1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đa dạng thành phần loài bướm ở 3 Khu Bảo tồn Thiên nhiên và Vườn Quốc gia Đắkrông (Quảng Trị), Bạch Mã (Thừa Thiên Huế), Bà Nà – Núi Chúa (Đà

84 15 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đa dạng thành phần loài bướm ở 3 Khu Bảo tồn Thiên nhiên và Vườn Quốc gia Đắkrông (Quảng Trị), Bạch Mã (Thừa Thiên Huế), Bà Nà – Núi Chúa (Đà Nẵng)
Tác giả Phạm Việt Hùng
Người hướng dẫn TS. Vũ Văn Liên
Trường học Trường Đại học Lâm nghiệp
Chuyên ngành Quản lý tài nguyên rừng
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2013
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 84
Dung lượng 1,28 MB

Cấu trúc

  • Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (12)
    • 1.1. Tình hình nghiên cứu bướmtrên thế giới (12)
    • 1.2. Tình hình nghiên cứu bướm ở Việt Nam (13)
    • 1.3. Nghiên cứu về bướm tại Đắkrông, Bạch Mã và Bà Nà – Núi Chúa (16)
  • Chương 2 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU (18)
    • 2.1. Vườn Quốc gia Bạch Mã (18)
      • 2.1.1. Điều kiện tự nhiên (18)
      • 2.1.2. Đặc trưng về kinh tế xã hội (21)
    • 2.2. Khu bảo tồn thiên nhiên Đắkrông (23)
      • 2.2.1. Vị Trí địa lý (23)
      • 2.2.2. Địa hình địa chất, khí hậu thủy văn, sông ngòi (23)
      • 2.2.3. Dân cư, văn hóa (24)
    • 2.3. Khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà – Núi Chúa (25)
      • 2.3.1. Đặc điểm tự nhiên (25)
      • 2.3.2. Đặc điểm sinh giới (26)
      • 2.3.3. Đặc điểm xã hội (27)
  • Chương 3 MỤC TIÊU, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (28)
    • 3.1. Mục tiêu nghiên cứu (28)
      • 3.1.1. Mục tiêu chung (28)
      • 3.1.2. Mục tiêu cụ thể (28)
    • 3.2. Địa điểm nghiên cứu (28)
    • 3.3. Thời gian nghiên cứu (28)
    • 3.4. Nội dung nghiên cứu (29)
    • 3.5. Phương pháp nghiên cứu (29)
      • 3.5.1. Công tác chuẩn bị (30)
      • 3.5.2. Công tác ngoại nghiệp (31)
      • 3.5.3. Công tác nội nghiệp (35)
  • Chương 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (37)
    • 4.1. Đa dạng về thành phần loài (37)
      • 4.1.1. Thành phần loài (37)
      • 4.1.2. Đa dạng thành phần loài theo họ (45)
      • 4.1.3. Đa dạng theo loài của các họ bướm ở ba VQG và KBTTN (49)
      • 4.1.4. Mức độ phổ biến của các loài ở 3 VQG và KBTTN (51)
      • 4.1.5. Mức độ giống nhau về thành phần loài giữa 3 khu vực (53)
      • 4.1.6. Loài có ý nghĩa khoa học, kinh tế (54)
    • 4.2. Dẫn liệu về sinh học, sinh thái một số loài bướm (0)
      • 4.2.1. Bướm Phượng Paris - Papilio paris (Linnaeus) (57)
      • 4.2.2. Bướm chai xanh thường - Graphium sarpedon (Linnaeus) (58)
      • 4.2.3. Hải âu vàng viền đen - Appias lyncida (Cramer) (59)
      • 4.2.4. Bướm hổ đốm trắng - Parantica aglea (Stoll) (60)
      • 4.2.5. Bướm "Nữ phù thuỷ" - Hestina nama (Doubleday) (61)
    • 4.3. Thực trạng và giải pháp bảo tồn (62)
      • 4.3.1. Thực trạng bảo tồn (62)
      • 4.3.2. Giải pháp bảo tồn (67)
  • PHỤ LỤC (84)

Nội dung

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm xác định thành phần, mức độ phong phú của các loài bướm tại ở các sinh cảnh khác nhau ở ba khu rừng đặc dụng trong thời gian điều tra nhất định. Xác định đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của một số bướm tại ba khu rừng đặc dụng. Mời các bạn cùng tham khảo!

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Tình hình nghiên cứu bướmtrên thế giới

Bướm là loài động vật rất đa dạng, xuất hiện ở hầu hết các hệ sinh thái trên cạn, ngoại trừ vùng cực bắc và những khu vực núi cao trên 5500m Việt Nam nằm trong khu vực Đông Phương, nơi có khoảng 21,4% tổng số loài bướm trên thế giới.

Bướm là đối tượng nghiên cứu quan trọng trong khu vực và trên toàn thế giới Nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố, như Chou (1994) về bướm ở Trung Quốc, Ek – Amnuay (2012) về bướm Thái Lan, và Corbet & Pendlebuty (1992) về bướm ở Malaysia, cũng như D’Abrera (1982) về các loài bướm khác.

1986) về bướm ở vùng Đông Phương - Úc, Osada et al (1999) về bướm ở Lào, Wynter-Blyth (1957) về bướm ở Ấn Độ

Sự đa dạng của côn trùng gia tăng theo kích thước của sinh cảnh và độ phức tạp trong cấu trúc thực vật Cụ thể, các sinh cảnh rừng có cấu trúc nhiều tầng tán và hệ thực vật phong phú sẽ hỗ trợ nhiều loài côn trùng hơn so với các sinh cảnh có cấu trúc ít tầng tán và thực vật đơn giản.

Tính đa dạng về thực vật thay đổi nhiều theo thời gian và không gian

Theo Price (1975), sự đa dạng thực vật gia tăng trong quá trình diễn thế rừng tự nhiên, dẫn đến sự biến đổi cấu trúc của quần xã côn trùng Đồng thời, các loài côn trùng ăn thực vật có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh quá trình diễn thế của quần xã thực vật Ngoài ra, côn trùng cũng thích ứng với sự thay đổi của thực vật bằng cách điều chỉnh chu trình sống và hành vi của chúng trong các giai đoạn khác nhau của diễn thế.

Theo New & Collins (1991) có bốn nguyên nhân gây áp lực làm cho các loài bướm bị đe doạ là: (1) sự phá huỷ và làm thay đổi sinh cảnh (habitat),

(2) ô nhiễm môi trường, (3) các loài ngoại lai (Exotic species), và (4) khai thác thương mại

Các loài bướm phân bố hẹp sống trong rừng rất dễ bị tổn thương và cần được bảo tồn thông qua việc bảo vệ rừng Nghiên cứu của Thomas (1991) về bướm tại Costa Rica cho thấy các loài bướm có phân bố địa lý hạn chế có khả năng thích nghi kém với môi trường bị thay đổi so với các loài có phân bố rộng Sự giới hạn của các loài này ở những sinh cảnh chưa bị thay đổi chỉ ra rằng việc phá rừng có tác động tiêu cực đến sự tồn tại của chúng.

Nghiên cứu năm 1985 chỉ ra rằng sự đa dạng của loài bướm có mối liên hệ chặt chẽ với tỷ lệ che phủ thực vật trên mặt đất Nhiều loài bướm phụ thuộc vào các giai đoạn diễn thế cụ thể của rừng, do đó, chiến lược bảo tồn hiệu quả nhất là bảo vệ đa dạng các sinh cảnh.

Để bảo tồn bướm và các loài động vật, thực vật khác, theo Theo Schappert (2000), cần giải quyết ba vấn đề quan trọng Đầu tiên, cần xác định vị trí và mối quan hệ của chúng với các loài gần gũi Thứ hai, cần hiểu rõ về phân bố địa lý và điều kiện sinh thái, bao gồm yêu cầu và sự ưa thích sinh cảnh của loài Cuối cùng, việc nắm vững thông tin về sinh học của loài là rất cần thiết.

Trên toàn cầu, nhiều nghiên cứu về sinh học và bảo tồn bướm đã được thực hiện, cung cấp thông tin quan trọng về cây chủ, vòng đời, tập tính và phân bố của các loài bướm Đặc biệt, nhiều loài bướm quý hiếm nằm trong danh sách CITES và IUCN cũng đã được nghiên cứu kỹ lưỡng Những tài liệu này đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo tồn và nhân nuôi bướm (Igarashi 2001; Igarashi & Fukuda, 1997-2000; Koiwaya, 1996).

Tình hình nghiên cứu bướm ở Việt Nam

Bướm Việt Nam đã được nghiên cứu từ đầu thế kỷ XX, với công trình đầu tiên là cuốn "Côn trùng Đông Dương" (Dubois & Vitalis, 1919), liệt kê 611 loài bướm, đánh dấu danh mục đầu tiên cho các quốc gia Đông Dương như Việt Nam, Lào và Campuchia Tiếp theo, vào năm 1957, Metaye đã xác định danh sách 454 loài bướm tại Việt Nam.

Kết quả điều tra côn trùng miền Bắc Việt Nam (Viện Bảo vệ Thực vật,

Vào năm 1976, các nhà côn trùng học từ Trung Quốc và Việt Nam đã hợp tác xác định 181 loài bướm thuộc 9 họ khác nhau, chủ yếu tập trung vào việc nhận diện các loài côn trùng gây hại Tiếp đó, từ năm 1960 đến 1970, có một công trình điều tra cơ bản về côn trùng miền Bắc Việt Nam do Mai Phú Qúy và các cộng sự thực hiện.

1981) đã xác định danh lục 161 loài

Từ những năm 90 của thế kỷ XX, nhiều công trình nghiên cứu về bướm đã được thực hiện tại các Vườn Quốc gia và Khu Bảo tồn Thiên nhiên ở Việt Nam Các nhà côn trùng học quốc tế, chủ yếu đến từ Nhật Bản, Liên Bang Nga, và Cộng hòa Séc, đã tiến hành khảo sát bướm tại đây Tại Việt Nam, nghiên cứu và khảo sát bướm tập trung chủ yếu ở Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga và Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật.

Nghiên cứu về bướm đã được thực hiện tại nhiều Vườn Quốc gia ở Việt Nam, bao gồm Ba Bể, Bắc Cạn, Hoàng Liên, Lào Cai, Cúc Phương, Ninh Bình, Tam Đảo, Vĩnh Phúc, Cát Bà, Hải Phòng, Phong Nha-Kẻ Bàng, Quảng Bình và Núi Chúa, Ninh Thuận Các công trình này đã được thực hiện bởi nhiều tác giả, như Đặng Thị Đáp, Hoàng Vũ Trụ, Vũ Văn Liên và các cộng tác viên khác, từ năm 1995 đến 2013, nhằm mục đích tìm hiểu và bảo tồn sự đa dạng sinh học của bướm tại các khu vực này.

