Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận về tăng cường quản lý nhà nước đối với đất nông lâm nghiệp
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái niệm về quản lý Nhà nước
Khái niệm về quản lý
Quản lý được hiểu là sự tác động định hướng lên một hệ thống nhằm trật tự hóa và phát triển theo những quy luật nhất định Khái niệm này không chỉ áp dụng cho máy móc, cơ thể sống mà còn cho tập thể người, tổ chức hay cơ quan nhà nước.
Quản lý, từ góc độ hành động, được hiểu là quá trình điều khiển và được phân thành ba loại chính Mặc dù cả ba loại hình quản lý đều do con người thực hiện, nhưng chúng khác nhau về đối tượng mà chúng quản lý.
Loại hình quản lý đầu tiên liên quan đến việc con người điều khiển các sinh vật không phải con người để thực hiện ý đồ của mình Hình thức này được gọi là quản lý sinh học, quản lý thiên nhiên và quản lý môi trường.
Ví dụ con người quản lý vật nuôi, cây trồng
Loại hình thứ hai trong quản lý là việc con người điều khiển các vật vô tri để thực hiện ý đồ của mình, được gọi là quản lý kỹ thuật Ví dụ, con người sử dụng và điều khiển các loại máy móc để đạt được mục tiêu nhất định.
Loại hình thứ ba: là việc con người điều khiển con người Loại hình này được gọi là quản lý xã hội (hay quản lý con người).
Quản lý xã hội, theo C.Mác, là một chức năng quản lý đặc biệt phát sinh từ tính chất xã hội hoá lao động Hiện nay, khái niệm quản lý thường được hiểu chủ yếu là quản lý xã hội Do đó, chúng ta sẽ tập trung vào loại hình quản lý này Theo nghĩa hẹp, quản lý xã hội được định nghĩa là sự tác động, chỉ huy và điều khiển các quá trình xã hội cùng hành vi của con người, nhằm phát triển phù hợp với quy luật, đạt được mục tiêu đã đề ra và thể hiện ý chí của người quản lý (Hoàng Anh Đức, 1995).
Khái niệm về quản lý Nhà nước
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự hình thành của Nhà nước, đóng vai trò quản lý toàn xã hội Nội dung của quản lý nhà nước thay đổi theo chế độ chính trị, lịch sử, văn hóa và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia qua các thời kỳ Về chức năng, quản lý nhà nước bao gồm ba thành phần chính: chức năng lập pháp do các cơ quan lập pháp thực hiện, chức năng hành pháp do hệ thống hành chính đảm nhiệm, và chức năng tư pháp do các cơ quan tư pháp thực hiện (Nguyễn Hữu Hải, 2010).
Trong hệ thống xã hội, nhiều chủ thể tham gia quản lý như tổ chức chính trị, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế, và các đoàn thể nhân dân Quản lý nhà nước có những đặc điểm khác biệt so với các tổ chức khác, thể hiện vai trò và trách nhiệm độc nhất trong việc duy trì trật tự xã hội và phát triển kinh tế.
Chủ thể quản lý nhà nước bao gồm các cơ quan và cá nhân trong bộ máy nhà nước, được trao quyền thực hiện nhiệm vụ quản lý, bao gồm cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
Đối tượng quản lý của nhà nước bao gồm tất cả cá nhân và tổ chức hoạt động trong lãnh thổ quốc gia, cũng như công dân làm việc ở nước ngoài.
Quản lý nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng và ngoại giao.
Thứ tư, quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng công cụ pháp luật nhà nước, chính sách để quản lý xã hội.
Thứ năm, mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ nhân dân duy trì sự ổn định và phát triển của toàn xã hội.
Quản lý nhà nước là hình thức quản lý xã hội đặc biệt, thể hiện quyền lực của nhà nước thông qua việc sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân và tổ chức trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Các cơ quan nhà nước thực hiện quản lý này nhằm phục vụ nhân dân, đồng thời duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Khái niệm về quản lý Nhà nước về đất nông, lâm nghiệp
Đất nông, lâm nghiệp là loại đất được sử dụng cho các mục đích sản xuất và nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối và bảo vệ, phát triển rừng Loại đất này bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và các loại đất nông nghiệp khác.
Nhóm đất nông, lâm nghiệp bao gồm nhiều loại đất quan trọng như đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và các loại đất nông nghiệp khác (Quốc hội, 2013).
