1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Rủi ro đối với doanh nghiệp trong thanh toán bằng LC theo UCP 600 thực trạng và giải pháp,khoá luận tốt nghiệp

68 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Rủi Ro Đối Với Doanh Nghiệp Trong Thanh Toán Bằng LC Theo UCP 600 - Thực Trạng Và Giải Pháp
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hương
Người hướng dẫn Ths. Đoàn Vân Hà
Trường học Học viện Ngân hàng
Chuyên ngành Kinh doanh quốc tế
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 68
Dung lượng 425,09 KB

Cấu trúc

  • KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

    • LỜI CAM ĐOAN

    • LỜI CẢM ƠN

    • LỜI MỞ ĐẦU

    • Tổng quan nghiên cứu

    • Mục tiêu nghiên cứu

    • Đối tượng nghiên cứu

    • Phạm vi nghiên cứu

    • Phương pháp nghiên cứu

    • 1.1.1. Khái niệm UCP

    • 1.1.2. Sự ra đời và phát triển của UCP 600

    • 1.1.3. Các đặc điểm của UCP

    • 1.1.4. Vai trò của UCP trong điều chỉnh phương thức tín dụng chứng từ

    • 1.2.1. Khái niệm phương thức tín dụng chứng từ

    • 1.2.2. Nội dung và quy trình thực hiện phương thức tín dụng chứng từ

    • 1.2.3. Phân loại L/C

    • 1.3.1. Khái niệm rủi ro

    • 1.3.2. Các rủi ro thường gặp trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ

    • Tóm tắt Chương 1

    • 2.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG CÁC NĂM GẦN ĐÂY

    • 2.2.1. Đối với doanh nghiệp Xuất khẩu

    • 2.2.2. Đối với doanh nghiệp Nhập khẩu

    • Tóm tắt chương 2

    • 3.1. XU HƯỚNG SỬ DỤNG L/C TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM

    • 3.2.1. Doanh nghiệp xuất khẩu

    • 3.2.2. Doanh nghiệp NK

    • 3.2.3. Kiến nghị với các ngân hàng

    • 3.2.4. Đề xuất khác

    • Tóm tắt chương 3

    • KẾT LUẬN

    • Giáo trình và sách

    • Văn bản pháp luật

    • Công trình nghiên cứu

    • Nguồn khác

Nội dung

LÝ LUẬN CHUNG VÊ UCP, PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ VÀ RỦI RO ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

Khái quát chung về ucp 600

Một định nghĩa phổ biến và khái quát nhất về UCP đó là:

UCP là bộ nguyên tắc và tập quán quốc tế do Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) biên soạn, quy định quyền hạn và trách nhiệm của các bên trong giao dịch tín dụng chứng từ Điều kiện để áp dụng UCP là thư tín dụng phải có dẫn chiếu đến các quy định này.

Bộ tập quán UCP do ICC phát hành giúp các bên trong giao dịch L/C xác định quyền hạn và trách nhiệm của mình Khi được dẫn chiếu trong trường 40E: Applicable Rules của L/C, UCP trở thành cơ sở để đánh giá tính tuân thủ trong các giao dịch tín dụng chứng từ của các bên liên quan.

1.1.2 Sự ra đời và phát triển của UCP 600

Nhu cầu trao đổi hàng hóa quốc tế ngày càng tăng đã thúc đẩy sự phát triển đa dạng của các dịch vụ ngân hàng trung gian thanh toán Trong đó, phương thức tín dụng chứng từ trở nên phổ biến và được áp dụng rộng rãi, hỗ trợ hiệu quả cho các bên mua và bán.

Phương thức thanh toán L/C mặc dù phổ biến nhưng lại phức tạp, đòi hỏi sự tuân thủ cao và nhiều nghiệp vụ khác nhau Mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật và tập quán riêng, gây ra nhiều rào cản trong giao dịch L/C và thanh toán quốc tế Do đó, cần thiết phải có quy tắc chung để điều chỉnh phương thức thanh toán này, nhằm giảm thiểu tranh chấp và mâu thuẫn, từ đó đảm bảo hoạt động thanh toán diễn ra một cách hiệu quả và trơn tru.

Năm 1933, Phòng thương mại quốc tế đã phát hành bộ Quy tắc và thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ ( Uniform Customs and Practice for Documentary Credit

UCP, hay Quy tắc thống nhất về tín dụng chứng từ, được biên soạn bởi Ủy ban Kỹ thuật nghiệp vụ Ngân hàng (ICC commission on Banking Technique and Practice), bao gồm các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực ngân hàng Bộ quy tắc này cung cấp các định nghĩa và tập quán nghiệp vụ áp dụng trong giao dịch L/C Kể từ khi được phát hành, UCP đã được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trên toàn cầu, trở thành nền tảng cho hoạt động thanh toán L/C trong giao dịch quốc tế.

