Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp
2.1.1 Các khái niệm chung a) Khái niệm quản lý
Thuật ngữ “quản lý” được nhiều học giả trong và ngoài nước giải thích khác nhau do tính đa nghĩa và sự khác biệt giữa nghĩa rộng và nghĩa hẹp Sự khác biệt này còn xuất phát từ thời đại, chế độ, xã hội và nghề nghiệp Tuy nhiên, trong luận văn này, khái niệm “quản lý” được định nghĩa là “sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra” (Hồ Văn Vĩnh và cs., 2003).
Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị, bao gồm các cơ quan hành chính trong hệ thống chính trị của mỗi quốc gia Trong quản lý đất nước, Nhà nước đóng vai trò chủ thể duy nhất thực hiện chức năng quản lý nhà nước (QLNN), nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng, đặc biệt là giữa con người Sự khác biệt giữa QLNN và các hình thức quản lý khác nằm ở tính quyền lực, thể hiện qua bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và quản lý xã hội, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và quyền lợi của nhân dân lao động QLNN được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, dựa trên pháp luật, nhằm phục vụ nhân dân và duy trì sự ổn định, phát triển xã hội Do đó, QLNN có thể được định nghĩa là một hình thức quản lý xã hội đặc biệt, sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp là một phần quan trọng trong tổng thể quản lý đất đai, bao gồm các hoạt động của cơ quan nhà nước nhằm bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nước đối với đất đai Điều này bao gồm việc theo dõi tình hình sử dụng đất, phân phối và phân bổ quỹ đất theo quy hoạch, kiểm tra giám sát quản lý và sử dụng đất, cũng như điều tiết các nguồn lợi từ đất đai Nhà nước giữ vai trò chủ thể quản lý, trong khi tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp sử dụng đất nông nghiệp là đối tượng chịu sự quản lý Quản lý đất nông nghiệp được thực hiện thống nhất trên toàn quốc, với các chế tài áp dụng để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, yêu cầu họ tuân thủ các quy định hiện hành.
2.1.2 Lý luận về đất nông nghiệp a) Khái quát về đất nông nghiệp
Theo Điều 10 của Luật Đất đai năm 2013, nhóm đất nông nghiệp bao gồm nhiều loại, cụ thể là: đất trồng cây hàng năm (bao gồm đất trồng lúa và các loại cây hàng năm khác), đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối, và các loại đất nông nghiệp khác Các loại đất này có thể sử dụng cho việc xây dựng nhà kính, chuồng trại chăn nuôi, nghiên cứu thí nghiệm, cũng như ươm tạo cây giống và trồng hoa, cây cảnh.
Theo Luật đất đai (2013) có các loại đất nông nghiệp như sau:
1 Đất trồng cây hàng năm
1.1 Đất trồng lúa (đất chuyên trồng lúa nước, đất trồng lúa nước còn lại, đất trồng lúa nương)
1.2 Đất cỏ dùng vào chăn nuôi (đất trồng cỏ, đất cỏ tự nhiên có cải tạo)
1.3 Đất trồng cây hàng năm khác (đất bằng trồng cây hàng năm khác, đất nương rẫy trồng cây hàng năm khác)
2 Đất trồng cây lâu năm
2.1 Đất trồng cây công nghiệp lâu năm
2.2 Đất trồng cây ăn quả lâu năm
2.3 Đất trồng cây lâu năm khác
3 Đất nuôi trồng thuỷ sản
3.1 Đất nuôi trồng thuỷ sản nước lợ, mặn
3.2 Đất nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt b) Đặc điểm của đất nông nghiệp Đất đai nói chung và đất sản xuất nông nghiệp nói riêng có những đặc điểm cơ bản sau: Đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động đồng thời là đối tượng của sản xuất và tư liệu sản xuất vô cùng quan trọng Đất đai có tính cố định vị trí, không thể di chuyển được, tính cố định vị trí quyết định tính giới hạn về quy mô theo không gian và chịu sự chi phối của các yếu tố môi trường nơi có đất Mặt khác, đất đai không giống các hàng hóa khác có thể sản sinh qua quá trình sản xuất do đó, đất đai là có hạn Chúng ta đều biết đất đai là sản phẩm của tự nhiên, nó được coi là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá Quá trình hình thành của nó là một sự thay đổi trạng thái vật chất tự nhiên (từ đá) trải qua hàng triệu năm Và nó tồn tại như một trạng thái hiển nhiên, có trước lao động và không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người Tuy nhiên, từ khi con người tồn tại trên trái đất này thì con người đã biết dựa vào thiên nhiên, sử dụng lao động cải tạo điều kiện nguyên thuỷ của đất đai để phục vụ cho cuộc sống Mà trước tiên đó là những hoạt động còn sơ khai như đốt rừng làm nương rẫy, cày bừa vun xới… rồi đến việc khoanh vùng bảo vệ đất đai, lập ra ranh giới vùng lãnh thổ hay các quốc gia như ngày nay Dần dần thì lao động của con người đã kết tinh vào đất đai, tạo cho đất đai ngày một phì nhiêu và có giá trị hơn Vì lẽ đó mà đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động Đất đai là môi trường sống, không gian sống, nơi phát sinh loài người, nơi con người, động thực vật tồn tại, phát triển Đất đai đồng thời là tư liệu lao động và đối tượng lao động
Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai đóng vai trò là đầu vào trực tiếp, trong khi sản phẩm nông nghiệp là đầu ra của quá trình lao động Con người sử dụng lao động để tác động vào đất, khai thác giá trị sử dụng và độ phì nhiêu của nó Nước, không khí, khoáng chất và các chất dinh dưỡng trong đất nuôi sống cây trồng, từ đó tạo ra sản phẩm cung cấp cho con người.
Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai không phải là mục tiêu cuối cùng mà là phương tiện để tạo ra sản phẩm nông nghiệp Con người tác động đến đất đai như một hình thức gián tiếp để ảnh hưởng đến cây trồng, do đó, đất đai được coi là tư liệu lao động Để đạt được sản phẩm nông nghiệp, con người cần tác động đến đất đai thông qua các dụng cụ lao động của mình, làm cho đất đai trở thành đối tượng lao động thiết yếu trong quá trình sản xuất.
Đất đai có sự khác biệt lớn so với các vật chất tự nhiên khác, vì nó vừa là tư liệu lao động vừa là đối tượng lao động Đặc điểm này cho thấy đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay thế và không thể loại bỏ khỏi quá trình sản xuất như các tư liệu sản xuất khác Hơn nữa, đất đai còn bị giới hạn về mặt không gian và có vị trí cố định.
Đất đai có sự giới hạn về không gian và vị trí cố định, với tổng diện tích tự nhiên của mỗi đơn vị hành chính và toàn cầu không thay đổi Tuy nhiên, cơ cấu các loại đất có thể biến đổi tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng của con người, đặc biệt là đất nông nghiệp có xu hướng giảm do sự phát triển kinh tế xã hội Mặc dù có thể khai hoang đất chưa sử dụng để bù đắp cho diện tích đất nông nghiệp đã chuyển đổi, nhưng nguồn tài nguyên này vẫn có giới hạn Việc phân bố đất đai không đều và giới hạn về không gian đã tạo ra rào cản cho sản xuất nông nghiệp ở nhiều khu vực Do đó, cần sử dụng đất một cách hợp lý và hiệu quả, phù hợp với điều kiện từng địa phương, từ đó hình thành các vùng chuyên môn hóa và phát triển trao đổi hàng hóa Đất đai, với vai trò là tư liệu sản xuất, không thể tự sản sinh và có chất lượng không đồng đều, nhưng khả năng sản xuất lại là vô hạn.
Đất đai là sản phẩm tự nhiên, hình thành qua hàng triệu năm từ quá trình phong hoá đá, và không thể tự sinh ra Quá trình này tạo ra nhiều loại đất khác nhau từ các loại đá khác nhau, dẫn đến sự khác biệt về hàm lượng chất dinh dưỡng và độ phì nhiêu Tuy nhiên, việc xác định độ phì nhiêu của đất là phức tạp, vì sự thích hợp và sản phẩm cho từng loại cây trồng sẽ khác nhau.
Trong quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, việc phân bổ đất đai phải phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương Các khu vực có điều kiện sản xuất nông nghiệp sẽ được ưu tiên cho hoạt động này Mặc dù đất đai là nguồn tài nguyên hữu hạn, nhưng khả năng sản xuất của nó là vô hạn Đất đai khác với các tư liệu sản xuất khác ở chỗ nó không bị hao mòn hay đào thải trong quá trình sản xuất Nếu được sử dụng hợp lý, đất đai không chỉ không bị xấu đi mà còn có thể cải thiện chất lượng qua từng chu kỳ sản xuất.