Nghiên cứu về bướm tại các Khu Bảo tồn Thiên nhiên ở Việt Nam đã được thực hiện bởi nhiều tác giả, trong đó có Ngọc Linh, Kon Tum (Bùi Xuân Phương, 2005) và Hòn Bà, Khánh Hoà (Vũ Văn Liên, 2005) Những công trình này đóng góp quan trọng vào việc hiểu biết về đa dạng sinh học của bướm trong các khu vực bảo tồn.

Việt Nam đã ghi nhận hơn 1000 loài bướm, trong đó nhiều loài mới được mô tả cho khoa học, đặc biệt là các công trình của Devyatkin (1996, 1997) với nhiều loài thuộc họ Hesperiidae Ngoài ra, các tác giả khác như Devyatkin & Monastyrski (1999), Funahasha (2003), Monastyrskii (2005), Monastyrskii & Devyatkin (2003) và Yokochi (2004) cũng đã đóng góp vào việc mô tả các loài bướm mới.

Nghiên cứu về phân bố bướm theo đai độ cao tại Miền Trung Việt Nam cho thấy sự đa dạng và phong phú của các loài bướm ở các đai cao thấp hơn so với các đai thấp.

Nghiên cứu về bướm ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc xây dựng danh sách loài, trong khi các nghiên cứu về sinh học và sinh thái học vẫn còn hạn chế Spitzer et al (1987) đã chỉ ra rằng ở rừng khô Khánh Hòa, có mối quan hệ chặt chẽ giữa đa dạng thành phần loài bướm và đa dạng các loài thực vật có mạch, cho thấy số loài bướm tỷ lệ thuận với số loài thực vật có mạch trong khu vực này.

Nghiên cứu của Koiwaya et al (2003) đã tập trung vào vòng đời của bốn loài bướm thuộc giống Theclini (Lycaenidae) tại khu vực Phia Oác, Việt Nam Các công trình này do các nhà nghiên cứu nước ngoài thực hiện, góp phần làm phong phú thêm kiến thức về sinh học bướm ở nước ta.

(Cao Bằng) và Sapa (Lào Cai) Đây là những loài chỉ sống trên các vùng núi cao ở Việt Nam

Theo nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm 2006 về quản lý thực vật và động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, Việt Nam có 4 loài bướm là

Teinopalpus aureus, T imperialis, Troides helena ceberus và Zeuxidia masoni thuộc danh mục nhóm II, được phân loại là những loài cần được bảo vệ do số lượng tự nhiên còn ít, có nguy cơ tuyệt chủng và giá trị cao về khoa học, môi trường cũng như kinh tế Việc khai thác và sử dụng nhóm này bị hạn chế nhằm bảo tồn nguồn gen và bảo vệ sự đa dạng sinh học.

Tạ Huy Thịnh và Hoàng Vũ Trụ (2004) đã nghiên cứu sự tương đồng về thành phần loài bướm giữa các Vườn Quốc gia và Khu Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam, xác định rằng yếu tố địa lý - khí hậu và độ cao là những yếu tố quyết định ảnh hưởng đến sự tương đồng này Trong một nghiên cứu tiếp theo (2005b), Tạ Huy Thịnh và cộng sự đã khảo sát côn trùng, bao gồm cả bướm, dọc theo tuyến đường cao tốc Hà Nội-Thái Nguyên, cho thấy chỉ số đa dạng côn trùng ở đây thấp và có xu hướng tăng dần từ Hà Nội đến Thái Nguyên, tuy nhiên, do hệ sinh thái nông nghiệp tại khu vực này, tính đa dạng của côn trùng vẫn ở mức thấp.

Nghiên cứu bướm ở Việt Nam bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, với các công trình chủ yếu tập trung vào việc xây dựng danh lục loài tại các Vườn Quốc gia và Khu bảo tồn Thiên nhiên Những khu vực nổi bật trong nghiên cứu bướm bao gồm Tam Đảo, Cúc Phương, Hoàng Liên, và Cát Tiên.

Nghiên cứu về bướm tại Đắkrông, Bạch Mã và Bà Nà – Núi Chúa

Nghiên cứu về bướm đã được thực hiện qua nhiều công trình, trong đó nổi bật là nghiên cứu của Lê Trọng Sơn và các tác giả khác Những nghiên cứu này tập trung vào các khu vực cụ thể, cung cấp cái nhìn sâu sắc về đa dạng sinh học và vai trò của bướm trong hệ sinh thái.

Kết quả điều tra khu hệ bướm ngày (Lepidoptera, Rhopalocera) tại Vườn Quốc gia Bạch Mã được công bố vào năm 2003 Năm 2004, Lê Trọng Sơn nghiên cứu về đa dạng sinh học của côn trùng Tiếp theo, vào năm 2005, Lê Trọng Sơn và các cộng sự đã công bố kết quả nghiên cứu về đa dạng của họ Nymphalidae (Lepidoptera) tại VQG Bạch Mã.

Bé (2008) về Kết quả nghiên cứu họ Bướm phượng (Papilionidae) ở hành lang Phong Điền – Bạch Mã, Thừa Thiên Huế; Nguyễn Thế Nhã và nnk

Năm 2011, Huỳnh Văn Kéo và Trần Thiên Ân đã tiến hành điều tra và thiết lập danh mục các loài côn trùng tại khu mở rộng Vườn quốc gia Bạch Mã Nghiên cứu về bướm tại đây đã xác định được 256 loài thuộc các họ như Papilionidae, Pieridae, Danaidae, Satyridae, Amathusiidae, Nymphalidae, Lycaenidae và Hesperiidae.

Bà Nà – Núi Chúa: Theo tài liệu thống kê của Trần Khánh Toàn (2004), có 45 loài bướm ngày tại KBTTN Bà Nà – Núi Chúa

Nhìn chung, có khá nhiều công trình nghiên cứu về bướm ở VQG Bạch

Mã Nghiên cứu về bướm ở KBTTN Đắkrông và KBTTN Bà Nà – Núi Chúa chưa có nhiều.

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU

Vườn Quốc gia Bạch Mã

Tọa độ địa lý: 15 o 59'-16 o 16' vĩ độ Bắc, 107 o 37'-107 o 54' kinh độ Đông

 Phía Bắc giáp Công ty lâm nghiệp Phú Lộc

 Phía Nam giáp xã A Ting, Tà Lu huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam

 Phía Đông giáp xã Hòa Bắc huyện Hoà Vang thành phố Đà Nẵng

 Phía Tây giáp thị trấn Khe Tre tỉnh Thừa Thiên Huế

VQG Bạch Mã, nằm trong dãy Trường Sơn Bắc, nổi bật với các đỉnh núi cao trên 1.000m và địa hình hiểm trở với độ dốc bình quân từ 15° đến 25°, nhiều nơi có độ dốc trên 40° Các thung lũng hẹp và dài dưới chân núi cùng với dòng suối trong sạch tạo nên cảnh quan độc đáo, thu hút du khách và cải tạo tiểu khí hậu khu vực Địa hình Bạch Mã phức tạp, bao gồm các ngọn núi cao, được phân chia thành hai kiểu địa hình phụ: núi trung bình và núi thấp, góp phần tạo nên đa dạng sinh học phong phú cho vùng này.

Vườn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, đặc trưng bởi hai hiện tượng chính: gió mùa Đông Bắc mang theo mưa từ tháng 9 đến tháng 4 năm sau, và gió mùa Tây Nam gây ra tình trạng khô hạn từ tháng 5 đến tháng 9.

Theo số liệu từ các trạm khí tượng thủy văn, khí hậu tại Vườn Quốc gia Bạch Mã có những đặc trưng nổi bật Khu vực này thường xuyên trải qua các biến đổi khí hậu đa dạng, với nhiệt độ và lượng mưa thay đổi theo mùa Những yếu tố này góp phần tạo nên hệ sinh thái phong phú và đa dạng tại VQG Bạch Mã.

Nhiệt độ bình quân năm tại vùng Bạch Mã dao động từ 19 o C ở đỉnh Bạch Mã (độ cao >1.200m), 24 o C ở Nam Đông, đến 25 o C ở chân Vườn Chế độ nhiệt ở đây thay đổi theo tháng, độ cao và khu vực, với nhiệt độ giảm dần khi lên cao; cụ thể, từ độ cao >1.000m, mỗi 100m tăng thêm sẽ làm nhiệt độ giảm 10 o C Điều này giải thích cho mức nhiệt độ bình quân thấp hơn tại khu vực đỉnh Bạch Mã.

Mã thấp hơn so với nhiệt độ bình quân toàn vùng và chân vùng Bạch Mã

Mùa mưa và mùa khô không có sự phân biệt rõ rệt, với thời gian mưa chủ yếu diễn ra từ tháng 5 đến tháng 12 Các tháng còn lại cũng có lượng mưa đáng kể, ngoại trừ tháng 3 hàng năm khi lượng mưa dưới 50mm.

Khu vực đỉnh Bạch Mã là nơi có lượng mưa cao nhất tỉnh Thừa Thiên Huế và miền Trung, với số liệu nghiên cứu khí tượng thủy văn từ năm 1998 đến 2000 cho thấy lượng mưa đạt tới 10.758 mm mỗi năm.

Khu vực Bạch Mã có lượng mưa trung bình lớn nhất đạt 8.000 mm/năm, trong khi lượng mưa bình quân toàn vùng là 3.440 mm Độ ẩm tại đỉnh Bạch Mã cao, lên đến 90%, và độ ẩm bình quân toàn vùng là 85% Sự khác biệt về độ ẩm giữa hai đai cao rất rõ rệt; từ độ cao 900m trở lên, sương mù bao phủ gần như quanh năm, tạo ra khí hậu mát mẻ và ôn hòa.

Với nhiệt độ lý tưởng từ 18°C đến 23°C vào mùa hè, Bạch Mã trở thành điểm nghỉ dưỡng hoàn hảo để du khách tránh xa cái nóng oi ả của vùng đồng bằng Điều này đã thu hút người Pháp trong quá khứ khám phá và xây dựng khu vực này, và hiện nay, nhiều doanh nghiệp du lịch trong tỉnh đã đầu tư khôi phục các biệt thự cổ để phục vụ du khách đến tham quan và nghỉ ngơi.