Quản lý nhà nước về đất đai
Quản lý nhà nước là quá trình tác động có tổ chức và hệ thống nhằm điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức bằng quyền lực của nhà nước Mục tiêu là hướng ý chí và mục đích của họ theo lợi ích chung của toàn xã hội.
Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc thiết lập và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, bao gồm quan hệ giữa con người, giữa các tập thể và giữa cá nhân với tập thể Các mối quan hệ này rất đa dạng và cần được quản lý để bảo vệ lợi ích của từng cá nhân mà không xâm phạm đến lợi ích của người khác, từ đó đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững cho đất nước.
Cơ sở thực tiễn quản lý nhà nước về đất nông, lâm nghiệp
2.2.1 Thực tiễn quản lý nhà nướcvề đất nông, lâm nghiệp ở Việt Nam
Luật Đất đai 1993, dựa trên Hiến pháp 1992, đã khắc phục nhiều nhược điểm của Luật Đất đai 1987 và sửa đổi các quy định không còn phù hợp, nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng trong quản lý và sử dụng đất đai Luật này đã thiết lập cơ sở pháp lý cần thiết để chuyển đổi quan hệ đất đai ở Việt Nam sang cơ chế thị trường, đồng thời vẫn đảm bảo sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngày 26 tháng 12 năm 2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật Đất đai mới - Luật Đất đai năm2003 Với quan điểm và nguyên tắc:
Để đảm bảo tuân thủ nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp 1992, "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý", cần thiết phải thể chế hóa các quan điểm về việc "Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".
Luật Đất đai mới kế thừa những quy định phù hợp từ Luật đất đai hiện hành và luật hóa các quy định đã được thực tiễn chấp nhận trong các văn bản hướng dẫn thi hành Đồng thời, luật cũng bổ sung những nội dung mới cần thiết để xây dựng một hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Gắn việc sửa đổi Luật đất đai với yêu cầu đổi mới việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và cải cách nền hành chính Nhà nước.
Kể từ khi Luật đất đai 2003 có hiệu lực, quản lý và sử dụng đất nông, lâm nghiệp đã đạt nhiều thành tựu quan trọng Quỹ đất sản xuất được phân bổ hợp lý, bảo vệ đất trồng lúa, rừng tự nhiên, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, đồng thời hình thành các vùng chuyên canh phù hợp với tiềm năng từng khu vực Diện tích đất nuôi trồng thủy sản cũng tăng lên, góp phần nâng cao sản lượng và đáp ứng nguyên liệu cho ngành chế biến, giúp Việt Nam trở thành nước xuất khẩu thủy sản lớn thứ 6 thế giới.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế về quản lý, sử dụng đất nông, lâm nghiệp như:
Quản lý và sử dụng đất nông, lâm nghiệp hiện nay gặp nhiều bất cập, dẫn đến hiệu quả thấp Theo Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, tốc độ tăng hệ số sử dụng đất lúa đã giảm từ 2,15% trong giai đoạn 1990 - 2000 xuống còn -0,03% trong giai đoạn 2000 - 2009, làm cho tỷ lệ đóng góp của hệ số sử dụng đất vào tăng trưởng cũng giảm từ 40,4% trong giai đoạn 1990.
Giai đoạn 2000 - 2009, ngành Lâm nghiệp ghi nhận sự giảm sút với GDP giảm -1,5%, dù diện tích rừng lớn lên tới gần 14 triệu ha Đóng góp của ngành này cho GDP chỉ khoảng 1% nếu tính giá trị kinh tế đơn thuần, và khoảng 3-4% khi bao gồm cả giá trị môi trường Hiện tại, chưa có nghiên cứu cụ thể nào, nhưng có thể khẳng định rằng hệ số đóng góp này không có dấu hiệu tăng lên, thậm chí có thể còn giảm thêm.
Hạn chế trong quản lý đất nông, lâm nghiệp phần lớn xuất phát từ nguồn gốc lịch sử phức tạp và sự biến đổi của chính sách qua nhiều thời kỳ Sự chuyển đổi từ mô hình quản lý hành chính sang cơ chế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế đã tạo ra những khó khăn Ngoài ra, một số chính sách đất nông nghiệp của Đảng chậm được đổi mới, cùng với cơ chế quản lý chưa hợp lý, đã dẫn đến hệ thống chính sách và pháp luật phức tạp, chồng chéo và lạc hậu, gây khó khăn trong thực hiện và tạo kẽ hở cho hành vi tiêu cực Do đó, cần đánh giá đúng thực trạng quản lý đất nông nghiệp để đưa ra các chính sách kịp thời khắc phục.
