBTTN Bà Nà – Núi Chúa
Thành phần loài bướm theo họ ở KBTTN Bà Nà – Núi Chúa được trình bày trong bảng 4.4 và hình 4.3
Bảng 4.4: Thành phần loài tại KBTTN Bà Nà-Núi Chúa
Hình 4.3: Thành phần loài bướm theo họ ở KBTTN Bà Nà – Núi Chúa
Qua bảng 4.4 và hình 4.3 ta dễ thấy ở KBTTN Bà Nà - Núi Chúa có
Trong tổng số 62 loài bướm thuộc 47 giống và 8 họ, họ Nymphalidae dẫn đầu với 12 giống và 13 loài, chiếm 25,53% số giống và 20,97% số loài Họ Pieridae đứng thứ hai với 9 giống và 13 loài, tương ứng với 19,15% số giống và 20,97% số loài Ngược lại, họ Amathusiidae có số lượng giống và loài ít nhất, với 3 giống và 3 loài, chiếm 6,38% về số giống và 4,48% về số loài.
Nà Núi Chúa, không ghi nhận thấy loài Riodinidae
4.1.3 Đa dạng theo loài của các họ bướm ở ba VQG và KBTTN Để xem xét tính đa dạng và đặc trưng của khu hệ bướm ở 3 VQG và KBTTN, thành phần loài bướm theo họ ở 3 VQG và KBTTN được trình bày theo hình 4.4
Hình 4.4: Thành phần loài bướm theo họ ở 3 VQG và KBTTN
Theo hình 4.4, họ Nymphalidae chiếm ưu thế về số lượng loài ở các khu vực nghiên cứu, với VQG Đắkrông ghi nhận 37 loài, cao nhất trong số các khu vực VQG Bạch Mã đứng thứ hai với 27 loài Ngược lại, họ Riodinidae có số lượng loài thấp nhất, chỉ ghi nhận 1 loài tại KBTTN Đắkrông và VQG Bạch Mã.
Trong nghiên cứu tại KBTTN Bà Nà – Núi Chúa, không ghi nhận được số lượng loài cụ thể trong họ Mã (2 loài) Các họ Nymphalidae, Lycaenidae, Hesperiidae và Satyridae cho thấy sự khác biệt rõ rệt về số lượng loài giữa ba khu vực Ngược lại, Danaidae và Pieridae có sự khác nhau không đáng kể về số loài Họ Papilionidae cũng không có sự chênh lệch lớn về số loài giữa Đắkrông và Bạch Mã.
Bảng so sánh cho thấy sự đa dạng về số lượng loài thuộc các họ ở khu bảo tồn thiên nhiên Đắkrông cao hơn so với khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà – Núi Chúa Mặc dù Bà Nà – Núi Chúa có diện tích rừng nguyên sinh lớn và sinh cảnh phong phú, nhưng số lượng loài bướm ở đây lại thấp Nguyên nhân có thể do chưa phải mùa bướm phong phú nhất, trong khi tháng 5 thường là thời điểm bướm phong phú nhất ở miền Bắc và Trung Việt Nam Cần tiến hành nghiên cứu vào các mùa khác trong năm để đánh giá mức độ phong phú và đa dạng của bướm tại Bà Nà – Núi Chúa Ngược lại, Đắkrông có sự đa dạng loài bướm cao nhất nhờ vào sinh cảnh đa dạng, đặc biệt là dọc theo các con đường mòn rừng thứ sinh với nhiều loại cây khác nhau, thực vật ưa sáng, cây trồng nông - lâm nghiệp, và cây bụi Điều này dẫn đến sự phong phú về thành phần loài.
4.1.4 Mức độ phổ biến của các loài ở 3 VQG và KBTTN
Mức độ phổ biến của các loài bướm tại ba khu vực nghiên cứu được thể hiện rõ trong bảng 4.5 và các hình 4.5, 4.6, 4.7, 4.8 Tại KBTTN Bà Nà – Núi Chúa, loài hiếm gặp chiếm tỷ lệ cao nhất với 39/62 loài (62,90%), tiếp theo là loài ít phổ biến (20 loài, 32,26%) và loài phổ biến (3 loài, 4,84%) Ở KBTTN Đắkrông, loài ít phổ biến chiếm 48,55% (67 loài), loài hiếm gặp chiếm 40,58% (56 loài) và loài phổ biến chiếm 10,87% (15 loài) Tại VQG Bạch Mã, loài ít phổ biến chiếm 54,80% (57 loài), loài hiếm gặp chiếm 42,30% (44 loài) và loài phổ biến chiếm 2,88% (3 loài).