Hệ thống thuỷ văn của khu vực Bạch Mã rất phong phú, đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa nguồn nước cho các con sông lớn như sông Truồi, sông Cuđê và sông Tả Trạch, nguồn đầu của sông Hương Bạch Mã không chỉ là nguồn dự trữ nước thiết yếu cho các xã vùng đệm của Vườn Quốc gia mà còn có một hồ chứa nước với dung tích khoảng 60.000.000m³ được xây dựng trên thượng nguồn sông Truồi, nhằm cung cấp nước cho sản xuất nông lâm nghiệp, cải thiện tiểu khí hậu và giữ ẩm cho cây trồng.

Thảm thực vật đóng vai trò quan trọng như nền tảng và điều kiện sống cho đa dạng động thực vật cả trên cạn và dưới nước Nghiên cứu cho thấy thảm thực vật Bạch Mã có những đặc trưng cấu trúc cơ bản riêng biệt.

Rừng rậm thường xanh nhiệt đới ưa mưa nằm ở độ cao dưới 900m, bao gồm bốn trạng thái chính: rừng giàu, rừng trung bình, rừng nghèo và rừng non phục hồi Các quần xã thực vật tại đây rất đa dạng và phong phú.

Tropical evergreen rainforests, characterized by their preference for moist conditions and broadleaf trees, are home to resilient species such as Parashorea stellata, Scaphium macropodium, Pometia pinnata, Heritiera cochinchinensis, and Hopea siamensis.

Tropical evergreen rainforests, characterized by their broadleaf trees, are significantly impacted by secondary succession, with dominant species including Ormosia dasycarpa, Macaranga denticulate, Cratoxylon formosum, Endospermum chinense, and Mallotus paniculatus.

Secondary evergreen shrubland is characterized by dominant species such as Rhodomyrtus tomentosa, Cratoxylon formosum, Mallotus paniculatus, Eupatorium odoratum, and Mimosa pudica.

+ Trảng cỏ nhiệt đới thứ sinh, ưu thế các loài như: Lau (Saccharum spontaneum), Cỏ tranh (Imperata cylindrical)…

- Kiểu 2: Rừng rậm thường xanh nhiệt đới gió mùa đai núi thấp trên 900m: gồm có 3 quần xã của các trạng thái là rừng nghèo và rừng non phục hồi

Rừng rậm thường xanh nhiệt đới gió mùa, nằm ở độ cao từ 900 đến 1292m, ít bị tác động và có sự hiện diện của nhiều loài cây ưu thế như Tùng Bạch Mã (Dacrydium elatum), Dẻ Cau (Lithocarpus fenestratus), Giổi (Michelia foveolata), Sồi (Quercus thorelii), Thích Bắc bộ (Acer tonkinensis), Gò đồng nách (Gordnia axillaris) và Hồi lá nhỏ (Illicium parviflorum).

Khu bảo tồn thiên nhiên Đắkrông

Nằm ở vị trí từ 16°17'55" đến 16°49'12" vĩ độ Bắc và 106°44'01" đến 107°14'15" kinh độ Đông, khu vực này có vị trí chiến lược quan trọng Phía Bắc giáp các huyện Gio Linh và Cam Lộ, phía Nam giáp tỉnh Thừa Thiên Huế và Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào, phía Đông giáp huyện Triệu Phong và Hải Lăng, còn phía Tây giáp huyện Hướng Hóa Đây là cửa ngõ vào thị xã Đông Hà và Thừa Thiên Huế, đồng thời là khu vực biên giới tiếp giáp với nước Lào, đóng vai trò quan trọng không chỉ cho tỉnh Quảng Trị mà còn cho toàn bộ khu vực Bắc Trung Bộ.

2.2.2 Địa hình địa chất, khí hậu thủy văn, sông ngòi Địa hình Đắkrông cao về phía Đông – Đông Nam thấp về phía Tây - Tây Bắc Cao nhất là đỉnh Kovalađút 1251m, thấp nhất là khu vực bãi bồi Ba Lòng 25m Đồi núi tập trung ở phía Đông Nam của huyện

Đất đai ở Đắkrông rất đa dạng với bảy loại chính, bao gồm đất màu tím trên đá sét và đất nâu vàng trên phù sa cổ, phù hợp cho các loại cây công nghiệp như cà phê, tiêu, và cao su Địa hình đồi chiếm hơn 95% diện tích, cùng với khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp Sông Đắkrông, dài 85 km, bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn, có vai trò quan trọng trong hệ thống thủy văn khu vực, với nhiều con suối lớn như Paây và Ra Ngao Tuy nhiên, do độ dốc cao, sông Đắkrông thường xảy ra lũ lụt lớn vào mùa mưa.

Dân cư Đắkrông bao gồm người Chăm, các dân tộc thiểu số như Vân Kiều, Pa Cô và người Kinh định cư lâu dài, với tổng dân số khoảng 34.160 người vào năm 2005 Mặc dù có thành phần dân tộc đa dạng, cư dân Đắkrông đã hình thành một khối thống nhất, đóng góp quan trọng vào cộng đồng Việt Nam và Quảng Trị Cộng đồng người Ba Hy là cư dân đầu tiên tại đây, sống du canh nhưng phải rời đi do dịch bệnh và thú dữ Sau đó, những người Bru, cùng với Vân Kiều và Pa Cô, đã định cư tại các xã A Túc, A Bung, Tà Rụt ở phía Tây Nam huyện.

Khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà – Núi Chúa

KBTNN Bà Nà – Núi Chúa tọa lạc tại xã Hòa Ninh, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, cách Đà Nẵng khoảng 30 km về phía tây, với độ cao 1.482m so với mực nước biển Núi Bà Nà giáp với Hải Vân ở phía bắc, huyện Hiên ở phía tây, huyện Đại Lộc ở phía nam và xã Hòa Phú huyện Hòa Vang ở phía đông Vị trí này tạo nên Bà Nà như một vùng giao lưu chuyển tiếp giữa miền bắc và miền nam Việt Nam, đặc trưng cho sự đa dạng động thực vật của hai khu vực.

KBTNN Bà Nà – Núi Chúa nằm ở tọa độ 15’55’ đến 26’4’22’’ vĩ độ Bắc và 107’59’ đến 108’6’30’’ kinh độ Đông Khu vực này có địa hình phức tạp với độ dốc cao và hệ thống sông suối đa dạng.

Núi Bà Nà có ba loại đá chính: đá Granit, đá sét biến chất và đá cát kết Các nhóm đất ferarit phát triển trên các loại đá này, bao gồm nhóm đất ferarit núi thấp trên đá Granit, sét biến chất và đá cát kết; nhóm đất ferarit mùn trên núi trung bình với đá Granit và đá cát kết; và nhóm đất ferarit đồi thấp trên đá Granit, đá cát kết và đá biến chất Ở độ cao trên 1000m, đất mùn màu vàng đỏ phát triển trên đá Granit, trong khi đất màu nâu vàng đỏ xuất hiện trên đất sét và đá biến chất.

Bà Nà, với vị trí địa lý và địa hình đặc trưng, tạo ra một vùng khí hậu đa dạng trong khu vực nhiệt đới gió mùa Lượng bức xạ dồi dào cùng với độ cao đã dẫn đến sự phân hóa khí hậu rõ rệt Khi lên cao, nhiệt độ giảm và độ ẩm tăng, hình thành nên vành đai á nhiệt đới ẩm ở phía bắc và vành đai nhiệt đới ẩm ở phía nam trên đỉnh núi.

Nhiệt độ tại khu vực này chịu ảnh hưởng của địa hình, thay đổi theo độ cao và theo từng tháng trong năm Nhiệt độ trung bình dao động từ 14,1°C vào tháng 2 đến 20,8°C vào tháng 5 Trong những ngày có gió mùa đông bắc, nhiệt độ có thể giảm xuống còn 10°C, trong khi ở vùng cao, nhiệt độ có thể hạ xuống tới 7°C.

Lượng mưa tại Bà Nà chịu ảnh hưởng từ địa hình và chế độ gió mùa, với tổng lượng mưa trung bình dao động từ 2500mm đến 5185mm Khu vực này có hai mùa mưa rõ rệt.

Mùa khô tại khu vực này kéo dài từ tháng I đến tháng VII, trong khi mùa mưa diễn ra từ tháng VIII đến tháng XII, với lượng mưa trong mùa mưa chiếm tới 74,5% tổng lượng mưa hàng năm Độ ẩm trung bình hàng năm dao động từ 80% đến 90%, đạt mức cao nhất 99,4% vào tháng XII và thấp nhất 85,2% vào tháng II Nhiệt độ thấp nhất ghi nhận được là 14,4°C vào tháng XII, trong khi nhiệt độ cao nhất đạt 20,8°C vào tháng VI.

Có nhiều con sông, suối chảy qua, lòng sông hẹp có nhiều thác, gềnh Sông Vàng: là hợp lưu của các nhánh sông: Yang, Tam Lang, suối Bà

Nà, những sông này bắt nguồn từ các tỉnh phía Tây Nam của dãy núi Cà Nhông và phía tây bắc của dãy núi Bà Nà

Sông Túy Loan: Bắt nguồn từ các đỉnh phía đông của dãy núi Bà Nà, gặp sông Lô Đông, sông Đỏ rồi đổ ra sông Hàn

Sông Lô Đông: Bắt nguồn từ các đỉnh phía nam của dãy núi Bà Nà

Bà Nà, nằm ở phía tây thành phố Đà Nẵng, là khu vực rừng núi với nhiều đặc điểm nguyên sinh của miền Trung Với vị trí địa lý, địa hình, thổ nhưỡng và khí hậu đa dạng, nơi đây sở hữu sinh giới phong phú và đa dạng.

Thực vật ở Bà Nà rất đa dạng, với 423 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 109 họ và 276 chi Đặc biệt, khu vực này còn có 16 loài thực vật quý hiếm, cho thấy sự phong phú và giá trị sinh học của hệ thực vật nơi đây.

Khu hệ động vật tại Bà Nà rất phong phú và đa dạng, bao gồm 40 loài giun đất theo nghiên cứu của Trần Thái Bái và cộng sự (2003), 45 loài bướm ngày theo Trần Khánh Toàn (2004), và 17 loài mối theo Đinh Thị Phương Anh và cộng sự (2000).

Khu vực Bà Nà chủ yếu là dân tộc Kinh với mật độ dân cư thưa thớt và trình độ văn hóa thấp Nền kinh tế ở đây còn lạc hậu, dẫn đến đời sống khó khăn cho người dân Trước đây, nhiều người đã sống bằng nghề khai thác lâm sản, gây ảnh hưởng tiêu cực đến diện tích rừng cũng như sự đa dạng sinh học của khu vực.