Quá trình sửa đổi và phát triển của UCP

Bản UCP đầu tiên đã được áp dụng rộng rãi ngay khi ra đời, tuy nhiên, việc sửa đổi UCP vẫn diễn ra để phù hợp với tình hình thực tế luôn thay đổi, đặc biệt là sự phát triển của các ngành như công nghệ thông tin, giao thông vận tải, bảo hiểm, tài chính và ngân hàng Từ lần đầu phát hành, UCP đã trải qua 7 lần sửa đổi.

1 Phát hành lần đầu: UCP 82 - 1933

2 Sửa đổi lần thứ nhất: UCP 151 -1951

3 Sửa đổi lần thứ hai: UCP 222 - 1962

4 Sửa đổi lần thứ ba: UCP 290 - 1974

Sự sửa đổi năm 1974 nhằm đáp ứng sự phát triển của ngành vận tải đường biển, đặc biệt là sự bùng nổ của container và các phương thức vận chuyển mới.

+ Công nghệ vận tải: công nghệ vận tải container và vận tải đa phương thức ngày càng phát triển mạnh

+ Một số loại chứng từ mới phát sinh trong việc buôn bán giữa các nước

+ Cuộc cách mạng thông tin liên lạc đánh dấu sự ra đời của công nghệ truyền dữ liệu điện tử thay thế cho giấy tờ

+ Một số loại L/C mới được đưa vào sử dụng như L/C trả chậm, L/C dự phòng

6 Sửa đổi lần thứ năm: UCP 500 - 1993

Sửa đổi năm 1993 được thực hiện để thích ứng với sự phát triển của công nghệ thông tin, vận tải, ngân hàng và bảo hiểm, đồng thời nhằm giảm thiểu tình trạng từ chối bộ chứng từ và các vụ kiện tụng Các cuộc điều tra toàn cầu cho thấy ủy ban Kỹ thuật và nghiệp vụ Ngân hàng nhận thấy có một tỷ lệ đáng kể các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực này.

70% bộ chứng từ có sai sót ở lần xuất trình đầu tiên khiến cho chi phí tăng lên đáng kể do người thụ hưởng phải chịu thêm phí sai biệt.

7 Sửa đổi lần thứ sáu: UCP 600 - 2007

UCP 600 đã có những bổ sung và sửa đổi so với UCP 500, chủ yếu nhằm làm rõ các quy định mà không thay đổi nội dung thực tế Những thay đổi này bao gồm việc cải thiện tính minh bạch và cụ thể hóa các điều khoản.

UCP 600 đã giảm số lượng điều khoản từ 49 xuống còn 39, đồng thời làm cho nội dung trở nên rõ ràng hơn Bố cục và cách trình bày mới của UCP 600 giúp người sử dụng dễ dàng tiếp cận và áp dụng hơn.

Mặc dù UCP không được sửa đổi theo định kỳ mà dựa vào nhu cầu thực tiễn, nhưng thường khoảng 10 năm sẽ có một lần sửa đổi Tuy nhiên, khoảng thời gian giữa lần sửa đổi thứ năm và thứ sáu kéo dài tới 14 năm Đến thời điểm đó, với 50% các rủi ro còn lại, việc sửa đổi UCP 600 khó có thể tạo ra sự khác biệt đáng kể do nằm ngoài phạm vi của người thụ hưởng.

UCP 600 được coi là phiên bản hoàn chỉnh nhất tính đến thời điểm hiện tại, với khả năng điều chỉnh hiệu quả các giao dịch bằng L/C Trong bối cảnh có thể xảy ra những thay đổi lớn, UCP 600 vẫn giữ vai trò quan trọng mà không cần sửa đổi ngay lập tức.

1.1.3 Các đặc điểm của UCP

Các phiên bản của UCP nói chung đều mang hai đặc điểm chính mà sẽ được phân tích dưới đây.

Tính chất pháp lý tùy ý

UCP, do ICC phát hành, là một văn bản không mang tính chất pháp lý bắt buộc, điều này có nghĩa là các bên áp dụng không bị ràng buộc bởi nó Tính chất phi chính phủ của UCP thể hiện rõ qua các đặc điểm của nó.

Tất cả các phiên bản UCP từ bản gốc đều giữ nguyên giá trị, với các phiên bản sau không phủ định các phiên bản trước Điều khoản của phiên bản UCP được dẫn chiếu trong L/C sẽ được áp dụng.

- Chỉ khi L/C có dẫn chiếu áp dụng UCP thì nó mới trở nên có hiệu lực pháp lý bắt buộc điều chỉnh các bên.

Các bên có thể thỏa thuận trong thư tín dụng (L/C) về việc không thực hiện hoặc thực hiện khác đi một hoặc một số điều khoản trong Quy tắc và Thực hành thống nhất về Thư tín dụng (UCP), hoặc bổ sung các điều khoản mà UCP không đề cập đến trong L/C.