Bảng 4.5: Mức độ phổ biến của các loài ở 3 VQG và KBTTN
Mức độ phổ biến Đắkrông Bạch Mã Bà Nà – Núi Chúa
Hiếm gặp (1-2 cá thể) 56 44 39 Ít phổ biến (3-5 cá thể) 67 57 20
Phổ biến (trên 5 cá thể) 15 3 3
Hình 4.5: Mức độ phổ biến của các loài ở KBTTN Đắkrông
Hình 4.6: Mức độ phổ biến của các loài ở VQG Bạch Mã
Hình 4.7: Mức độ phổ biến của các loài ở KBTTN Bà Nà - Núi Chúa
Hình 4.8: Tỷ lệ về mức độ phổ biến (%) theo thành phần loài bắt gặp ở 3 khu vực
4.1.5 Mức độ giống nhau về thành phần loài giữa 3 khu vực
Mức độ giống nhau về thành phần loài bướm giữa 3 khu vực nghiên cứu được trình bày trong bảng 4.6
Bảng 4.6: Chỉ số tương đồng (%) về thành phần loài bướm giữa 3 khu vực
Khu vực Đắkrông Bạch Mã
Bảng 4.6 cho thấy thành phần loài giống nhau nhất là giữa VQG Bạch
Mã và KBTTN Đắkrông (57,02%), thấp nhất là giữa KBTTN Bà Nà – Núi Chúa và Đắkrông (39%) Thành phần loài bướm của Bạch Mã và Bà Nà – Núi Chúa khá cao (51,8%)
Trong ba khu vực nghiên cứu ở miền Trung, Bạch Mã và Đắkrông có vị trí địa lý gần nhau và khí hậu nhiệt đới gió mùa tương tự, bao gồm cả mùa đông lạnh Ngược lại, Bà Nà – Núi Chúa tách biệt với Bạch Mã, tạo nên sự khác biệt về điều kiện khí hậu giữa các khu vực này.
Mã và Đắkrông có khí hậu nóng, không bị ảnh hưởng bởi khí hậu lạnh vào mùa đông miền Bắc, dẫn đến sự khác biệt rõ rệt trong thành phần loài bướm giữa hai khu vực này.
Mặc dù Đắkrông và Bà Nà – Núi Chúa cách xa nhau về mặt địa lý và có sự khác biệt về khí hậu so với Bạch Mã, nhưng thành phần loài bướm giữa Bà Nà – Núi Chúa và Bạch Mã vẫn khá cao do vị trí địa lý gần gũi của chúng Nghiên cứu cho thấy rằng yếu tố địa lý và khí hậu đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự tương đồng hay khác biệt về thành phần loài bướm giữa các khu vực (Vũ Văn Liên, 2013; Vũ Văn Liên & Trần Thị Thanh Bình, 2013; Vũ Văn Liên & Tạ Huy Thịnh, 2005).
Dẫn liệu về sinh học, sinh thái một số loài bướm
Qua nghiên cứu thực địa và tham khảo tài liệu từ Đặng Thị Đáp và các tác giả khác (2011), bài viết đã trình bày thông tin sinh học và sinh thái học về một số loài bướm.
4.2.1 Bướm Phượng Paris - Papilio paris (Linnaeus)
Tên khác: Bướm Phượng xanh Paris thường
Tên tiếng Anh: The Tamil Peacock
Loài này về hình dáng rất giống với các loài P bianor, P arcturus
Loài bướm Phượng P paris nổi bật với màu đen và những đốm xanh lục lớn lấp lánh trên cánh sau khi bay Khi quan sát gần, có thể thấy các vảy xanh lục nhỏ xen kẽ giữa các vảy đen, tạo nên vẻ đẹp huyền ảo Mặt dưới cánh sau có dãy đốm đỏ tía hình trăng khuyết và hai vòng tròn đỏ với nhân đen gần bụng Đây là một trong những loài bướm đuôi đẹp nhất Việt Nam, với bướm đực và cái đều có mảng lớn màu xanh lục trên cánh sau Đặc điểm dễ nhận diện nhất là đốm xanh ngọc to, rõ rệt, không chạy sát mép cánh Sải cánh của loài này từ 120-140mm ở Thái Lan và 100-130mm ở Vân Nam.