MỤC TIÊU, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu

Xác định thành phần loài bướm và so sánh sự đa dạng loài bướm ở ba khu vực trong một khoảng thời gian điều tra nhất định (tháng 4 và 5)

Nghiên cứu tính đa dạng loài bướm tại ba Vườn Quốc Gia và Khu bảo tồn thiên nhiên nhằm đề xuất giải pháp quản lý, bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên côn trùng, đặc biệt là bướm.

Nghiên cứu này nhằm xác định thành phần và mức độ phong phú của các loài bướm tại các sinh cảnh khác nhau trong ba khu rừng đặc dụng trong một khoảng thời gian điều tra nhất định.

- Xác định đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của một số bướm tại ba khu rừng đặc dụng

Để quản lý và sử dụng hợp lý các loài bướm, cần đề xuất các giải pháp phù hợp với điều kiện của Vườn Quốc Gia và Khu bảo tồn thiên nhiên Việc này không chỉ giúp bảo tồn đa dạng sinh học mà còn nâng cao giá trị du lịch sinh thái Các biện pháp cần được triển khai bao gồm nghiên cứu và theo dõi sự phân bố của các loài bướm, giáo dục cộng đồng về tầm quan trọng của chúng và phát triển các chương trình bảo tồn hiệu quả.

Địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành tại Khu bảo tồn Thiên nhiên (KBTTN) Đắkrông, Vườn Quốc Gia (VQG) Bạch Mã và KBTTN Bà Nà – Núi Chúa

Khu vực điều tra ở các dạng sinh cảnh, các dạng trạng thái rừng điển hình của các Vườn Quốc Gia và Khu Bảo tồn Thiên nhiên.

Thời gian nghiên cứu

Thời gian thực hiện luận văn từ tháng 04/2013 đến 10/2013

Thời gian nghiên cứu và thu thập số liệu ngoài thực địa diễn ra trong 15 ngày, từ 26/4 đến 10/5/2013 Cụ thể, mỗi khu vực điều tra được khảo sát trong 5 ngày: Đắkrông từ 26-30/4, Bạch Mã từ 1-5/5, và Bà Nà – Núi Chúa từ 6-10/5.

Từ giữa tháng 5 đến tháng 7, Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, tọa lạc tại 18 Hoàng Quốc Việt, sẽ tiến hành phân tích và làm tiêu bản mẫu vật Các mẫu vật này sẽ được bảo quản tại Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam.

Thời gian viết luận văn tháng 7-9 năm 2013.

Nội dung nghiên cứu

Với những mục tiêu mà đề tài đặt ra, các nội dung nghiên cứu bao gồm:

1 Xác định thành phần loài bướm ở các khu vực nghiên cứu

2 Đánh giá tính đa dạng sinh học của các loài Bướm trong các khu vực nghiên cứu, so sánh thành phần loài giữa 3 khu vực nghiên cứu:

- Đa dạng theo khu vực;

- Mức độ giống/khác nhau về thành phần loài giữa 3 khu vực

- Ý nghĩa của các loài bướm ở 3 khu rừng đặc dụng:

+ Các loài quý, hiếm có giá trị bảo tồn;

+ Các loài có hình thái đẹp, hấp dẫn có thể phục vụ du lịch;

+ Loài có ý nghĩa chỉ thị môi trường;

+ Các loài có ích, loài gây hại

- Tìm hiểu dẫn liệu sinh học, sinh thái học của một số loài bướm

3 Đề xuất biện pháp quản lý nhằm tăng tính đa dạng của các loài bướm trong khu vực nghiên cứu:

- Các tác động ảnh hưởng đến đa dạng bướm;

- Biện pháp bảo tồn các loài bướm.

Phương pháp nghiên cứu

Dựa theo các phương pháp nghiên cứu của các tác giả: Nguyễn Thế Nhã và nnk (2001), Vũ Văn Liên & Lưu Hoàng Yến (2011) và các tác giả khác

Thu thập các tài liệu có liên quan: Bản đồ địa hình, điều tra sơ thám khu vực nghiên cứu, tài liệu phân loại

Chuẩn bị dụng cụ cần thiết:

Vợt bắt bướm được thiết kế với miệng có đường kính từ 30cm đến 60cm, làm từ vải mềm để dễ dàng bắt bướm Khung vợt được chế tạo từ nhôm chắc chắn, gắn liền với cán dài 1m, có thể là cán gỗ hoặc cán sợi carbon, có khả năng kéo dài từ 6 đến 7m để tăng cường khả năng sử dụng.

Bao giấy giữ mẫu được làm từ giấy can hoặc giấy glassin nhẵn bóng, giúp bảo vệ mẫu vật khỏi rách nát, mất màu và hư hỏng Trên bao mẫu cần ghi rõ ngày tháng điều tra, vị trí thu bắt và các thông tin liên quan Kích thước bao tùy thuộc vào kích thước mẫu vật Để gấp bao giữ mẫu, đầu tiên gấp chéo tờ giấy sao cho hai bên thừa ra bằng nhau, chiều rộng khoảng 2-3cm, sau đó gấp hai đầu giấy vào và cuối cùng gấp hai đầu lại để tạo thành bao Mẫu vật phải được giữ nguyên trạng thái, không xước, không mất lớp phấn và đầy đủ các bộ phận.

- Bàn bướm (bàn bằng gỗ để căng bướm) Ngoài ra, có thể sử dụng tấm xốp để căng mẫu

- Kim cắm mẫu Kim không gỉ, có mũ, có nhiều kích thước khác nhau, số 0 đến số 7, thông thường sử dụng kim số 1-3 để cắm mẫu bướm

- Hộp gỗ, hộp nhựa để bảo quản mẫu

- Kẹp côn trùng, địa bàn, sách nhận dạng các loài bướm

- Máy ảnh, GPS và một số dụng cụ cần thiết khác

Trong khu vực nghiên cứu, chúng tôi đã xác định các dạng sinh cảnh điển hình theo tiêu chuẩn chung Những dạng sinh cảnh này được chọn lựa dựa trên đặc điểm riêng của từng khu vực, bao gồm nhiều loại hình sinh thái khác nhau.

- Đất canh tác nông – lâm nghiệp

3.5.2.1 Xác định các tuyến điều tra

Các loài trong bộ Cánh vẩy có miệng hút, chủ yếu ăn mật hoa và các chất khoáng, thường tập trung ở những khu vực như ven suối, ven đường, cây bụi nhiều hoa, cây hoa màu và cây ăn quả Một số loài chỉ sống trong thảm thực vật rừng, vì vậy chúng tôi đã thực hiện điều tra theo phương pháp điều tra tuyến.

- Cách lập tuyến điều tra

Chúng tôi xác định tuyến điều tra dựa trên địa hình và kiểu thảm thực vật của khu vực nghiên cứu, đảm bảo các tuyến điều tra đáp ứng đầy đủ các tiêu chí cần thiết.

+ Tuyến điều tra phải đi qua các dạng sinh cảnh chính trong khu vực nghiên cứu;

+ Đảm bảo tính đại diện;

+ Thuận lợi cho việc điều tra và thu bắt mẫu

Các sinh cảnh điều tra nghiên cứu bướm trong các khu vực như sau: + Khu bảo tồn thiên nhiên Đắkrông:

Tuyến 1: Khu vực xung quanh trụ sở Khu bảo tồn, độ cao 500m bao gồm, rừng thứ sinh , cây bụi, trảng cỏ, bãi trống ven rừng

Tuyến 2: Dọc đường hai bên là rừng thứ sinh, rừng tự nhiên, bãi trống trong rừng trồng có các khu vực canh tác nông nghiệp như sắn, lúa Các điểm nghiên cứu chính có tọa độ địa lý là khu vực thôn La Tó, Húc Nghi, Đắkrông ở độ cao 900-1000m có tọa độ địa lý là N 16.49770’, E 107.00285’; N 16.48331’, E 107.01114’

Tuyến 3: Tuyến ven suối, rừng tự nhiên, rừng thứ sinh gần với tuyến 2, độ cao 900m

Tuyến 4: Khu vực cây bụi, rừng thứ sinh ven suối, xen lẫn cây trồng nông – lâm nghiệp như sắn, lúa dọc đường mòn và ven suối, độ cao 600- 800m, tuyến xuất phát từ gần đường mòn Hồ Chí Minh vào sâu trong rừng, tọa độ địa lý N 16.62375’, E 106.864790’; N 16.61910’, E 106.87888’ Sinh cảnh rất phong ph, úthảm thực vật bao gồm cây bụi, cây gỗ nhỏ, đôi khi xen lẫn cây bụi, bãi trồng sắn một năm (chiều cao cây 1-2m), lúa sắp đến mùa thu hoạch, bờ cỏ với các vũng nước nhỏ, đường mòn dưới tán rừng với tán cây cao 4-5 m, suối rộng 5-6m, nhiều đá sỏi, nước suối ít (mùa khô) tán rừng che phủ khoảng ẵ suối Độ cao 800-900m Độ cao khu vực nghiên cứu ở Đắkrông từ 500-1000m

+ Vườn Quốc gia Bạch Mã:

Tuyến 1: Từ Biệt thự Đỗ Quyên theo đường ô tô, xuống thác Đỗ quyên, tọa độ địa lý N 16.18630’, E 107.84880, lên khu vực Biệt thự Đỗ quyên, độ cao 1200 – 1100-1200m Rừng tự nhiên, rừng thứ sinh, ven suối

Tuyến 2: Dọc đường ô tô từ Biệt thự Đỗ quyên tới cuối đường ô tô khách sạn Morin, tọa độ địa lý N 16.19603’, E 107.86255 (1200-1400m)

Tuyến 3: Từ điểm cuối đường ô tô khách sạn Morin lên đỉnh Bạch Mã, tọa độ tọa độ địa lý N 16.19952’, E 107.85760 (1400-1450m) Rừng tự nhiên, cây bụi dọc hai bên đường và trên đỉnh Bạch Mã

Tuyến 4: Từ đường ô tô vào thác Trĩ Sao, tọa độ địa lý N 16.22933’, E 107.84875, độ cao 300-500m Rừng tự nhiên, rừng thứ sinh dọc đường mòn trong rừng và ven suối

Tuyến 5: khu vực trụ sở Vườn và khu du lịch gần Vườn độ cao 100- 300m Rừng thứ sinh, tái sinh, cây gỗ nhỏ, cây bụi, xe lẫn tre trúc, mua, tọa độ địa lý N 16.23538’, E 107.87205

Sinh cảnh nghiên cứu tại khu vực Bạch Mã rất đa dạng, bao gồm cây bụi, khoảng trống trong rừng, ven suối, và rừng tái sinh ở độ cao 100m so với mực nước biển Đặc biệt, rừng nguyên sinh trải dài từ biệt thự Đỗ Quyên ở độ cao 1200m đến đỉnh Bạch Mã cao 1470m, cùng với các tuyến đường mòn và đường nhựa dẫn xuống thác Đỗ Quyên ở độ cao 1100m.