- Luật quốc gia sẽ vượt lên trên UCP về mặt pháp lý nếu có xung đột giữa hai luật này.

Khái quát chung về phương thức tín dụng chứng từ

1.2.1 Khái niệm phương thức tín dụng chứng từ

Phương thức tín dụng chứng từ được định nghĩa tại điều 2, UCP600 như sau:

Tín dụng chứng từ là một thỏa thuận thể hiện cam kết chắc chắn và không thể hủy bỏ của ngân hàng phát hành, đảm bảo việc thanh toán khi có sự xuất trình hợp lệ.

Phương thức tín dụng chứng từ là một cam kết thanh toán không hủy ngang từ ngân hàng phát hành cho người thụ hưởng, với điều kiện người này xuất trình bộ chứng từ phù hợp Ngân hàng phát hành, đại diện cho người nhập khẩu, tạo ra sự tin cậy cho người xuất khẩu, giúp họ yên tâm rằng hàng hóa sẽ được thanh toán Nếu cam kết chỉ đến từ người nhập khẩu, người xuất khẩu sẽ thiếu sự đảm bảo Do đó, tín dụng chứng từ là cách mà người nhập khẩu mượn uy tín của ngân hàng để đảm bảo thanh toán cho người xuất khẩu khi có đủ chứng từ.

Thanh toán L/C là phương thức có ưu điểm vượt trội, đảm bảo an toàn cho cả người xuất khẩu và người nhập khẩu Đối với người xuất khẩu, ngân hàng phát hành L/C cam kết thanh toán khi nhận bộ chứng từ phù hợp Ngược lại, nhà nhập khẩu cũng được đảm bảo rằng tiền hàng chỉ được thanh toán khi bộ chứng từ hợp lệ đã được nhận, đồng thời có cơ sở để đảm bảo hàng hóa đáp ứng các tiêu chuẩn và thời gian giao hàng theo thỏa thuận Nhờ đó, phương thức thanh toán L/C giúp dung hòa lợi ích của cả hai bên trong giao dịch thương mại.

1.2.2 Nội dung và quy trình thực hiện phương thức tín dụng chứng từ

Phương thức L/C được thực hiện thông qua ba hợp đồng độc lập, mỗi hợp đồng không ảnh hưởng đến nhau.

Hợp đồng 1 xác định mối quan hệ giữa người mua và người bán, được quy định bởi các điều khoản trong hợp đồng ngoại thương, bao gồm thông tin chi tiết về hàng hóa và quy trình giao hàng.

Hợp đồng 2 xác định mối quan hệ giữa người nhập khẩu và ngân hàng phát hành thông qua các điều kiện và điều khoản trong đơn mở L/C Những điều khoản này, bao gồm biện pháp bảo đảm tín dụng và thế chấp hàng hóa, được ký bởi người mở đơn và ràng buộc mối quan hệ giữa họ và ngân hàng Điều này cho phép ngân hàng phát hành tự động ghi nợ tài khoản của người mua để thanh toán các khoản liên quan đến giao dịch L/C.

Hợp đồng 3, thể hiện quan hệ hợp đồng giữa ngân hàng phát hành và nhà xuất khẩu.

Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành và nhà xuất khẩu được xác định qua hợp đồng 1 và hợp đồng 2, nhưng hợp đồng 3 tồn tại độc lập và là nghĩa vụ riêng của ngân hàng đối với nhà xuất khẩu Hợp đồng 3 tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu nhận thanh toán khi bộ chứng từ đáp ứng đúng yêu cầu thương mại.

Sơ đồ 1.1:Ba mối quan hệ trong thanh toán bằng L/C

Quy trình nghiệp vụ phương thức L/C

Một quy trình thực thiện L/C cơ bản được mô tả như sơ đồ sau:

Sơ đồ 1.2: Quy trình nghiệp vụ L/C xuất trình chứng từ tại NHPH

Giải thích chi tiết sơ đồ:

(1) Người mua và bán ký hợp đồng ngoại thương Chú ý điều kiện thanh toán thỏa thuận là L/C

(2) Dựa trên nội dung hợp đồng, người nhập khẩu làm đơn gửi đến ngân hàng phục vụ mình để yêu cầu phát hành một L/C

(3) Dựa vào đơn mở L/C, NHPH lập L/C và gửi cho ngân hàng thông báo (NHTB) là ngân hàng đại lý hoặc chi nhánh của mình ở nước nhà xuất khẩu

Khi nhận được thư tín dụng (L/C), ngân hàng thương mại (NHTB) cần kiểm tra tính xác thực của L/C và thông báo cho người xuất khẩu Nếu không thể xác định tính chân thực của L/C, NHTB sẽ từ chối thông báo và phải thông báo lại cho ngân hàng phát hành (NHPH).