Bướm sinh học sinh thái thường xuất hiện trong rừng hoặc gần rừng, với đặc điểm đẻ trứng trên cây Ba gạc (Euodia sp.) và họ Cam chanh (Rutaceae) Mặc dù bay rất nhanh, bướm dễ dàng được gặp ở các bờ cát gần suối và sông Bướm đực thường xuất hiện ở thảm thực vật thứ sinh, trong khi bướm cái chủ yếu tìm thấy trong rừng Chúng bị thu hút bởi phân thải của chim và thú, và vào mùa xuân, cả bướm đực lẫn bướm cái thường tụ tập cùng các loài bướm khác ở những cây thuộc họ chi Bướm bạc, Long não và các loại hoa khác.
Loài bướm này phân bố rộng rãi từ Đông Bắc Ấn Độ, qua Trung Quốc, đến Đài Loan và Nam Nhật Bản, cũng như phía Nam qua vùng Đông Dương đến quần đảo San-đa Tại Việt Nam, loài này rất phổ biến, tuy nhiên, số lượng bướm cái lại ít hơn so với bướm đực.
+ Giá trị, tình trạng và biện pháp bảo vệ:
P paris là khá loài phổ biến trong nhóm bướm Phượng, có đốm màu xanh ở cánh sau Một số loài khác cũng rất giống loài này như P arcturus, P polytor, loài P memnon, P dialis, P bianor Loài đẹp có giá trị thẩm mỹ cao, có thể nuôi
4.2.2 Bướm chai xanh thường - Graphium sarpedon (Linnaeus)
+ Tên khác: Bướm Phượng đuôi cụt vạch xanh, Bướm chai xanh
+ Tên tiếng Anh: The Common Bluebottle
Bướm thuộc giống Graphium có đặc điểm nhận diện dễ dàng với mặt trên của con cái có dải màu xanh lá cây nhạt tạo thành hình tam giác, trong khi con đực có 4 đốm màu xanh hình trăng khuyết ở mép ngoài cánh sau Sải cánh của chúng dao động từ 80-90mm, với con cái thường lớn hơn và có cánh rộng hơn Loài bướm này rất phổ biến ở mọi độ cao trong rừng, thường xuất hiện với số lượng lớn ven suối và vũng nước Sâu non của chúng ăn lá cây thuộc họ Na, với sâu lớn có màu xanh và nhộng nguỵ trang dạng lá cây Chúng cũng thường gặp trong vườn và công viên, dinh dưỡng nhờ hoa và có thể thấy cùng với các loài bướm khác dọc bờ sông và suối Các loài cây chủ như họ Long não, chi Long não, Màng Tang và Bơ là nguồn thức ăn cho sâu non.
Toàn vùng Đông Nam châu Á đến Ôx-trây-li-a và quần đảo Sa - lô - môn Đây là loài phổ biến khắp nơi ở Việt Nam
+ Giá trị, tình trạng và biện pháp bảo vệ:
Bướm là loài thường gặp và xinh đẹp, thường bị bắt để làm bộ sưu tập Việc bảo vệ bướm là cần thiết vì chúng góp phần làm đẹp cho thiên nhiên và không gây hại cho cây trồng Do đó, việc nhân nuôi bướm trong trang trại là một giải pháp hợp lý.