Để phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững trong bối cảnh đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, cần thiết phải có các biện pháp và chính sách đất đai hiệu quả Đất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong mọi hoạt động sản xuất, không chỉ là nền tảng cho xây dựng cơ sở hạ tầng mà còn cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng Đất đai không chỉ hỗ trợ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp mà còn quyết định năng suất và chất lượng cây trồng nhờ vào độ phì nhiêu của nó Vì vậy, việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp một cách hợp lý và bền vững là yếu tố then chốt cho sự phát triển của ngành nông nghiệp.
2.1.3 Nội dung quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp
2.1.3.1 Theo Luật Đất đai năm 2013, có 15 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai được quy định cụ thể tại Điều 22 là:
1 Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện văn bản đó Đây là việc các cơ quan chức năng có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện, triển khai tới các cơ quan liên quan, cơ quan ngành dọc cấp dưới, người dân tổ chức thực hiện Như sau khi Luật đất đai năm 2013 được ban hành, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43, ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai, hay Nghị định số 35, ngày 13/4/2015 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa Đây là những văn bản có tính pháp lý, quy định cụ thể, chi tiết đối với công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung, đất nông nghiệp nói riêng, từ đó các cơ quan chức năng như tỉnh, huyện, xã căn cứ áp dụng, triển khai tới cán bộ, nhân dân thực hiện đúng quy định, đảm bảo quyền và lợi ích cho người dân
2 Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính
Nội dung về xác định địa giới hành chính được quy định tại Điều 29, 30, 31 Luật đất đai 2013, trong đó Chính phủ chỉ đạo việc xác định và quản lý hồ sơ địa giới hành chính trên toàn quốc Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định trình tự, thủ tục xác định địa giới hành chính và quản lý mốc địa giới, trong khi Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định kỹ thuật và định mức kinh tế - kỹ thuật cho việc cắm mốc địa giới Các Ủy ban nhân dân cấp địa phương thực hiện xác định địa giới hành chính và lập hồ sơ liên quan Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm quản lý mốc địa giới, kịp thời báo cáo khi có sự cố như mất, xê dịch hoặc hư hỏng Hồ sơ địa giới hành chính bao gồm tài liệu giấy và số, thể hiện thông tin về thành lập và điều chỉnh đơn vị hành chính cùng các mốc địa giới Hồ sơ cấp dưới được Ủy ban nhân dân cấp trên xác nhận, trong khi hồ sơ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Bộ Nội vụ xác nhận.
Hồ sơ địa giới hành chính được lưu trữ tại Ủy ban nhân dân cấp tương ứng, cũng như tại Ủy ban nhân dân cấp trên, Bộ Nội vụ và Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp
2.2.1 Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp
Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước là yếu tố quyết định hiệu quả công việc Đội ngũ này không chỉ cần kiến thức chuyên môn mà còn phải có trách nhiệm, khả năng định hướng và truyền đạt mục tiêu tổ chức để mọi người hiểu và thực hiện Họ cần gắn kết các mục tiêu cá nhân và nhóm với mục tiêu chiến lược rộng hơn của tổ chức Vai trò của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ tại cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực đất nông nghiệp, là rất quan trọng Sự thành công của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phụ thuộc vào năng lực tổ chức, điều hành, hiểu biết pháp luật, sự sáng tạo và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cần được thực hiện thông qua tuyển chọn phù hợp, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức, đồng thời khuyến khích tinh thần tự hào dân tộc và sự hy sinh vì sự phát triển đất nước.
2.2.2 Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng về quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp cấp huyện
Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm lãnh đạo và chỉ đạo công tác quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp, căn cứ theo quy hoạch tổng thể đã được cấp tỉnh phê duyệt Để đảm bảo hiệu quả trong quản lý, các cơ quan liên quan như Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Phòng thống kê, Phòng tài chính – Kế hoạch, cùng với UBND các xã, thị trấn sẽ phối hợp chặt chẽ trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến đất nông nghiệp, từ đó tạo ra một hệ thống quản lý hiệu quả và bền vững.
2.2.3 Ý thức và nhận thức của người dân về việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp
Ý thức và nhận thức của người dân về quản lý và sử dụng đất nông nghiệp còn hạn chế, dẫn đến việc thiếu thông tin và tuyên truyền Người dân chỉ biết canh tác trên diện tích được phân mà không hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình Ở một số địa phương, mặc dù được hỗ trợ tiền thủy lợi phí, nhưng người dân không nắm rõ thông tin, khiến cán bộ xã lợi dụng số tiền này mà không hỗ trợ họ Nhiều người vi phạm quy định của nhà nước, tự ý bán ruộng đất qua hợp đồng viết tay, đào ao nuôi cá, hay trồng cây ăn quả trên đất lúa, gây ra nhiều tranh chấp và phức tạp trong quản lý đất đai.