2.2.2 Kinh nghiệm quản lý nhà nước về đất nông, lâm nghiệp tại một số huyệntrong tỉnh và ngoài tỉnh.
2.2.2.1 Huyện Kim Bôi tỉnh Hòa Bình
Kim Bôi là một huyện miền núi thuộc tỉnh Hòa Bình, có độ cao khoảng 310m so với mặt nước biển Địa hình huyện được hình thành từ các dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, với độ cao dao động từ 200m đến hơn 500m Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và nghiêng từ Tây sang Đông, xen kẽ giữa các dãy núi cao là những thung lũng, sông suối nhỏ hẹp và dốc Toàn bộ địa bàn huyện Kim Bôi có thể được chia thành hai vùng địa hình khác nhau.
Theo số liệu kiểm kê năm 2017, huyện Kim Bôi có tổng diện tích đất tự nhiên là 54.950,64 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 76,90% (42.255,51 ha), đất phi nông nghiệp chiếm 9,22% (5.068,62 ha), và đất chưa sử dụng chiếm 13,88% (7.626,51 ha) Diện tích rừng của huyện đạt 35.487,14 ha, tương đương 64,58% tổng diện tích đất tự nhiên, với độ che phủ rừng đạt 48,0% Hiện nay, huyện có 22.563 ha rừng với trữ lượng gỗ khoảng 20.000 m³, cùng với nguồn tài nguyên thực vật phong phú như bương, tre, nứa, có thể khai thác khoảng 700.000 cây mỗi năm.
Hiện nay, quỹ đất nông, lâm nghiệp huyện được khai thác và sử dụng hợp lý hơn, nhờ việc giao đất sản xuất ổn định cho nông dân theo Nghị định 64/NĐ-CP và cấp Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất Điều này giúp nông dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách chủ động và đúng pháp luật Họ yên tâm đầu tư khai thác ruộng đất và tích cực chuyển đổi đất để xây dựng cánh đồng có thu nhập cao Sản xuất nông nghiệp hàng năm tạo ra khối lượng nông sản lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và nguyên liệu cho ngành chế biến Đồng thời, việc đa dạng hóa cây trồng và đưa giống cây năng suất cao vào sản xuất giúp tăng hệ số gieo trồng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất và thu nhập cho người dân.
Quá trình chuyển đổi từ đất nông, lâm nghiệp sang đất chuyên dùng đang gia tăng theo sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương Sự gia tăng này phù hợp với quy luật phát triển kinh tế và xã hội Trong những năm tới, diện tích đất chuyên dùng dự kiến sẽ tiếp tục tăng do huyện đang tập trung vào công nghiệp hóa - hiện đại hóa Việc cân đối quỹ đất cho các mục tiêu phát triển cần được ưu tiên hàng đầu.
Huyện Kim Bôi đã chú trọng nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước về đất đai, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất nông nghiệp Việc thường xuyên thanh tra, kiểm tra và giám sát thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đã giúp hạn chế tình trạng lấn chiếm và sử dụng đất sai mục đích Đồng thời, huyện cũng kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai, góp phần giữ vững an ninh trật tự và ổn định xã hội.
Một số bài học từ công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp của huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình:
Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông, lâm nghiệp, cần đẩy mạnh việc cấp Giấy Chứng Nhận quyền sử dụng đất cho người dân Điều này giúp họ thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách chủ động và đúng pháp luật, từ đó yên tâm đầu tư khai thác ruộng đất Nông dân cũng sẽ tích cực chuyển đổi đất để xây dựng cánh đồng mẫu lớn, góp phần gia tăng thu nhập.
Lập và quản lý quy hoạch sử dụng đất nông, lâm nghiệp một cách khoa học là cần thiết để đảm bảo sự đồng bộ với các loại đất khác, góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội bền vững của địa phương.
Ba là, cần chú trọng nâng cao cả số lượng lẫn trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước về đất đai, đặc biệt là trong lĩnh vực đất nông, lâm nghiệp ở các cấp.