4.2.3 Hải âu vàng viền đen - Appias lyncida (Cramer)
+Tên khác: Bướm nâu lớn
+ Tên tiếng Anh: The Chocolate Albatross
Con đực có màu trắng ở mặt trên với viền đen hoặc nâu sô cô la, cùng với những nét trang trí màu vàng chanh sáng và màu nâu sô cô la Con cái có màu trắng xen kẽ với nhiều đám màu nâu tối, thể hiện tính lưỡng hình theo mùa Trong mùa mưa, con đực có màu trắng ở phía trên với viền và gờ ngoài màu xanh nhạt hình răng cưa trang trí ở cánh trước, cánh sau có viền răng cưa màu xanh nhạt ở mép ngoài Mặt dưới của cánh có màu vàng sáng với mép viền ngoài màu sô cô la tối, rất dễ nhận biết nhờ màu sắc đặc trưng và hình dạng cánh Con cái hiếm gặp, thường có cánh màu đen và tối màu hơn Sải cánh của loài này dao động từ 55 đến 70mm.
Bướm là loài ưa thích môi trường rừng, thường sống ở những khu vực có độ cao lên đến 3000 feet và bay nhanh chóng, thường đậu xuống mặt đất Chúng thường xuất hiện trong các khu rừng nhiệt đới, đặc biệt là dọc theo bờ suối Con đực thường bay quanh các bụi rậm và cây cối, và thường "tụ họp" với các loài khác, đôi khi tạo thành đàn lớn Bướm thường ghé thăm những bông hoa như hoa cỏ roi ngựa và thường xuất hiện cùng các loài khác thuộc họ bướm Phấn Chúng rất phổ biến, ngay cả trong các khu vực thành thị, và thường đẻ trứng trên cây bún (Crataeva religiosa) cũng như các loài cây thuộc họ Cáp như Cáp gai nhỏ (Capparis micrantha) và Capparis roxburghii.
Sâu non của loài Capparaceae có màu xanh hơi nâu, trong khi sâu tuổi cuối chuyển sang màu xanh đặc trưng của họ Pieridae Chúng thường xuất hiện nhiều ở rừng phục hồi thứ sinh, với bướm đực thường tụ tập thành đàn ở những khu vực đất ẩm ven đường và bờ suối Bướm cái hiếm gặp hơn và thường phân bố hạn chế trong rừng Loài này chủ yếu phổ biến ở vùng đất thấp nhưng cũng có thể được tìm thấy ở mọi độ cao.
Nam và Đông Nam Á: Ấn Độ, Xri Lanka, Mianma, Đài Loan, Hải Nam và Nam Trung Quốc, Malaixia, Indonexia, Philippin, Thái Lan, Đông Dương Phân bố rộng ở Việt Nam
+ Giá trị, tình trạng và biện pháp bảo vệ:
Bướm là loài phổ biến nhất và có số lượng lớn nhất trong tất cả các loại bướm Chúng đóng vai trò quan trọng trong việc thụ phấn cho cây cối và cỏ dại, đồng thời góp phần vào nghiên cứu phân loại học và bảo tồn đa dạng sinh học.
4.2.4 Bướm hổ đốm trắng - Parantica aglea (Stoll)
+ Tên khác: Bướm Đốm trắng lớn thường
+ Tên tiếng Anh: The Glassy Tiger
Bướm thuộc giống Parantica dễ nhận diện với cánh màu đen nền và các đốm trắng sáng Mép đỉnh cánh trước lượn ngoặt vào phía đĩa cánh ở đoạn 2/5 mép ngoài, đặc điểm này nổi bật ở các loài bướm Đốm Bướm cái và bướm đực có hình dạng tương tự nhau Loài P aspasia có kiểu đốm giống P aglea nhưng dễ nhận diện hơn nhờ các đốm ở cánh sau và vạch dưới ô cánh trước có màu vàng, cùng với kích thước nhỏ hơn Sải cánh của loài này dao động từ 75-90mm.
Sinh học sinh thái của loài bướm thuộc họ Danaidae cho thấy chúng thường sống chung sinh cảnh với các loài khác trong cùng họ Chúng ưa thích môi trường rừng thứ sinh có bóng râm và thường xuất hiện ở những khu vực rừng hoặc chỗ trống ở nhiều độ cao khác nhau Bướm bay khá yếu và chậm, thường được quan sát bay một mình Cây thức ăn chính của chúng là Đầu dài xoan, thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae).