Cơ sơ thực tiễn về quản lý nhà nước đối với đất nông nghiệp
2.3.1 Các văn bản, chính sách liên quan đến quản lý nhà nước về đất nông nghiệp của Việt Nam
- Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành Luật đất đa
- Nghị định số 35/2015/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2015 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa
- Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai
- Nghị quyết 55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Nghị định 20/2011/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết 55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Thông tư 120/2011/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 20/2011/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Nghị quyết 55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp
2.3.2 Cơ chế, chính sách và pháp luật đối với đất nông nghiệp
Chính sách đất nông nghiệp hiện nay ở Việt Nam là sản phẩm của quá trình cải cách kéo dài, bắt đầu từ Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988, trong đó giao quyền tự chủ cho hộ nông dân Tiếp theo, Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) tháng 11-1988 đã khẳng định việc giao đất cho hộ nông dân, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong phát triển nông nghiệp.
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã cụ thể hóa các chủ trương về đất nông nghiệp thông qua nhiều văn bản pháp lý quan trọng, đặc biệt là Luật Đất đai năm 1993 và các sửa đổi sau này vào năm 2003 và 2013 Các luật khác như Luật Thuế chuyển quyền sử dụng đất (1999) và Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp (2000) cũng đóng vai trò quan trọng Chính sách đất nông nghiệp hiện nay của Nhà nước bao gồm chế độ sở hữu đất, chính sách giá đất, chính sách tích tụ và tập trung đất nông nghiệp, chính sách thuế đất nông nghiệp, và chính sách bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp.
- Chế độ sở hữu đất nông nghiệp
Chế độ sở hữu đất nông nghiệp tại Việt Nam bao gồm hai quyền chính: quyền sở hữu và quyền sử dụng Quyền sở hữu thuộc về Nhà nước, đại diện cho chủ sở hữu toàn dân, trong khi quyền sử dụng chủ yếu được giao cho người nông dân.
Chế độ sở hữu đất đai đặc biệt của Việt Nam đã đưa đến một số hệ quả:
Ở Việt Nam, thị trường đất đai được chia thành hai cấp: cấp I là giao dịch giữa Nhà nước và người sử dụng đất, bao gồm các hình thức như giao đất có thu tiền, không thu tiền, và cho thuê đất, với sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước về giá cả, thời hạn và mục đích sử dụng Cấp II là thị trường giao dịch giữa những người sử dụng đất nông nghiệp, hoạt động tự phát và chủ yếu dựa vào quy định của Nhà nước, nhưng vẫn thiếu tổ chức và dịch vụ hỗ trợ, dẫn đến hạn chế trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của nông dân.
Nhà nước vừa là cơ quan quản lý hành chính công về đất đai, vừa là chủ sở hữu đất, có quyền thu hồi quyền sử dụng đất của nông dân Đồng thời, nhà nước có khả năng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp và giao đất nông nghiệp đã chuyển đổi cho tổ chức và cá nhân không phải nông dân, cũng như quy định giá thu hồi đất nông nghiệp.
- Người nông dân ở vào vị thế yếu trong giao dịch đất nông nghiệp, thể hiện qua các khía cạnh:
Người nông dân chỉ được phép sử dụng đất nông nghiệp cho mục đích sản xuất nông nghiệp Mức sinh lợi thấp trong ngành nông nghiệp dẫn đến giá trị chuyển nhượng quyền sử dụng đất không cao, điều này không khuyến khích nông dân chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình cho người khác.
Nhà nước có quyền quy hoạch và thu hồi đất nông nghiệp để chuyển đổi thành đất đô thị hoặc đất kinh doanh, trong khi nông dân không có quyền thương lượng về giá đất bị thu hồi, cũng như không thể phản đối hay yêu cầu đền bù hợp lý cho quyền lợi của mình Khi đất bị thu hồi để phục vụ các công trình công cộng như đường sá hay thủy lợi, không có mặt bằng giá mới, khiến nông dân không nhận thấy được thiệt thòi Đối với trường hợp thu hồi đất để phát triển khu đô thị, việc giao cho doanh nghiệp đầu tư hạ tầng rồi bán nền, bán nhà dẫn đến việc hình thành mặt bằng giá quyền sử dụng đất phi nông nghiệp, thường cao hơn nhiều so với giá đất nông nghiệp.
