1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ đẻ thường tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 2020

70 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 70
Dung lượng 704,21 KB

Cấu trúc

  • Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN (0)
    • 1.1. Sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ (12)
      • 1.1.1. Khái niệm về sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ (12)
      • 1.1.2. Cách ngậm bắt vú và tư thế bú đúng (13)
      • 1.1.3. Lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ (13)
      • 1.1.4. Lợi ích của bú sớm sau sinh (14)
    • 1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành bú sớm và bú mẹ hoàn toàn (15)
    • 1.3. Vai trò của người cha với thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (17)
  • Chương 2. MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT (0)
    • 2.1. Trên thế giới (20)
    • 2.2. Ở Việt Nam (20)
    • 2.3. Tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương (22)
    • 2.4. Kết quả thu thập số liệu (23)
      • 2.4.1. Thông tin chung (23)
      • 2.4.2. Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (27)
        • 2.4.2.1. Kiến thức của người cha về nuôi con bằng sữa mẹ (27)
        • 2.4.2.2. Thái độ của người cha về hỗ trợ vợ NCBSM (32)
        • 2.4.2.3. Tham gia hỗ trợ thực hành NCBSM (35)
  • Chương 3. BÀN LUẬN (0)
    • 3.1. Kiến thức của người cha về nuôi con bằng sữa mẹ (40)
    • 3.2. Thái độ của người cha về nuôi con bằng sữa mẹ (42)
    • 3.3. Sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (44)
    • 1. Thuận lợi và khó khăn (46)
    • 2. Giải pháp giải quyết vấn đề (47)
  • KẾT LUẬN (51)
    • 1. Thực trạng kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (51)
    • 2. Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao kiến thức về NCBSM, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành NCBSM (51)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ

1.1.1 Khái niệm về sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ

Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng hoàn hảo cho sự phát triển của trẻ, cung cấp đầy đủ chất béo, đạm, đường, vitamin, muối khoáng và nước, dễ tiêu hóa và không cần chuẩn bị Trong 6 tháng đầu đời, trẻ chỉ cần bú sữa mẹ để đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng mà không cần thức ăn hay nước uống nào khác Sữa non, tiết ra trong vài ngày đầu sau sinh, có màu vàng nhạt và chứa nhiều kháng thể, tế bào bạch cầu, giúp bảo vệ trẻ khỏi nhiễm khuẩn và dị ứng Nó còn hỗ trợ việc tống phân su, giảm tình trạng vàng da, và chứa vitamin A giúp chống nhiễm khuẩn Để đảm bảo sức khỏe tối ưu, trẻ cần được bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh và không nên cho ăn bất kỳ thức ăn nào khác ngoài sữa mẹ.

Sữa trưởng thành bao gồm sữa đầu và sữa cuối, trong đó sữa đầu có màu hơi xanh và cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cùng nước cho trẻ Do đó, trẻ không cần uống thêm nước hay đồ uống khác trước 6 tháng tuổi, ngay cả trong thời tiết nóng Sữa cuối, có màu trắng hơn, chứa nhiều chất béo và năng lượng Để trẻ nhận được sữa cuối đầy đủ, cần cho trẻ bú kiệt một bên vú trước khi chuyển sang bên còn lại.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), nuôi con bằng sữa mẹ là phương pháp nuôi dưỡng trẻ em thông qua việc trẻ bú trực tiếp hoặc sử dụng sữa mẹ vắt ra Nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ có nghĩa là chỉ cho trẻ bú mẹ mà không bổ sung bất kỳ thực phẩm hay nước uống nào khác, ngoại trừ thuốc, vitamin và khoáng chất Tỷ lệ trẻ được bú sớm sau sinh được tính bằng số trẻ dưới 24 tháng tuổi bú mẹ trong vòng 1 giờ sau sinh so với tổng số trẻ trong độ tuổi này Tương tự, tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn được xác định bằng số trẻ dưới 6 tháng bú mẹ hoàn toàn trong 24 giờ so với tổng số trẻ dưới 6 tháng WHO và Hướng dẫn chuẩn quốc gia về dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản khẳng định rằng trẻ nên được bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh.

1.1.2 Cách ngậm bắt vú và tư thế bú đúng

Việc cho con bú mẹ hiệu quả phụ thuộc vào tư thế bú đúng và cách ngậm bắt vú chính xác Tư thế bú đúng là khi đầu và thân trẻ tạo thành một đường thẳng, mặt trẻ hướng về vú, môi trẻ đối diện với núm vú, và thân trẻ sát với cơ thể mẹ Mẹ cần đỡ phía dưới mông trẻ để tạo sự thoải mái và hỗ trợ trong quá trình bú.

Để trẻ ngậm bắt vú đúng cách, cằm của trẻ cần chạm vào vú mẹ, miệng mở rộng, và quầng vú phía trên miệng trẻ phải rộng hơn phía dưới Trẻ nên đưa lưỡi tới dưới xoang sữa để ép sữa ra, đồng thời má của trẻ phải căng phồng.