Rừng tự nhiên dọc theo đường mòn xuống thác Trĩ Sao có độ cao từ 350-450m (N 16.29330’; E 107.84785”) và sinh cảnh rừng tự nhiên tại các tuyến đường mòn du lịch núi Bạch Mã Khu vực này còn có sinh cảnh rừng thứ sinh, tái sinh ven suối gần trụ sở Vườn Quốc gia Bạch Mã (N 16.23538’; E 107.87025’) Nghiên cứu tại Bạch Mã được thực hiện ở độ cao từ 100-1450m.

+ Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bà Nà – Núi chúa:

Tuyến 1: Khu vực trung tâm (khách sạn Morin Bà Nà) lên đỉnh Bà Nà, tọa độ địa lý N 15.99764’, E 107.98586 (1400-1487m) Sinh cảnh vườn hoa, cây bụi, khoảng trống hai bên đường, rừng tự nhiên trên đỉnh núi Bà Nà

Tuyến 2: Theo đường mòn gần đỉnh núi Bà Nà (1450m) Rừng tự nhiên, rừng hỗn giao tre nứa

Tuyến 3: Đường mòn rừng tự nhiên khu biệt thự Mimosa, tọa độ địa lý

N 15.99644’, E 107.99473, độ cao 1200 – 1250m Rừng tự nhiên, rừng thứ sinh, cây bụi

Tuyến 4: Dọc đường ô tô từ khách sạn Morin xuống khu vực hầm rượu (1400m – 1300) Rừng tự nhiên và cây bụi hai bên đường, vườn hoa

Tuyến 5: Ven đường ô tô độ cao 500-1200 m Rừng tự nhiên, cây bụi hai bên đường

Tuyến 6: Ven suối khu độ cao 600-700m Rừng tự nhiên và rừng thứ sinh Nói chung khu vực nghiên cứu bao gồm khu vực trên đỉnh núi Bà Nà ở độ cao 1400-1450m, dọc đường nhựa hai bên rừng ở độ cao từ 600-1400m, rừng ven suối ở các độ cao khác nhau từ 600m đến 1350m, khu vực bãi trống, vườn hoa, cây bụi ở độ cao 1400m và 800m Thảm thực vật khu vực nghiên cứu là rừng tự nhiên, rừng thứ sinh, cây bụi, bãi cỏ, vườn hoa Độ cao nghiên cứu ở Bà Nà – Núi Chúa từ 500-1500m

* Một số hình ảnh sinh cảnh nghiên cứu được trình bày ở phụ lục 1

3.5.2.2 Phương pháp điều tra theo tuyến

Để thu thập mẫu vật phục vụ cho việc định loại, chúng tôi sử dụng các phương pháp thông dụng như vợt côn trùng Mẫu vật được thu thập từ nhiều sinh cảnh và độ cao khác nhau tại ba khu vực nghiên cứu.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đa dạng về thành phần loài

Trong quá trình nghiên cứu, đã phát hiện 188 loài bướm thuộc các họ như Papilionidae, Pieridae, Danaidae, Satyridae, Amathusiidae, Riodinidae, Nymphalidae, Lycaenidae và Hesperiidae Thành phần và mức độ phong phú của các loài này được trình bày trong bảng 4.1, cùng với hình ảnh một số loài bướm ở phụ biểu 2.

Trong số 188 loài bướm được ghi nhận tại ba khu vực nghiên cứu, Khu Bảo tồn thiên nhiên Đắkrông dẫn đầu với 138 loài, chiếm 73,40% tổng số loài Vườn Quốc gia Bạch Mã xếp thứ hai với 104 loài, chiếm 55,32%, trong khi Khu Bảo tồn thiên nhiên Bà có số lượng loài ít nhất.

Nà – Núi Chúa (62 loài, chiếm 32,98%)

Bảng 4.1: Thành phần loài và mức độ phong phú của các loài bướm tại 3

37 Dercas verhuelli (van der Hoeven, 1839) ++ ++

Họ bướm mắt rắn Satyridae

153 Heliophorus ila (de Nicéville & Martin, 1896) +

Notocrypta paralysos (Wood Mason & de

Chú thích: +: 1-2 cá thể; ++: 3-5 cá thể; trên 5 cá thể; ô trống không có cá thể nào

Nghiên cứu của chúng tôi tại VQG Bạch Mã đã xác định được 104 loài bướm, trong khi các nghiên cứu trước ghi nhận 256 loài Điều này cho thấy trong thời gian nghiên cứu 5 ngày, số lượng loài bướm ở Bạch Mã có sự thay đổi đáng kể.

Mã được xác định chiếm 41% (104/256) tổng số loài ghi nhận được ở Bạch

Khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà – Núi Chúa đã xác định được 62 loài bướm, tăng so với con số 45 loài trong các nghiên cứu trước đây Tuy nhiên, tại Đắkrông, chưa có tài liệu công bố nào về bướm, do đó không thể thực hiện so sánh.

4.1.2 Đa dạng thành phần loài theo họ

- KBTTN Đắkrông: 9 họ, 99 giống, 138 loài

- VQG Bạch Mã: 9 họ, 69 giống, 104 loài

- KBTTN Bà Nà – Núi chúa: 8 họ, 47 giống, 62 loài

4.1.2.1 Thành phần loài bướm theo họ ở Đắkrông

Thành phần loài bướm theo họ ở Đắkrông được trình bày trong bảng 4.2 và hình 4.1

Bảng 4.2: Thành phần loài theo họ tại KBTTN Đắkrông

Hình 4.1: Thành phần loài bướm theo họ tại KBTTN Đắkrông

Bảng 4.2 và hình 4.1 cho thấy tại KBTTN ĐắKrông có 138 loài bướm thuộc 99 giống, 9 họ Trong đó họ Nymphalidae có số giống và loài cao nhất

Trong nghiên cứu về các loài bướm, họ Nymphalidae chiếm ưu thế với 27 giống và 37 loài, tương ứng với 27,27% số giống và 26,81% số loài Tiếp theo là họ Lycaenidae với 20 giống và 24 loài, chiếm 20,20% số giống và 17,37% số loài Họ Amathusiidae và Riodinidae có số lượng giống và loài thấp nhất, trong đó họ Amathusiidae có 4 giống và 5 loài, chiếm 4,04% số giống và 3,62% số loài, còn họ Riodinidae chỉ có 1 giống và 1 loài, tương ứng với 1,01% số giống và 0,72% số loài.

4.1.2.2 Thành phần loài bướm theo họ ở VQG Bạch Mã

Bảng 4.3 và hình 4.2 cho thấy VQG Bạch Mã có 104 loài bướm thuộc

Trong tổng số 69 giống và 9 họ bướm, họ Nymphalidae dẫn đầu với 18 giống và 27 loài, chiếm lần lượt 26,09% và 25,96% tổng số giống và loài Tiếp theo là họ Pieridae với 12 giống và 16 loài, tương ứng 17,39% và 15,38% Họ Papilionidae có số loài tương đương nhưng ít giống hơn, với 7 giống và 16 loài, chiếm 10,14% về số giống và 15,38% về số loài Cuối cùng, họ Amathusiidae và Riodinidae có số lượng giống và loài thấp nhất, trong đó họ Amathusiidae có 3 giống và 3 loài (4,34% và 2,88%) và họ Riodinidae có 2 giống và 2 loài (2,90% và 1,92%).

Bảng 4.3: Thành phần loài theo họ tại VQG Bạch Mã

Hình 4.2: Thành phần loài theo họ tại VQG Bạch Mã

4.1.2.3 Thành phần loài bướm theo họ ở ở KBTTN Bà Nà – Núi Chúa

Thành phần loài bướm theo họ ở KBTTN Bà Nà – Núi Chúa được trình bày trong bảng 4.4 và hình 4.3

Bảng 4.4: Thành phần loài tại KBTTN Bà Nà-Núi Chúa

Hình 4.3: Thành phần loài bướm theo họ ở KBTTN Bà Nà – Núi Chúa

Qua bảng 4.4 và hình 4.3 ta dễ thấy ở KBTTN Bà Nà - Núi Chúa có

Trong số 62 loài bướm được phân loại thuộc 47 giống và 8 họ, họ Nymphalidae chiếm ưu thế với 12 giống và 13 loài, tương ứng với 25,53% số giống và 20,97% số loài Họ Pieridae đứng thứ hai với 9 giống và 13 loài, chiếm 19,15% số giống và 20,97% số loài Ngược lại, họ Amathusiidae có số lượng giống và loài ít nhất với 3 giống và 3 loài, chiếm 6,38% về số giống và 4,48% về số loài.

Nà Núi Chúa, không ghi nhận thấy loài Riodinidae

4.1.3 Đa dạng theo loài của các họ bướm ở ba VQG và KBTTN Để xem xét tính đa dạng và đặc trưng của khu hệ bướm ở 3 VQG và KBTTN, thành phần loài bướm theo họ ở 3 VQG và KBTTN được trình bày theo hình 4.4

Hình 4.4: Thành phần loài bướm theo họ ở 3 VQG và KBTTN

Theo hình 4.4, họ Nymphalidae chiếm ưu thế về số lượng loài ở các khu vực nghiên cứu, đặc biệt là tại VQG Đắkrông với 37 loài, tiếp theo là VQG Bạch Mã với 27 loài Ngược lại, họ Riodinidae có số lượng loài thấp nhất, chỉ ghi nhận 1 loài tại KBTTN Đắkrông và VQG Bạch Mã.

Trong nghiên cứu tại KBTTN Bà Nà – Núi Chúa, không ghi nhận được số lượng loài của 2 loài đặc biệt trong họ này Các họ Nymphalidae, Lycaenidae, Hesperiidae và Satyridae có sự khác biệt rõ rệt về số lượng loài giữa 3 khu vực, trong khi đó, họ Danaidae và Pieridae không có sự khác nhau nhiều về số loài Đối với họ Papilionidae, số loài giữa Đắkrông và Bạch Mã cũng không có sự khác biệt đáng kể.

Bảng so sánh cho thấy sự đa dạng về số lượng loài thuộc các họ ở KBTTN Đắkrông cao nhất, trong khi KBTTN Bà Nà – Núi Chúa có số lượng thấp hơn mặc dù có diện tích rừng nguyên sinh lớn và sinh cảnh phong phú Thành phần loài bướm tại Bà Nà – Núi Chúa ít phong phú có thể do chưa phải là mùa cao điểm của bướm, với tháng 5 thường là thời điểm bướm phong phú nhất ở miền Bắc và Trung Việt Nam Cần thực hiện nghiên cứu vào các mùa khác trong năm để so sánh mức độ phong phú và đa dạng của loài bướm tại đây Ngược lại, Đắkrông có sự đa dạng bướm cao nhất nhờ vào sinh cảnh đa dạng, đặc biệt là các tuyến điều tra dọc đường mòn rừng thứ sinh với nhiều loại cây khác nhau, thực vật ưa sáng, cây trồng nông - lâm nghiệp, ven suối và cây bụi trảng cỏ, dẫn đến sự phong phú về thành phần loài.