+ Phân bố: Đông Nam Châu Á, Đài Loan, các đảo An-đa-man và Ni-cô-ba-rơ Loài này rất phổ biến, gặp mọi nơi ở Việt Nam
+ Giá trị, tình trạng và biện pháp bảo vệ:
Bướm là loài phổ biến với màu sắc nhẹ nhàng và bay chậm, dễ dàng quan sát và thu bắt Mặc dù chúng không thu hút con người như những loài bướm đẹp khác, nhưng số lượng cá thể của chúng vẫn phong phú.
4.2.5 Bướm "Nữ phù thuỷ" - Hestina nama (Doubleday)
+Tên tiếng Anh: The Circe
Giống bướm này thuộc họ Bướm Đốm, bao gồm các loài mạo danh Dananus melaneus Chúng có màu xám xanh với gân tối, mặt trên màu đen với hoa văn trắng xanh nhạt giống Danaus melaneus, và đỉnh cánh trước cùng cánh sau nhuộm đỏ Mặt dưới trang trí tương tự nhưng có đỉnh cánh màu vàng nâu Sải cánh của chúng đạt từ 95-100mm.
+ Sinh học sinh thái: Đặc điểm chung: Sống ở độ cao 600-1000m, cây thức ăn: Celtis sinensis
+ Phân bố: Bắc Ấn Độ, Mianma, Bắc Thái Lan, Việt Nam
+ Giá trị, tình trạng và biện pháp bảo vệ: Loài có phổ phân bố hẹp và ít gặp.
Thực trạng và giải pháp bảo tồn
Qua quá trình điều tra, khảo sát và phỏng vấn người dân cùng ban quản lý các VQG và KBTNN, chúng tôi đã thu thập được thông tin quý giá Đội ngũ kiểm lâm cũng đã tham gia tích cực vào quá trình này Từ đó, chúng tôi rút ra một số kết luận quan trọng về công tác quản lý và bảo tồn tại ba khu vực nghiên cứu.
Công tác bảo tồn và sự phối hợp của đội ngũ kiểm lâm tại đây đã đạt được nhiều thành tựu, bao gồm việc xây dựng hệ thống kiểm tra, kiểm soát và bảo vệ nghiêm ngặt Hệ thống phòng trưng bày cùng với công tác tuyên truyền về du lịch đã được triển khai hiệu quả, giúp di dời người dân ra khỏi vùng lõi của VQG, nâng cao khả năng quản lý Tuy nhiên, việc di dời này cũng dẫn đến sự xuất hiện của các khu nghỉ dưỡng, làm gia tăng lượng khách du lịch Điều này, kết hợp với ý thức kém trong việc giữ gìn vệ sinh môi trường, đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến sinh cảnh và môi trường sống của động vật, đặc biệt là các loài bướm Bên cạnh những nỗ lực bảo tồn, vẫn còn tồn tại yếu tố kinh doanh và khai thác nguồn lợi từ tự nhiên.
2) Tại KBTTN Đắkrông và KBTTN Bà Nà – Núi Chúa:
Công tác quản lý và bảo tồn tại khu vực này còn nhiều hạn chế, với mật độ kiểm lâm tại các trạm chưa đủ để quản lý hiệu quả diện tích được giao Việc buôn bán sản phẩm từ bướm và cây rừng, cùng với ô nhiễm nguồn nước, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống của các loài bướm Nạn đốt nương làm rẫy cũng được phát hiện tại nhiều địa điểm trong rừng tự nhiên ở KBTTN Đắkrông Đặc biệt, tại KBTTN Bà Nà – Núi Chúa, các công trình du lịch xây dựng trên đỉnh núi đang gây tác động tiêu cực đến công tác bảo tồn và sinh cảnh sống của các loài bướm.
Hiện nay, sản phẩm từ động thực vật rừng, đặc biệt là từ nguồn tài nguyên bướm, đã trở thành hàng hóa, dẫn đến tình trạng săn bắt gia tăng Chính sách mở cửa thương mại với các nước đã làm tình hình này trở nên phức tạp và mạnh mẽ hơn.
4.3.1.1 Nguyên nhân gây suy thoái tính đa dạng và các giá trị của côn trùng trong bảo tồn đa dạng sinh học
4.3.1.2 Nguyên nhân gây mất tính đa dạng sinh học nói chung
Suy thoái đa dạng sinh học chủ yếu do hai nguyên nhân chính: hiểm họa tự nhiên và hoạt động của con người Các tác động từ con người thường dẫn đến sự suy giảm, thoái hóa và hủy hoại cảnh quan trên diện rộng, đặc biệt là do khai thác quá mức các loài để phục vụ nhu cầu tiêu dùng.