Thời hạn giao đất nông nghiệp cho nông dân hiện nay theo quy định pháp luật là quá ngắn, chỉ 50 năm đối với đất trồng cây lâu năm và 20 năm đối với các loại đất khác, khi so với thời hạn giao đất phi nông nghiệp Ngoài ra, hạn mức diện tích đất giao cũng tương đối thấp.
- Chính sách giá đất nông nghiệp
Chính sách giá đất nông nghiệp được quy định tại Điều 12 Luật Đất đai năm 1993, năm 2003 và mới nhất là Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16-11-
Theo quy định của Chính phủ năm 2004, có hai phương pháp xác định giá đất: dựa trên giá thị trường và thu nhập từ đất Quyền xác định giá đất đã được phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh, giúp tăng cường tính linh hoạt trong việc điều chỉnh giá, đồng thời phản ánh sát sao giá thị trường.
Nhà nước Việt Nam đã chính thức công nhận giá đất thị trường và điều chỉnh giá nhà nước theo giá thị trường, điều này cho thấy quyền sử dụng đất có giá trị và sự tồn tại của thị trường quyền sử dụng đất Đây là cơ sở quan trọng để Nhà nước xác định giá giao dịch đất giữa mình và người dân.
Tuy nhiên, việc thực hiện những quy định này trong thực tế rất khó khăn
Thị trường đất nông nghiệp hiện tại hoạt động kém sôi động và thiếu tổ chức, dẫn đến việc khó khăn trong việc thu thập thông tin đáng tin cậy về giá cả.
Do thiếu thông tin giá thị trường đáng tin cậy, các tổ chức định giá đất thường dựa vào giá quy định từ đầu năm của chính quyền tỉnh, nhưng giá này thường mang tính chủ quan và không được người dân tin cậy Nhiều địa phương phải thương lượng với nông dân, tuy nhiên, nông dân cũng thiếu thông tin và thường so sánh giá với những người chây ỳ nhận tiền sau hoặc giá đất đô thị tại các dự án khác, dẫn đến việc yêu cầu giá cao Hậu quả là khuyến khích nông dân chây ỳ và tạo ra tâm lý bất bình do cảm giác bị thiệt thòi.
Thị trường đất đô thị đang gặp khó khăn do Nhà nước không kiểm soát được tình trạng đầu cơ, dẫn đến giá đất tăng cao và thông tin giá cả trở nên không đáng tin cậy Để giải quyết vấn đề này, nhiều địa phương đã áp dụng các biện pháp nửa vời, trong đó các dự án thuận lợi được đền bù theo giá nhà nước, còn các dự án khó khăn lại yêu cầu nhà đầu tư chi thêm tiền theo thỏa thuận với nông dân Thậm chí, một số nhà đầu tư đã chấp nhận trả thêm cho những hộ dân không chịu di dời, gây ra tác động tiêu cực đến các hộ đã di dời.
- Chính sách khuyến khích tích tụ và tập trung đất
Vào những năm đầu thập niên 90, Nhà nước đã giao đất nông nghiệp cho hộ nông dân theo chế độ bình quân để giảm xung đột, dẫn đến tình trạng đất manh mún Để khuyến khích nông dân tập trung đất phục vụ sản xuất quy mô lớn, chính sách “dồn điền, đổi thửa” đã được triển khai, nhưng kết quả không khả quan Mặc dù số thửa ruộng của một hộ giảm, quy mô đất canh tác tăng không đáng kể do nông dân ngần ngại nhượng quyền sử dụng đất Tại các vùng chuyên canh phía Nam, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đạt kết quả tốt hơn so với phía Bắc, nhưng vẫn chưa đủ để hình thành các trang trại lớn.
Các chính sách khuyến khích sử dụng đất quy mô lớn, như hình thành nông, lâm trường và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, đã cho thấy sự kém hiệu quả Việc giao đất cho hộ công nhân nông, lâm trường để canh tác theo phương thức gia đình đã tạo động lực sử dụng đất hiệu quả hơn, nhưng cũng gây khó khăn trong quản lý đất công Điều này dẫn đến sự bất bình đẳng trong việc phân bổ đất giữa các hộ nông, lâm trường viên và nông dân trong cùng khu vực, thậm chí một số hộ nông dân còn lấn chiếm đất nông, lâm trường một cách bất hợp pháp.
- Chính sách thu hồi và đền bù đất nông nghiệp