4.1.4 Mức độ phổ biến của các loài ở 3 VQG và KBTTN

Mức độ phổ biến của các loài bướm ở ba khu vực nghiên cứu được thể hiện rõ trong bảng 4.5 và các hình 4.5, 4.6, 4.7, 4.8 Tại KBTTN Bà Nà – Núi Chúa, loài hiếm gặp chiếm tỷ lệ cao nhất với 39/62 loài (62,90%), tiếp theo là loài ít phổ biến (20 loài, 32,26%) và loài phổ biến (3 loài, 4,84%) Ở KBTTN Đắkrông, loài ít phổ biến chiếm 48,55% (67 loài), loài hiếm gặp chiếm 40,58% (56 loài) và loài phổ biến chiếm 10,87% (15 loài) Tại VQG Bạch Mã, loài ít phổ biến chiếm 54,80% (57 loài), loài hiếm gặp chiếm 42,30% (44 loài) và loài phổ biến chỉ chiếm 2,88% (3 loài).

Bảng 4.5: Mức độ phổ biến của các loài ở 3 VQG và KBTTN

Mức độ phổ biến Đắkrông Bạch Mã Bà Nà – Núi Chúa

Hiếm gặp (1-2 cá thể) 56 44 39 Ít phổ biến (3-5 cá thể) 67 57 20

Phổ biến (trên 5 cá thể) 15 3 3

Hình 4.5: Mức độ phổ biến của các loài ở KBTTN Đắkrông

Hình 4.6: Mức độ phổ biến của các loài ở VQG Bạch Mã

Hình 4.7: Mức độ phổ biến của các loài ở KBTTN Bà Nà - Núi Chúa

Hình 4.8: Tỷ lệ về mức độ phổ biến (%) theo thành phần loài bắt gặp ở 3 khu vực

4.1.5 Mức độ giống nhau về thành phần loài giữa 3 khu vực

Mức độ giống nhau về thành phần loài bướm giữa 3 khu vực nghiên cứu được trình bày trong bảng 4.6

Bảng 4.6: Chỉ số tương đồng (%) về thành phần loài bướm giữa 3 khu vực

Khu vực Đắkrông Bạch Mã

Bảng 4.6 cho thấy thành phần loài giống nhau nhất là giữa VQG Bạch

Mã và KBTTN Đắkrông (57,02%), thấp nhất là giữa KBTTN Bà Nà – Núi Chúa và Đắkrông (39%) Thành phần loài bướm của Bạch Mã và Bà Nà – Núi Chúa khá cao (51,8%)

Bạch Mã và Đắkrông, nằm gần nhau ở miền Trung, đều có khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh Ngược lại, Bà Nà – Núi Chúa lại tách biệt với Bạch Mã, tạo nên sự khác biệt trong điều kiện khí hậu giữa các khu vực này.

Mã và Đắkrông có khí hậu nóng, không chịu ảnh hưởng của khí hậu lạnh vào mùa đông miền Bắc, dẫn đến sự khác biệt rõ rệt trong thành phần loài bướm giữa hai khu vực này.

Mặc dù Đắkrông và Bà Nà – Núi Chúa cách xa nhau về địa lý và có sự khác biệt về khí hậu so với Bạch Mã, thành phần loài bướm giữa Bà Nà – Núi Chúa và Bạch Mã vẫn khá phong phú Sự gần gũi về địa lý giữa Bà Nà và Bạch Mã là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tương đồng về thành phần loài bướm Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng yếu tố địa lý và khí hậu đóng vai trò quyết định trong việc hình thành sự giống và khác nhau của các loài bướm giữa các khu vực (Vũ Văn Liên, 2013; Vũ Văn Liên & Trần Thị Thanh Bình, 2013; Vũ Văn Liên & Tạ Huy Thịnh, 2005).

Dẫn liệu về sinh học, sinh thái một số loài bướm

Dựa trên nghiên cứu thực địa và tài liệu của Đặng Thị Đáp cùng một số nguồn khác, bài viết đã tổng hợp thông tin về sinh học và sinh thái học của một số loài bướm.

4.2.1 Bướm Phượng Paris - Papilio paris (Linnaeus)

Tên khác: Bướm Phượng xanh Paris thường

Tên tiếng Anh: The Tamil Peacock

Loài này về hình dáng rất giống với các loài P bianor, P arcturus

Loài bướm Phượng P paris nổi bật với màu đen và đốm xanh lục lớn trên cánh sau, tạo nên vẻ lấp lánh khi bay Quan sát kỹ, ta sẽ thấy các vảy nhỏ màu xanh lục xen kẽ giữa vảy đen, mang lại vẻ đẹp như nhung Mặt dưới cánh sau có dãy đốm đỏ tía hình trăng khuyết, với hai đốm cuối gần bụng biến thành vòng tròn đỏ có nhân đen Đây là một trong những loài bướm có đuôi đẹp nhất tại Việt Nam, với cả bướm đực và cái đều có mảng màu xanh lục lớn trên cánh sau Điểm nhận diện dễ nhất của loài này là đốm màu xanh ngọc to, tròn và không chạy sát mép ngoài cánh Sải cánh của chúng dao động từ 120-140mm ở Thái Lan và 100-130mm ở Vân Nam.

Bướm sinh sống chủ yếu trong rừng hoặc gần rừng, thường đẻ trứng trên cây Ba gạc (Euodia sp.) và họ Cam chanh (Rutaceae) Mặc dù bay rất nhanh, bướm có thể dễ dàng được tìm thấy ở các bờ cát gần suối và sông Bướm đực thường xuất hiện ở các thảm thực vật thứ sinh, trong khi bướm cái chủ yếu sống trong rừng Chúng bị thu hút bởi phân thải của chim và thú, và vào mùa xuân, cả bướm đực lẫn bướm cái thường tụ tập cùng với các loài bướm khác trên những cây thuộc họ chi Bướm bạc, Long não và các loại hoa khác.

Loài bướm này phân bố rộng rãi từ Đông Bắc Ấn Độ qua Trung Quốc đến Đài Loan và Nam Nhật Bản, kéo dài về phía Nam qua vùng Đông Dương đến quần đảo San-đa Tại Việt Nam, loài này rất phổ biến, tuy nhiên, số lượng bướm cái lại ít hơn so với bướm đực.

+ Giá trị, tình trạng và biện pháp bảo vệ:

P paris là khá loài phổ biến trong nhóm bướm Phượng, có đốm màu xanh ở cánh sau Một số loài khác cũng rất giống loài này như P arcturus, P polytor, loài P memnon, P dialis, P bianor Loài đẹp có giá trị thẩm mỹ cao, có thể nuôi

4.2.2 Bướm chai xanh thường - Graphium sarpedon (Linnaeus)

+ Tên khác: Bướm Phượng đuôi cụt vạch xanh, Bướm chai xanh

+ Tên tiếng Anh: The Common Bluebottle

Bướm có một dải hẹp màu xanh lá cây nhạt ở cả hai cánh tạo thành hình tam giác, với gân màu đen ở mặt trên của bướm cái Bướm đực có 4 đốm màu xanh hình trăng khuyết ở mép ngoài cánh sau và 5 đốm đỏ lớn ở mặt dưới cánh sau Bướm cái thường lớn hơn và có cánh rộng hơn, với sải cánh từ 80-90mm Loài bướm này rất phổ biến ở mọi độ cao trong rừng, thường gặp nhiều ven suối và vũng nước Sâu non của giống Graphium ăn lá cây thuộc họ Na, với sâu lớn có màu xanh và nhộng nguỵ trang dạng lá cây Chúng thường xuất hiện trong vườn và công viên, dinh dưỡng từ hoa và có thể gặp cùng các loài bướm khác Các loài cây vật chủ cho sâu non bao gồm họ Long não, Màng Tang, và Bơ.

Toàn vùng Đông Nam châu Á đến Ôx-trây-li-a và quần đảo Sa - lô - môn Đây là loài phổ biến khắp nơi ở Việt Nam

+ Giá trị, tình trạng và biện pháp bảo vệ:

Bướm là loài thường gặp và đẹp mắt, thường bị bắt để làm bộ sưu tập Việc bảo vệ chúng là cần thiết, vì chúng là sinh vật hiền lành, góp phần làm đẹp cho thiên nhiên và không gây hại cho cây trồng Do đó, việc nhân nuôi bướm trong trang trại là một giải pháp hợp lý.

4.2.3 Hải âu vàng viền đen - Appias lyncida (Cramer)

+Tên khác: Bướm nâu lớn

+ Tên tiếng Anh: The Chocolate Albatross

Con đực của loài này có màu trắng ở mặt trên với viền đen hoặc nâu sô cô la, cùng với những nét trang trí màu vàng chanh sáng và nâu sô cô la Con cái có màu trắng xen kẽ với nhiều đám màu nâu tối và thể hiện tính lưỡng hình theo mùa Trong mùa mưa, con đực có màu trắng ở phía trên với viền và gờ ngoài màu xanh nhạt hình răng cưa trên cánh trước, cánh sau có viền răng cưa màu xanh nhạt ở mép ngoài Mặt dưới cánh có màu vàng sáng với mép viền ngoài màu sô cô la tối, dễ nhận biết nhờ màu sắc đặc trưng và hình dạng cánh trước Con cái hiếm gặp, thường có cánh màu đen và tối hơn Sải cánh của loài này dao động từ 55 đến 70mm.

Bướm ưa rừng là loài sống ở những vùng đất mưa cao đến 3000 feet, thường xuất hiện ở các khu rừng nhiệt đới và dọc theo bờ suối Chúng bay nhanh và thường dừng lại trên mặt đất, với con đực thường xuyên bay quanh các bụi rậm hoặc cây cối Loài bướm này thường tụ họp với những loài khác, đôi khi bay thành đàn lớn và ghé thăm các bông hoa như hoa cỏ roi ngựa Chúng cũng phổ biến trong khu vực thành thị và đẻ trứng trên cây bún (Crataeva religiosa) cùng với các loài cây thuộc họ Cáp như Cáp gai nhỏ (Capparis micrantha) và Capparis roxburghii.