Phá hủy nơi sống tự nhiên, đặc biệt là rừng nguyên sinh và rừng nhiệt đới, đang trở thành một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học Mất nơi cư trú được xem là nguyên nhân chính dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng của nhiều loài, trong đó phần lớn là các loài sống trong rừng Nạn phá rừng diễn ra với tốc độ chóng mặt trên toàn cầu, gây ra những tác động tiêu cực nghiêm trọng đến hệ sinh thái.
* Các sinh cảnh bị chia cắt và bị cách ly
Các hoạt động của con người không chỉ đe dọa trực tiếp đến sự phân cách môi trường sống mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính đa dạng sinh học Khi sinh cảnh bị chia nhỏ, các loài cũng bị tách biệt và cách ly, dẫn đến sự hình thành những quần thể nhỏ, dễ bị tổn thương Sự chia ly này tạo ra các mô hình sinh sống giống như các hòn đảo giữa biển cả, làm tăng nguy cơ tuyệt chủng cho các loài do sự ức chế sinh sản và tác động từ môi trường xung quanh.
Sự phân chia các sinh cảnh do sự mở rộng của khu vực sinh sống của con người đã làm gia tăng khả năng tiếp xúc giữa các loài hoang dã, trong khi những loài này thường có khả năng miễn dịch rất thấp đối với các mầm bệnh mới.
Ô nhiễm môi trường sống đang đe dọa sự suy thoái đa dạng sinh học, với nhiều nguyên nhân khác nhau như việc sử dụng thuốc trừ sâu, khí thải từ nhà máy và ô tô, cũng như sự lắng đọng trầm tích từ quá trình sói mòn đất ở các vùng cao.
Thuốc trừ sâu, được khuyến cáo hạn chế từ năm 1962, là một yếu tố gây ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến các quần thể sinh vật trong môi trường Việc sử dụng thuốc trừ sâu để kiểm soát côn trùng gây hại cho cây trồng không chỉ dẫn đến sự gia tăng nồng độ hóa chất theo thời gian do hiện tượng nhờn thuốc, mà còn làm tổn hại đến các sinh vật có ích Hơn nữa, thuốc trừ sâu còn gây ô nhiễm không khí và các yếu tố khác trong môi trường sống của con người.
Ô nhiễm không khí do phát triển công nghiệp là một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm bầu khí quyển, thải ra các hóa chất độc hại vào không khí Hiện tượng này dẫn đến mưa axit, gây hại nghiêm trọng cho hệ sinh thái, tiêu diệt nhiều loài động vật và thực vật.
Khai thác quá mức là nguyên nhân thứ hai gây suy thoái đa dạng sinh học, chỉ sau việc phá hủy môi trường sống Để đáp ứng nhu cầu cuộc sống, con người đã khai thác tài nguyên một cách kiệt quệ, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng cho khoảng 1/3 số loài động vật có xương sống Trong những năm gần đây, sự mở rộng của thị trường thương mại đã làm gia tăng nhu cầu này, khiến tình hình trở nên nghiêm trọng hơn.
4.3.1.3 Giá trị bảo tồn đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học mang lại giá trị sử dụng quan trọng, chủ yếu từ góc độ kinh tế, thông qua các sản phẩm mà con người sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp.
Đa dạng sinh học đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường khả năng sản xuất của hệ sinh thái, bảo vệ tài nguyên đất và nước, cũng như điều hòa khí hậu Sự đa dạng này tạo ra sự cân bằng sinh thái thông qua các mối quan hệ tương tác giữa các loài, góp phần duy trì sự ổn định và phát triển bền vững của môi trường.
Đa dạng sinh học mang giá trị đạo đức sâu sắc, khẳng định rằng mọi loài đều có quyền tồn tại Chúng ta cần tôn trọng sự sống của nhau trong mối quan hệ cộng sinh, không chỉ dựa vào giá trị sử dụng của từng loài.