Sau khi hoàn tất giao hàng, nhà xuất khẩu cần lập bộ chứng từ phù hợp với yêu cầu trong L/C và trình bày cho Ngân hàng phát hành thông qua Ngân hàng thương mại để thực hiện thanh toán.

Sau khi kiểm tra bộ chứng từ, NHPT sẽ tiến hành thanh toán cho người thụ hưởng nếu các tài liệu phù hợp Ngược lại, nếu không phù hợp, ngân hàng sẽ thông báo từ chối thanh toán và trả lại nguyên vẹn bộ chứng từ.

(8) Nhà nhập khẩu hoàn trả tiền cho NHPH.

(9) NHPH giao bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu đi nhận hàng.

Bộ chứng từ có thể được xuất trình tại ngân hàng khác, được gọi là ngân hàng được chỉ định, để thực hiện chiết khấu Quy trình này sẽ có những thay đổi nhất định.

Sơ đồ 1.3: Quy trình nghiệp vụ L/C xuất trình chứng từ tại NHĐCĐ

Giải thích chi tiết sơ đồ:

(1)-(5): tương tự như quy trình nghiệp vụ L/C xuất trình chứng từ tại NHPH

(6) : Nhà xuất khẩu xuất trình chứng từ ngay tại NHĐCĐ thay vì tại NHPH

(7) : NHĐCĐ thanh toán cho bộ chứng từ nếu bộ chứng từ là phù hợp Nếu bộ chứng từ không phù hợp, NHĐCĐ từ chối thanh toán.

(8) : NHĐCĐ gửi bộ chứng từ đến NHPH yêu cầu hoàn trả

(9) : NHPH thanh toán cho NHĐCĐ nếu bộ chứng từ phù hợp Trường hợp NHPH cho rằng bộ chứng từ không phù hợp, NHPH sẽ từ chối thanh toán

(10) : Người nhập khẩu hoàn trả tiền cho NHPH

(11) : NHPH giao bộ chứng từ cho người nhập khẩu đi nhận hàng hóa.

Quy trình nghiệp vụ giữa hai trường hợp tương đối giống nhau, đều dựa trên sự phù hợp của bộ chứng từ Sự khác biệt chính nằm ở vai trò của ngân hàng được chỉ định, thường là ngân hàng thông báo Để hiểu rõ hơn về sự khác biệt này, cần tìm hiểu đặc điểm của các bên tham gia trong nghiệp vụ L/C.

Người yêu cầu mở L/C trong giao dịch là người nhập khẩu, chịu trách nhiệm pháp lý về việc ngân hàng phát hành (NHPH) thanh toán cho người thụ hưởng Mối quan hệ giữa người yêu cầu mở L/C và NHPH được quy định qua đơn xin mở L/C.

Người thụ hưởng L/C: trong các giao dịch trao đổi hàng hóa thì người thụ hưởng

L/C là người xuất khẩu Người thụ hưởng L/C chịu trách nhiệm giao hàng và chuẩn bị bộ chứng từ gửi đi cho NHPH.

Ngân hàng phát hành là ngân hàng phục vụ cho người nhập khẩu tại quốc gia của họ, có trách nhiệm phát hành thư tín dụng (L/C) theo yêu cầu của người nhập khẩu Ngân hàng phát hành cũng có nghĩa vụ thanh toán cho người thụ hưởng khi bộ chứng từ được xuất trình đầy đủ và hợp lệ.

Ngân hàng thông báo là ngân hàng được NHPH ủy quyền để thông báo L/C cho người thụ hưởng, và phải là ngân hàng đại lý hoặc chi nhánh của NHPH tại quốc gia xuất khẩu Nếu ngân hàng thông báo không có mối quan hệ khách hàng với nhà xuất khẩu, họ sẽ chuyển L/C đến một ngân hàng khác, gọi là ngân hàng thông báo thứ hai, có mối quan hệ với nhà xuất khẩu để thực hiện thông báo L/C.

Các rủi ro ro trong hoạt động thanh toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ của doanh nghiệp xuất nhập khẩu

BẰNG TÍN DỤNG CHỨNG TỪ CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

Rủi ro là một khái niệm đa dạng, với nhiều định nghĩa khác nhau Các quan điểm về rủi ro thường được phân chia thành hai trường phái chính: quan điểm truyền thống và quan điểm hiện đại.

Theo quan điểm truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn, tổn thất và mất mát Allan H Willett định nghĩa rủi ro là "sự không chắc chắn về tổn thất", trong khi Irving Pfeffer mô tả nó là "khả năng xảy ra tổn thất" Các định nghĩa này đều nhấn mạnh rằng rủi ro liên quan đến những điều không tốt xảy ra bất ngờ Từ góc độ doanh nghiệp, rủi ro thể hiện qua việc mất mát tài sản và giảm lợi nhuận kỳ vọng, với những bất trắc ngoài ý muốn trong quá trình kinh doanh, sản xuất, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của doanh nghiệp.