Sâu non của họ Capparaceae có màu xanh hơi nâu, chuyển sang màu xanh ở giai đoạn cuối và mang hình dạng đặc trưng của sâu thuộc họ Pieridae Loài này thường xuất hiện ở rừng phục hồi thứ sinh, với nhiều bướm đực tập trung thành đàn tại các khu đất ẩm ven đường và bờ suối Ngược lại, bướm cái hiếm gặp hơn và thường phân bố hạn chế trong rừng Mặc dù chủ yếu phổ biến ở vùng đất thấp, loài này cũng có thể xuất hiện ở nhiều độ cao khác nhau.

Nam và Đông Nam Á: Ấn Độ, Xri Lanka, Mianma, Đài Loan, Hải Nam và Nam Trung Quốc, Malaixia, Indonexia, Philippin, Thái Lan, Đông Dương Phân bố rộng ở Việt Nam

+ Giá trị, tình trạng và biện pháp bảo vệ:

Bướm là loài phổ biến nhất và có số lượng lớn nhất trong tất cả các loại bướm, đóng vai trò quan trọng trong việc thụ phấn cho cây cối và cỏ dại, đồng thời góp phần vào nghiên cứu phân loại học và bảo tồn đa dạng sinh học.

4.2.4 Bướm hổ đốm trắng - Parantica aglea (Stoll)

+ Tên khác: Bướm Đốm trắng lớn thường

+ Tên tiếng Anh: The Glassy Tiger

Bướm thuộc giống Parantica dễ nhận diện với cánh màu đen nền và các đốm trắng sáng Đặc điểm nổi bật là mép đỉnh cánh trước lượn ngoặt vào phía đĩa cánh tại đoạn 2/5 đường mép ngoài Các loài trong họ bướm Đốm có sự tương đồng, nhưng Parantica nổi bật với các vạch rộng ở gốc cánh, để lại các đường đen mảnh Bướm cái và bướm đực có ngoại hình tương tự Loài P aspasia có kiểu đốm giống P aglea nhưng dễ phân biệt nhờ các đốm vàng ở cánh sau và vạch dưới ô cánh trước, cùng kích thước nhỏ hơn Sải cánh của chúng dao động từ 75-90mm.

Sinh học sinh thái của loài bướm trong họ Danaidae cho thấy chúng thường sống cùng với các loài khác trong cùng sinh cảnh Chúng ưa thích những thảm rừng thứ sinh có bóng râm, thường xuất hiện trong rừng hoặc những khu vực trống trải ở nhiều độ cao khác nhau Bướm bay yếu và chậm, thường thấy bay đơn lẻ Cây thức ăn chủ yếu của chúng là Đầu dài xoan thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae).

+ Phân bố: Đông Nam Châu Á, Đài Loan, các đảo An-đa-man và Ni-cô-ba-rơ Loài này rất phổ biến, gặp mọi nơi ở Việt Nam

+ Giá trị, tình trạng và biện pháp bảo vệ:

Bướm là loài phổ biến với màu sắc nền nã và bay chậm, dễ quan sát và thu bắt Mặc dù chúng không thu hút con người như các loài bướm đẹp khác, nhưng số lượng cá thể của chúng vẫn phong phú.

4.2.5 Bướm "Nữ phù thuỷ" - Hestina nama (Doubleday)

+Tên tiếng Anh: The Circe

Giống bướm này thuộc họ Bướm Đốm, bao gồm các loài mạo danh Dananus melaneus Chúng có màu xám xanh với các gân tối, mặt trên có màu đen với hoa văn trắng xanh nhạt tương tự Danaus melaneus, và đỉnh cánh trước cùng cánh sau được nhuộm đỏ Mặt dưới trang trí giống như mặt trên nhưng có đỉnh cánh màu vàng nâu Sải cánh của chúng dao động từ 95-100mm.

+ Sinh học sinh thái: Đặc điểm chung: Sống ở độ cao 600-1000m, cây thức ăn: Celtis sinensis

+ Phân bố: Bắc Ấn Độ, Mianma, Bắc Thái Lan, Việt Nam

+ Giá trị, tình trạng và biện pháp bảo vệ: Loài có phổ phân bố hẹp và ít gặp.

Thực trạng và giải pháp bảo tồn

Qua quá trình điều tra và phỏng vấn người dân cũng như ban quản lý các VQG và KBTNN, chúng tôi đã rút ra những kết luận quan trọng về công tác quản lý bảo tồn tại ba khu vực.

Công tác bảo tồn tại khu vực này đang được thực hiện hiệu quả nhờ vào sự phối hợp chặt chẽ của đội ngũ kiểm lâm, với hệ thống kiểm tra và bảo vệ nghiêm ngặt Hệ thống phòng trưng bày và công tác tuyên truyền về du lịch cũng đã đạt yêu cầu, giúp nâng cao nhận thức của người dân và du khách Việc di dời người dân ra khỏi vùng lõi của VQG đã nâng cao khả năng quản lý, tuy nhiên, sự xuất hiện của các khu nghỉ dưỡng và lượng khách du lịch tăng cao đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường do ý thức kém trong việc giữ gìn vệ sinh Điều này đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến sinh cảnh và môi trường sống của động vật, đặc biệt là các loài bướm, cho thấy rằng bên cạnh yếu tố bảo tồn, còn tồn tại áp lực từ hoạt động kinh doanh và khai thác tài nguyên tự nhiên.

2) Tại KBTTN Đắkrông và KBTTN Bà Nà – Núi Chúa:

Công tác quản lý và bảo tồn tại khu vực này chưa hiệu quả do mật độ kiểm lâm địa bàn tại các trạm quá thấp so với diện tích quản lý Hệ quả là tình trạng buôn bán sản phẩm từ bướm và cây rừng diễn ra phổ biến, gây ô nhiễm nguồn nước và ảnh hưởng đến môi trường sống của bướm Ngoài ra, nạn đốt nương làm rẫy cũng được phát hiện ở nhiều khu vực rừng tự nhiên tại KBTTN Đắkrông Đặc biệt, việc xây dựng các công trình du lịch tại KBTTN Bà Nà – Núi Chúa đã và đang gây tác động tiêu cực đến công tác bảo tồn và bảo vệ sinh cảnh sống của các loài bướm.

Hiện nay, sản phẩm từ động thực vật rừng, đặc biệt là nguồn tài nguyên bướm, đã trở thành hàng hóa, dẫn đến tình trạng săn bắt gia tăng Sự mở cửa thương mại với các quốc gia khác càng làm tình hình này trở nên phức tạp và nghiêm trọng hơn.

4.3.1.1 Nguyên nhân gây suy thoái tính đa dạng và các giá trị của côn trùng trong bảo tồn đa dạng sinh học

4.3.1.2 Nguyên nhân gây mất tính đa dạng sinh học nói chung

Sự suy thoái đa dạng sinh học chủ yếu xuất phát từ hai nguyên nhân chính: các hiểm họa tự nhiên và hoạt động của con người Những tác động từ con người thường dẫn đến sự suy giảm, thoái hóa và hủy hoại cảnh quan trên diện rộng, đặc biệt là do khai thác quá mức các loài để phục vụ nhu cầu tiêu dùng.

Phá hủy nơi sống, đặc biệt là rừng nguyên sinh và rừng nhiệt đới, đang trở thành một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học Mất nơi cư trú được xem là nguyên nhân chính khiến nhiều loài đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, trong đó phần lớn là các loài sống trong rừng Nạn phá rừng diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng ở khắp nơi, góp phần làm suy giảm nghiêm trọng môi trường sống tự nhiên.

* Các sinh cảnh bị chia cắt và bị cách ly

Sự phân cách các sinh cảnh không chỉ đe dọa đến các hoạt động của con người mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính đa dạng sinh học Khi các sinh cảnh bị chia nhỏ, các loài cũng bị tách rời và cách ly với các nhóm cá thể khác, dẫn đến việc hình thành những quần thể có số lượng sinh vật quá nhỏ Hiện tượng này tạo ra các mô hình sinh hoạt giống như đảo, khiến cho các mảng sinh cảnh tách biệt trở thành những hòn đảo giữa biển, gia tăng nguy cơ tuyệt chủng cho các loài do ức chế sinh sản và tác động bìa.

Việc con người xâm lấn và chia cắt các sinh cảnh tự nhiên đã làm gia tăng nguy cơ tiếp xúc giữa các loài hoang dã và mầm bệnh mới, trong khi các loài này thường có khả năng miễn dịch rất thấp.

Ô nhiễm môi trường sống đang đe dọa sự suy thoái đa dạng sinh học, với các nguyên nhân chính bao gồm việc sử dụng thuốc trừ sâu, khí thải từ nhà máy và ô tô, cùng với các trầm tích lắng đọng từ sự xói mòn đất ở các vùng cao.

Thuốc trừ sâu, được khuyến cáo từ năm 1962, là một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường Việc sử dụng thuốc trừ sâu để tiêu diệt côn trùng gây hại cho cây trồng không chỉ làm tổn hại đến các quần thể sinh vật khác mà còn dẫn đến sự gia tăng nồng độ thuốc theo thời gian do hiện tượng nhờn hóa chất Hậu quả là, thuốc trừ sâu không chỉ giết hại các sinh vật có ích mà còn gây ô nhiễm không khí và các yếu tố môi trường sống của con người.

Ô nhiễm không khí do phát triển công nghiệp là một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm bầu khí quyển, thải ra các hóa chất độc hại vào không khí Hiện tượng này dẫn đến mưa axit, gây hại nghiêm trọng cho hệ sinh thái, tiêu diệt nhiều loài động vật và thực vật.

Khai thác quá mức là nguyên nhân đứng thứ hai trong sự suy thoái đa dạng sinh học, chỉ sau sự phá hủy nơi sống Để đáp ứng nhu cầu cuộc sống, con người thường xuyên khai thác tài nguyên một cách kiệt quệ Hậu quả của việc này ước tính đã đẩy 1/3 số loài động vật có xương sống vào nguy cơ tuyệt chủng Đặc biệt, trong những năm gần đây, khi thị trường thương mại mở rộng, nhu cầu của con người ngày càng tăng cao.

4.3.1.3 Giá trị bảo tồn đa dạng sinh học

Đa dạng sinh học mang lại giá trị sử dụng quan trọng, chủ yếu từ góc độ kinh tế, thông qua các sản phẩm mà con người sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp.

Đa dạng sinh học đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, tăng cường khả năng sản xuất của hệ sinh thái và duy trì tài nguyên đất, nước Sự đa dạng này giúp điều hòa khí hậu và tạo ra sự cân bằng sinh thái thông qua các mối quan hệ tương tác giữa các loài.

Đa dạng sinh học mang giá trị đạo đức quan trọng, khi mỗi loài đều có quyền tồn tại riêng Chúng ta cần tôn trọng sự sống của tất cả các loài và nhận thức rằng sự cùng tồn tại không chỉ dựa vào giá trị sử dụng của chúng.

Ngày đăng: 19/07/2021, 09:04

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đặng Ngọc Anh, Vũ Văn Liên (2005), Sự đa dạng của các loài bướm (Rhopalocera) và quan hệ của chúng với cây rừng ở Vườn Quốc gia Cát Bà. Hội nghị côn trùng học toàn quốc lần thứ 5, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 15-18 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội nghị côn trùng học toàn quốc lần thứ 5
Tác giả: Đặng Ngọc Anh, Vũ Văn Liên
Nhà XB: Nxb Nông nghiệp
Năm: 2005
2. Đinh Thị Phương Anh, Phạm Thị Hồng Hà, Nguyễn Thị Đào (2000), Nghiên cứu tài nguyên sinh vật rừng, đề xuất phương hướng bảo tồn và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên sinh vật ở xã Hòa Ninh, Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, Đề tài cấp bộ, mã số: B99.16.16 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tài nguyên sinh vật rừng, đề xuất phương hướng bảo tồn và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên sinh vật ở xã Hòa Ninh, Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Tác giả: Đinh Thị Phương Anh, Phạm Thị Hồng Hà, Nguyễn Thị Đào
Năm: 2000
3. Trần Thái Bái, Phạm Thị Hồng Hà, Thịnh Tuấn Anh (2003), dẫn liệu bước đầu về giun đất ở KBTTN Bà Nà – Núi Chúa, Đà Nẵng. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống, Hội nghị toàn quốc lần thứ 2, tr. 17-20 Sách, tạp chí
Tiêu đề: dẫn liệu bước đầu về giun đất ở KBTTN Bà Nà – Núi Chúa, Đà Nẵng
Tác giả: Trần Thái Bái, Phạm Thị Hồng Hà, Thịnh Tuấn Anh
Năm: 2003
5. Đặng Thị Đáp, Hoàng Vũ Trụ (2003), Kết quả nghiên cứu nhóm bướm ngày (Lepidoptera: Rhpalocera) ở Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò và VQG Ba Bể. Báo cáo khoa học hội nghị toàn quốc lần thứ hai, nghiên cứu cơ bản trong sinh học, nông nghiệp, Y học. Huế ngày 25- 26/7/2003, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, Tr, 73-74 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo khoa học hội nghị toàn quốc lần thứ hai, nghiên cứu cơ bản trong sinh học, nông nghiệp, Y học
Tác giả: Đặng Thị Đáp, Hoàng Vũ Trụ
Nhà XB: Nxb Khoa học và Kỹ thuật
Năm: 2003
7. Đặng Thị Đáp, Vũ Văn Liên, Đặng Thị Hường, Nguyễn Thế Hoàng (2011), Các loài bướm ở Vườn Quốc gia Tam Đảo, Nxb Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các loài bướm ở Vườn Quốc gia Tam Đảo
Tác giả: Đặng Thị Đáp, Vũ Văn Liên, Đặng Thị Hường, Nguyễn Thế Hoàng
Nhà XB: Nxb Hồng Đức
Năm: 2011
8. Đặng Thị Đáp (1997), Kết quả nghiên cứu đặc tính đa dạng các loài côn trùng vùng núi đá vôi Phong Nha – Kẻ Bàng, Quảng Bình. Báo cáo thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản 2 năm 1996 – 1997, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 31-33 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản 2 năm 1996 – 1997
Tác giả: Đặng Thị Đáp
Nhà XB: Nxb Khoa học và Kỹ thuật
Năm: 1997
9. Lương Văn Hào, Đặng thị Đáp, Trương Quang Bích, Đỗ Văn Lập (2004), Danh lục minh họa các loài bướm VQG Cúc Phương. Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Danh lục minh họa các loài bướm VQG Cúc Phương
Tác giả: Lương Văn Hào, Đặng thị Đáp, Trương Quang Bích, Đỗ Văn Lập
Nhà XB: Nxb Nông Nghiệp
Năm: 2004
10. Huỳnh Văn Kéo, Trần Thiện Ân (2011), Kiểm kê danh lục động – thực vật Vườn quốc gia Bạch Mã: Phần côn trùng, Nxb Thuận Hóa, Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiểm kê danh lục động – thực vật Vườn quốc gia Bạch Mã: Phần côn trùng
Tác giả: Huỳnh Văn Kéo, Trần Thiện Ân
Nhà XB: Nxb Thuận Hóa
Năm: 2011
11. Phạm Văn Lầm (2005), Kết quả xác định tên khoa học cho mẫu bướm ngày thu được tại VQG Tam Đảo năm 2001-2002. Báo cáo khoa học về sinh thái và tài nguyên sinh vật, hội thảo quốc gia lần thứ nhất. Hà Nội 17/5/2005, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr. 122-125 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo khoa học về sinh thái và tài nguyên sinh vật, hội thảo quốc gia lần thứ nhất
Tác giả: Phạm Văn Lầm
Nhà XB: Nxb Nông Nghiệp
Năm: 2005
13. Vũ Văn Liên (2003), Thành phần loài bướm ngày (Lepidoptera, Rhopalocera) trên các đỉnh núi cao của Khu bảo tồn Thiên nhiên Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai. Tạp chí Sinh học, số 25(1), tr. 25-29 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Sinh học, số 25(1)
Tác giả: Vũ Văn Liên
Năm: 2003
14. Vũ Văn Liên (2005), Thành phần và độ phong phú bướm (Lepidoptera, Rhopalocera) rừng Hòn Bà, Khánh Hòa. Hội thảo Quốc gia về Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật lần thứ nhất, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 360-366 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội thảo Quốc gia về Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật lần thứ nhất
Tác giả: Vũ Văn Liên
Nhà XB: Nxb Nông nghiệp
Năm: 2005
15. Vũ Văn Liên (2013), Thành phần loài bướm lớn ở ba khu vực Tam Đảo, Cúc Phương và Hoàng Liên. Hội nghị toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội nghị toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
Tác giả: Vũ Văn Liên
Nhà XB: Nxb Nông nghiệp
Năm: 2013
16. Vũ Văn Liên, Đặng Thị Đáp (2002), Thành phần, sự ưa thích về nơi sống và độ phong phú của bướm ngày (Lepidoptera, Rhopalocera) ở Vườn Quốc gia Cúc Phương. Hội nghị côn trùng học toàn quốc lần thứ 4, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 278-285 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội nghị côn trùng học toàn quốc lần thứ 4
Tác giả: Vũ Văn Liên, Đặng Thị Đáp
Nhà XB: Nxb Nông nghiệp
Năm: 2002
17. Vũ Văn Liên, Lưu Hoàng Yến (2011), Phương pháp làm sưu tầm, làm tiêu bản và bảo quản côn trùng cánh vẩy (Insecta: Lepidoptera). Báo cáo khoa học Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất Hệ thống Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Nxb Khoa học và Công nghệ, Hà Nội, tr. 35-41 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo khoa học Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất Hệ thống Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam
Tác giả: Vũ Văn Liên, Lưu Hoàng Yến
Nhà XB: Nxb Khoa học và Công nghệ
Năm: 2011
18. Vũ Văn Liên,Tạ Huy Thịnh (2005), Độ tương đồng về thành phần loài bướm ở một số khu vực và danh sách bổ xung các loài bướm mới ở Việt Nam. Hội nghị sinh thái học toàn quốc lần thứ nhất, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 144-149 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội nghị sinh thái học toàn quốc lần thứ nhất
Tác giả: Vũ Văn Liên,Tạ Huy Thịnh
Nhà XB: Nxb Nông nghiệp
Năm: 2005
19. Vũ Văn Liên, Trần Thị Thanh Bình (2013), Thành phần loài bướm ở ba khu rừng đặc dụng Phia Bắc, Xuân Sơn và Bà Vì. Tạp chí Khoa học Đại học Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thành phần loài bướm ở ba khu rừng đặc dụng Phia Bắc, Xuân Sơn và Bà Vì
Tác giả: Vũ Văn Liên, Trần Thị Thanh Bình
Năm: 2013
20. Vũ Văn Liên, Vũ Quang Côn (2005), Vai trò chỉ thị của một số họ bướm ở vườn quốc gia Tam Đảo, Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống - Báo cáo khoa học Hội nghị toàn quốc 2005, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vai trò chỉ thị của một số họ bướm ở vườn quốc gia Tam Đảo, Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống - Báo cáo khoa học Hội nghị toàn quốc 2005
Tác giả: Vũ Văn Liên, Vũ Quang Côn
Nhà XB: Nxb Khoa học và Kỹ thuật
Năm: 2005
21. Vũ Văn Liên,Vũ Quang Côn, Tạ Huy Thịnh (2007), Nghiên cứu xác định vai trò chỉ thị của bướm (Lepidoptera, Rhopalocera) ở Vườn Quốc gia Tam Đảo. Hội nghị Khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 2 (phần tài nguyên sinh vật; đa dạng sinh học và bảo tồn), Nxb Nông nghiệp, tr. 420-425 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội nghị Khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 2 (phần tài nguyên sinh vật; đa dạng sinh học và bảo tồn)
Tác giả: Vũ Văn Liên,Vũ Quang Côn, Tạ Huy Thịnh
Nhà XB: Nxb Nông nghiệp
Năm: 2007
22. Vũ Văn Liên, Vũ Quang Côn, Tạ Huy Thịnh (2008), Kết quả nghiên cứu về thành phần các loài bướm (Lepidoptera: Rhopalocera) và phân bố của chúng ở các sinh cảnh ở Vườn Quốc gia Tam Đảo. Báo cáo khoa học - hội nghị côn trùng học toàn quốc lần thứ 6, Nxb Nông Nghiệp, tr. 188-203 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo khoa học - hội nghị côn trùng học toàn quốc lần thứ 6
Tác giả: Vũ Văn Liên, Vũ Quang Côn, Tạ Huy Thịnh
Nhà XB: Nxb Nông Nghiệp
Năm: 2008
23. Khuất Đăng Long, Vũ Quang Côn (2005), Phân tích tính đa dạng hai nhóm côn trùng và ý nghĩa bảo tồn của chúng ở VQG Tam Đảo. Báo cáo khoa học hội nghị công trùng học toàn quốc lần thứ 5. Hà Nội ngày 11-12/4/2005, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 118-125 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo khoa học hội nghị công trùng học toàn quốc lần thứ 5
Tác giả: Khuất Đăng Long, Vũ Quang Côn
Nhà XB: Nxb Nông nghiệp
Năm: 2005

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w