Theo trường phái hiện đại, rủi ro được hiểu là sự bất trắc có thể đo lường, bao gồm cả khía cạnh tích cực và tiêu cực Điều này có nghĩa là rủi ro không chỉ mang lại tổn thất mà còn có thể tạo ra cơ hội cho doanh nghiệp Nhờ vào việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa, doanh nghiệp có thể hạn chế những rủi ro tiêu cực và đồng thời khai thác những cơ hội để đạt được kết quả tốt đẹp trong tương lai So với trường phái truyền thống, khái niệm rủi ro trong trường phái hiện đại có sự mở rộng đáng kể về mặt tích cực.

Rủi ro được định nghĩa là tình huống khách quan có thể dẫn đến kết quả không mong muốn, gây khó khăn cho doanh nghiệp và yêu cầu chi phí khắc phục Bản chất của rủi ro là sự không chắc chắn với ít nhất hai kết quả có thể xảy ra Trong lĩnh vực trao đổi hàng hóa quốc tế, rủi ro càng gia tăng do sự khác biệt về địa lý, kinh tế, văn hóa, phong tục, pháp luật và chính trị Những yếu tố này tạo ra nhiều rủi ro mới khó kiểm soát, buộc doanh nghiệp phải thích ứng để tồn tại trong môi trường kinh doanh phức tạp này.

- Môi trường đa dạng và phức tạp

- Chịu sự điều tiết của đồng thời nhiều nguồn luật

- Đối tác ở các quốc gia khác nhau

- Giao dịch gián tiếp đóng vai trò chủ yếu

- Hàng hóa và chứng từ phải chuyển giao trong thời gian dài và ở khoảng cách địa lý xa

- Thường phải chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác

Doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần xây dựng chiến lược phù hợp với môi trường nước ngoài và thực hiện các biện pháp giảm thiểu rủi ro Rủi ro trong thương mại quốc tế có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng và chi phí khắc phục cao.

1.3.2 Các rủi ro thường gặp trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ

1.3.2.1 Đối với doanh nghiệp xuất khẩu a Rủi ro quốc gia

Doanh nghiệp xuất khẩu đối mặt với nhiều rủi ro khi giao dịch với người nhập khẩu ở các quốc gia đang phát triển, bị cấm vận, hoặc có tình hình chính trị bất ổn Những bất ổn này có thể dẫn đến việc ngừng hoạt động của người nhập khẩu hoặc ngân hàng phát hành do chiến tranh, đảo chính, đình công, hoặc rối loạn Đặc biệt, nếu ngân hàng phát hành thuộc các quốc gia bị cấm vận, việc chuyển tiền có thể bị ngăn cấm nếu doanh nghiệp không thực hiện nghiên cứu và tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi giao dịch.

Sau khi hàng hóa được giao sang nước nhập khẩu, rủi ro lớn nhất mà người xuất khẩu lo ngại là vấn đề thanh toán Mặc dù đã áp dụng phương thức thanh toán L/C để đảm bảo an toàn, nhưng họ vẫn có thể đối mặt với những rủi ro không lường trước được.

Nhà nhập khẩu từ chối thanh toán có thể dẫn đến rủi ro cho người xuất khẩu, mặc dù theo lý thuyết, ngân hàng phát hành đã cam kết thanh toán Tình huống phổ biến nhất khiến người xuất khẩu mất quyền thanh toán là do sai sót trong bộ chứng từ Rủi ro này có thể xuất phát từ lỗi của người xuất khẩu hoặc do họ gặp khó khăn trong việc lập chứng từ bị người nhập khẩu khống chế Trong trường hợp L/C, nếu yêu cầu chứng từ bao gồm tài liệu do người nhập khẩu cung cấp hoặc cần chữ ký, con dấu từ phía họ, thì khi người nhập khẩu không hợp tác hoặc không thể cung cấp, người xuất khẩu sẽ không thể lập bộ chứng từ đúng theo L/C, dẫn đến tranh chấp và mất quyền đòi tiền hàng từ ngân hàng phát hành.

Người xuất khẩu thiếu kinh nghiệm trên thị trường quốc tế có thể bị người nhập khẩu lợi dụng để cài cắm các điều khoản bất lợi trong L/C, dẫn đến sai sót trong bộ chứng từ khi xuất trình tại ngân hàng Điều này cho phép người nhập khẩu từ chối thanh toán hoặc chấp nhận sai biệt, tạo ra thế mạnh trong việc ép giá người xuất khẩu Kết quả là, người xuất khẩu buộc phải chấp nhận giảm giá để giao hàng, tìm kiếm khách hàng khác, hoặc thuê tàu để đưa hàng về nước, nhưng những giải pháp này đều tốn kém và tiềm ẩn rủi ro hư hỏng, đặc biệt với hàng hóa nông sản và thủy sản.

Nhà nhập khẩu có thể sử dụng các chiêu trò nghiệp vụ để cố tình trì hoãn thanh toán, như tìm lỗi trong chứng từ, nhằm ép giá người xuất khẩu và thu lợi cho bản thân.

Người nhập khẩu có thể gặp khó khăn tài chính và mất khả năng thanh toán, dẫn đến việc xin gia hạn nợ hoặc thậm chí tuyên bố phá sản, làm giảm khả năng thu hồi nợ cho nhà xuất khẩu Để giảm thiểu rủi ro này, ngân hàng thường yêu cầu người nhập khẩu thế chấp tài sản cố định hoặc ký quỹ trước khi mở L/C Tuy nhiên, nếu ngân hàng phát hành mất khả năng thanh toán, nhà xuất khẩu cũng không thể thu hồi tiền dù bộ chứng từ có đầy đủ Nguyên nhân gây ra tình trạng này có thể do rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản hoặc khủng hoảng kinh tế.

Ngoài rủi ro ngân hàng phá sản, còn tồn tại rủi ro liên quan đến việc chứng từ bị từ chối Điều này xảy ra khi ngân hàng phát hành thông đồng với người nhập khẩu để bắt lỗi nhỏ, nhằm giúp họ từ chối hoặc trì hoãn thanh toán và thu phí sai biệt Hơn nữa, sự không đồng nhất trong quan điểm kiểm tra chứng từ giữa các ngân hàng như ngân hàng chiết khấu, ngân hàng hoàn trả và ngân hàng phát hành cũng tạo ra rủi ro cho bộ chứng từ, dẫn đến việc người xuất khẩu phải hoàn trả tiền cho ngân hàng đã thực hiện thanh toán hoặc chiết khấu.

Khi chọn phương thức thanh toán L/C cho giao dịch xuất khẩu, một trong những mối lo ngại lớn nhất của người xuất khẩu là liệu bộ chứng từ có bị sai sót hay không Thống kê cho thấy tới 70% bộ chứng từ lần đầu xuất trình gặp phải sai biệt Nguyên nhân chủ yếu của những sai sót này thường xuất phát từ các rủi ro trong quá trình lập bộ chứng từ của doanh nghiệp xuất khẩu.

Rủi ro lớn nhất trong xuất nhập khẩu là nhân viên phụ trách lập chứng từ thiếu hiểu biết về UCP, đặc biệt là UCP600, mặc dù đã được làm rõ hơn Nhiều điều khoản phức tạp và các trường hợp cụ thể có thể dẫn đến sai sót nếu không được nghiên cứu kỹ lưỡng Chẳng hạn, điều khoản về vận đơn đường biển trong UCP600 rất dài và chứa nhiều trường hợp nhỏ để làm rõ nội dung chính, như điều khoản 20 về vận đơn đường biển.

“Một vận đơn cho dù có tên gọi như thế nào, phải thể hiện rõ: chỉ rõ tên người chuyên chở và đã được ký bởi:

• người chuyên chở hoặc đại lý đích danh của người chuyên chở, hoặc

• thuyền trưởng hoặc đại lý đích danh của thuyền trưởng

Bất kỳ chữ ký nào của người chuyên chở, thuyền trưởng hoặc đại lý phải đích thực là của người chuyên chở, thuyền trưởng hoặc đại lý.

Tất cả các chữ ký của đại lý cần phải được ghi rõ là đại diện cho người chuyên chở hoặc thuyền trưởng.

THỰC TRẠNG RỦI RO CỦA CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ

2.1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM

TRONG CÁC NĂM GẦN ĐÂY

Trong những năm gần đây, thương mại quốc tế của Việt Nam có xu hướng tích cực, với sự gia tăng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu Đặc biệt, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng nhập siêu và duy trì xuất siêu trong 4 năm qua, dẫn đến cán cân thương mại ngày càng khả quan Mặc dù tổng cầu kinh tế thế giới giảm sút, xuất khẩu hàng hóa Việt Nam năm 2019 vẫn đạt con số ấn tượng.

Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại quốc tế giai đoạn 2016-2019 300.000

■ Xuất khẩu ■ Nhập khẩu ■ Cán cân TM

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan

Theo thống kê của Hải quan Việt Nam và Cục xuất nhập khẩu, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong năm 2019 đạt khoảng 516,96 tỷ USD, tăng 7,6% so với năm trước.

Năm 2018, xuất khẩu của Việt Nam đạt 263,45 tỷ USD, tăng 8,1% so với năm trước, trong khi nhập khẩu được kiểm soát hiệu quả, giữ vững thặng dư thương mại liên tiếp Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu đang có sự cải thiện tích cực, với việc giảm xuất khẩu hàng hóa thô và tăng cường xuất khẩu sản phẩm chế biến, gia công và thành phẩm công nghiệp Các mặt hàng chủ lực như máy tính và đồ điện tử tăng 6,36 tỷ USD, hàng dệt may tăng 2,37 tỷ USD, điện thoại và linh kiện tăng 2,16 tỷ USD, cùng với giày dép tăng 2,08 tỷ USD.

Biểu đồ 2.2: 10 nhóm hàng XK đạt mức tăng lớn nhất về giá trị trong năm 2019 khác gỗ

■ Giá trị XK năm 2018 ■ Mức tăng thêm năm 2019

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan,2019

Đến cuối tháng 12 năm 2019, tổng trị giá nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 253,07 tỷ USD, cho thấy sự gia tăng so với năm trước đó.

Năm 2018, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 16,2 tỷ USD, tăng 6,8% so với năm trước Trong đó, máy vi tính và sản phẩm điện tử dẫn đầu với mức tăng 8,22 tỷ USD, tiếp theo là máy móc thiết bị và phụ tùng khác tăng 3,87 tỷ USD, ô tô nguyên chiếc tăng 1,33 tỷ USD, than tăng 1,24 tỷ USD, và dầu thô tăng 0,58 tỷ USD Ngược lại, một số mặt hàng ghi nhận sự giảm mạnh như xăng dầu giảm 1,68 tỷ USD, điện thoại và linh kiện giảm 1,3 tỷ USD, kim loại thường giảm 1 tỷ USD, và lúa mì giảm 0,455 tỷ USD.

Biểu đồ 2.3: 10 nhóm hàng NK đạt mức tăng lớn nhất về giá trị trong năm 2019 khác

■ Giá trị NK năm 2018 ■ Mức tăng thêm năm 2019

Nguồn: Tổng Cục Hải Quan, 2019

Trong hai tháng đầu năm 2020, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh COVID-19, dẫn đến đình trệ sản xuất và tạm dừng công việc của người lao động theo biện pháp cách ly của chính phủ Tuy nhiên, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn đạt 74 tỷ USD, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2019 Cụ thể, trị giá xuất khẩu đạt 36,9 tỷ USD và trị giá nhập khẩu đạt 37,1 tỷ USD, cả hai đều tăng 2,4% so với năm trước Cán cân thương mại hàng hóa trong hai tháng ước tính nhập siêu 176 triệu USD.

Theo thống kê từ các ngân hàng thương mại, tình hình giao thương quốc tế của doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam được thể hiện rõ qua các số liệu thanh toán Biểu đồ dưới đây minh họa tỷ trọng sử dụng các phương thức thanh toán quốc tế tại ngân hàng Techcombank chi nhánh Thăng Long trong hai năm 2009 và 2010, dựa trên giá trị thanh toán của các phương thức này.

Biểu đồ 2.4: Tỷ trọng các phương thức thanh toán tại NH Techcombank

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh phòng thanh toán quốc tế Techcombank)

Khoảng 10 năm trước, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, đặc biệt là giao dịch bằng L/C, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng Techcombank, với gần một nửa doanh số thanh toán quốc tế Do tính chất ít rủi ro, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đã lựa chọn phương thức này cho các hợp đồng giá trị lớn, vì họ chưa có đủ uy tín trên thị trường quốc tế để đàm phán các phương thức thanh toán khác như nhờ thu hay chuyển tiền, vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn.

Trong những năm gần đây, cơ cấu sử dụng phương thức thanh toán quốc tế đã có sự thay đổi đáng kể Cụ thể, phương thức chuyển tiền đang gia tăng, trong khi phương thức L/C đang có xu hướng giảm, mặc dù giá trị thanh toán của L/C vẫn chiếm một tỷ trọng không nhỏ Biểu đồ dưới đây minh họa xu hướng sử dụng các phương thức thanh toán quốc tế trong hoạt động xuất nhập khẩu qua bốn năm.

Biểu đồ 2.5: Tỷ trọng các phương thức thanh toán hàng xuất tại một số NHTM VN

(Nguồn: Bài viết Lựa chọn phương thức thanh toán quốc tế phù hợp - TS Trần Nguyễn Hợp

Biểu đồ 2.6: Tỷ trọng các phương thức thanh toán hàng nhập tại một số NHTM VN

(Nguồn: Bài viết Lựa chọn phương thức thanh toán quốc tế phù hợp - Trần Nguyễn Hợp Châu)

Việc chuyển sang phương thức chuyển tiền thay vì L/C giúp doanh nghiệp xuất khẩu tiết kiệm chi phí và thời gian, mặc dù họ phải đối mặt với rủi ro từ sự tin cậy của người nhập khẩu Việt Nam đang tiếp cận các thị trường lớn như Châu Âu và Châu Mỹ, nơi yêu cầu khắt khe về chất lượng hàng hóa, buộc nhà xuất khẩu phải chấp nhận điều kiện thanh toán sau khi nhận hàng và đánh giá chất lượng Sự chuyển đổi này cũng cho thấy doanh nghiệp Việt Nam đang dần xây dựng được uy tín trên thị trường quốc tế Thị trường Mỹ và EU hiện chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2019.

Biểu đồ 2.7: Kim ngạch xuất khẩu theo một số thị trường lớn năm 2019

Nguồn: Tổng Cục Hải quan 2019

2.2 THỰC TRẠNG RỦI RO CỦA CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP

KHẨU KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN L/C

2.2.1 Đối với doanh nghiệp Xuất khẩu

Bài viết đã nêu rõ các rủi ro phổ biến mà doanh nghiệp gặp phải khi sử dụng phương thức thanh toán L/C theo UCP600, chủ yếu là những rủi ro cơ bản có thể dự đoán Tuy nhiên, thực tế cho thấy các rủi ro này có thể phức tạp và khó lường hơn Việc nghiên cứu các tình huống thực tế không chỉ giúp nhận diện xu hướng rủi ro mà còn chỉ ra điểm yếu của các bên trong giao dịch, từ đó giúp doanh nghiệp rút ra bài học kinh nghiệm để phòng ngừa những rủi ro tương tự trong tương lai.

Việc mở rộng thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam gần đây là tín hiệu tích cực, cho thấy uy tín hàng hóa Việt đang tăng cao trong mắt người tiêu dùng quốc tế Tuy nhiên, điều này cũng mang đến nhiều rủi ro mới từ các thị trường khó tính, đặc biệt khi sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần nhận thức rõ về những thách thức này để có chiến lược phù hợp.

Hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam sang Châu Mỹ và Châu Âu phải trải qua quy trình kiểm tra chất lượng nghiêm ngặt từ các cơ quan chức năng như US FDA và CFIA Đặc biệt, hàng thủy sản thường gặp khó khăn trong việc đạt tiêu chuẩn, dẫn đến việc bị tiêu hủy hoặc trả về Trong nhiều trường hợp, nhà nhập khẩu phải thanh toán dựa trên bộ chứng từ, nhưng một số L/C yêu cầu ngân hàng phát hành phải thông báo kết quả kiểm tra chất lượng trước khi thực hiện thanh toán Ngân hàng phát hành không chịu trách nhiệm nếu hàng hóa không đạt yêu cầu kiểm định.

Minh họa về một rủi ro tương tự khi sử dụng phương thức tín dụng của nhà xuất khẩu:

Công ty chế biến và xuất khẩu thủy sản A tại Việt Nam đã xuất khẩu lô hàng tôm đông lạnh trị giá 41,970 USD sang Nhật Bản, sử dụng tín dụng chứng từ Sau khi giao hàng, công ty A lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C và trình cho ngân hàng để được thanh toán Ngân hàng chiết khấu đã kiểm tra và gửi bộ chứng từ sang ngân hàng phát hành tại Nhật Bản, nhưng ngân hàng phát hành từ chối thanh toán với lý do “Chứng từ Acceptance Certificate không được phát hành và ký bởi Applicant” Ngân hàng Việt Nam đã phản bác lại quyết định này, cho rằng chữ ký trên chứng từ đã được ký bởi công ty B Tuy nhiên, ngân hàng phát hành vẫn giữ nguyên quan điểm do chữ ký không khớp với chữ ký lưu tại ngân hàng của người yêu cầu mở L/C, cho rằng chứng từ này là giả mạo Mặc dù không có quy định nào yêu cầu chữ ký phải khớp trong L/C, ngân hàng Việt Nam đã viện dẫn điều khoản 5 UCP600 để khẳng định rằng các ngân hàng giao dịch bằng chứng từ chứ không phải hàng hóa Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa là người nhập khẩu phát hiện hàng thủy sản có dư lượng kháng sinh vượt tiêu chuẩn của Chính phủ Nhật Bản, dẫn đến việc họ từ chối nhận hàng và không thanh toán tiền hàng.

Hàng thực phẩm tươi sống của Việt Nam, đặc biệt là thủy hải sản, thường gặp rủi ro bị từ chối nhập khẩu do vi phạm tiêu chuẩn chất lượng Mặc dù phương thức thanh toán L/C an toàn cho người xuất khẩu, nhưng cũng là công cụ bảo vệ lợi ích của người nhập khẩu, đặc biệt tại các thị trường khó tính Theo Bộ Công Thương, trong 5 tháng đầu năm 2019, Việt Nam đã có 9 lô hàng thủy sản và 8 lô hàng nông sản bị từ chối hoặc giám sát tại EU, với Tây Ban Nha từ chối 8 lô hạt hạnh nhân do chứa aflatoxin vượt mức cho phép, và Bỉ từ chối một lô hàng cá da trơn đông lạnh Các doanh nghiệp xuất khẩu không chỉ đối mặt với nguy cơ mất trắng lô hàng, mà còn có thể mất đi các thị trường tiềm năng do hàng hóa không đạt chất lượng.

CÁC GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO

Ngày đăng: 07/04/2022, 11:25

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w