1.1.3 Lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ

NCBSM là phương pháp nuôi dưỡng tự nhiên quan trọng cho sự phát triển của trẻ và sức khỏe của mẹ Sữa mẹ vô khuẩn giúp trẻ chống lại bệnh nhiễm khuẩn nhờ các yếu tố kháng khuẩn như Globulin miễn dịch IgA, lactoferin và lysozym Các kháng thể từ mẹ truyền qua rau thai giúp trẻ có sức đề kháng trong 4-6 tháng đầu, giảm nguy cơ tiêu chảy IgA hoạt động tại ruột để chống lại vi khuẩn E.coli, trong khi lactoferin ngăn vi khuẩn phát triển nhờ tính chất kìm khuẩn Lysozym tiêu diệt vi khuẩn, và lympho bào sản xuất IgA và interferon để ức chế virus Việc cho trẻ bú mẹ không chỉ giúp trẻ phát triển sức khỏe mà còn tăng cường mối liên kết tình cảm giữa mẹ và con, giảm quấy khóc và thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của trẻ.

Cho con bú không chỉ giúp bà mẹ tránh thai nhờ việc kích thích tuyến yên tiết ra prolactin, mà còn hỗ trợ co hồi tử cung và cầm máu sau sinh Việc cho con bú thường xuyên còn giúp mẹ nhanh chóng lấy lại vóc dáng và giảm nguy cơ mắc ung thư vú Hơn nữa, nuôi con bằng sữa mẹ là lựa chọn kinh tế và thuận tiện hơn so với sữa công thức, vì vậy đây là phương pháp nuôi con được khuyến nghị trên toàn thế giới.

Cho con bú sữa mẹ không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn rất tiện lợi, vì mẹ có thể cho con ăn mọi lúc mà không cần chuẩn bị hay nấu nướng Sữa mẹ hoàn toàn miễn phí, chỉ cần mẹ duy trì chế độ ăn uống đầy đủ và giữ tinh thần thoải mái để có đủ sữa cho con.

1.1.4 Lợi ích của bú sớm sau sinh

Việc cho trẻ bú sớm sau sinh không chỉ mang lại lợi ích cho trẻ mà còn cho cả bà mẹ Cho con bú mẹ ngay sau sinh giúp giảm nguy cơ đột tử sơ sinh (SIDS), với nghiên cứu năm 2009 cho thấy trẻ 1 tháng tuổi bú mẹ hoàn toàn có nguy cơ SIDS giảm một nửa Sữa non, mặc dù không nhiều, nhưng đủ chất lượng và phù hợp với hệ tiêu hóa của trẻ, còn có tác dụng sổ nhẹ, giúp tống phân su và đào thải bilirubin nhanh chóng, từ đó giảm thời gian vàng da ở trẻ Ngoài ra, sữa non chứa nhiều yếu tố phát triển và vitamin A, hỗ trợ sự trưởng thành của hệ tiêu hóa và giảm nhẹ bệnh khi trẻ mắc bệnh Đối với mẹ, việc cho con bú sớm tăng cường tình cảm mẹ con, kích thích tiết oxytocin, giúp co hồi tử cung và giảm nguy cơ băng huyết sau sinh, đồng thời giảm nguy cơ mắc các bệnh ung thư như ung thư vú và ung thư buồng trứng.

Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành bú sớm và bú mẹ hoàn toàn

Trong bài viết này, chúng tôi phân tích vai trò của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) thông qua ba yếu tố chính Đầu tiên, kiến thức của người cha về NCBSM, bao gồm hiểu biết về các khuyến nghị về sữa mẹ (BSSS) và kiến thức tổng quát về NCBSM, bị ảnh hưởng bởi các yếu tố cá nhân như tuổi tác, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập và kinh nghiệm chăm sóc trẻ nhỏ, cũng như khả năng tiếp cận thông tin y tế từ nhân viên y tế, lớp tiền sản và các phương tiện truyền thông Thứ hai, thái độ của người cha đối với thực hành NCBSM và BSSS, cùng với việc hỗ trợ vợ trong quá trình này, cũng đóng vai trò quan trọng Cuối cùng, sự hỗ trợ thực tế của người cha trong việc thực hiện NCBSM là yếu tố không thể thiếu trong việc thúc đẩy thành công của việc nuôi con bằng sữa mẹ.

Tiếp cận thông tin y tế của cha:

Từ nhân viên y tế, lớp tiền sản

Từ TT đại chúng, loa, đài, tivi, internet

Yếu tố cá nhân của cha: Tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập, kinh nghiệm chăm sóc trẻ nhỏ

Thái độ của cha về:

BSSS, NCBSM hoàn toàn, hỗ trợ vợ NCBSM

Kiến thức của cha về NCBSM:

Kiến thức về BSSS Kiến thức về NCBSM hoàn toàn Yếu tố liên quan đến việc đã có con

Cha hỗ trợ mẹ NCBSM

Cách đẻ (đẻ thường, mổ đẻ) Trọng lượng sinh, giới tính

BSSS, NCBSM hoàn toàn tại thời điểm ra viẹn

Yếu tố từ mẹ: Đặc điểm cá nhân (tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi ở) Điều kiện kinh tế gia đình

Khó khăn khi cho con BSSS

Yếu tố môi trường: Nội quy của bệnh viện

Mô hình gia đình Những người chăm sóc Thời gian về với mẹ Tiếp thị sữa thay thế

Vai trò của người cha với thực hành nuôi con bằng sữa mẹ

Trong những năm gần đây, vai trò của người cha trong việc nuôi dạy con cái đã trở thành một chủ đề nghiên cứu được nhiều tác giả quan tâm Từ đầu thập kỷ 90, Freed và các nhà nghiên cứu khác đã bắt đầu khám phá ảnh hưởng của người cha đối với sự phát triển và giáo dục của trẻ.

G L cùng với J K Fraley và cộng sự tại Hoa Kỳ đã nghiên cứu về thái độ của những người nam giới sắp có con (những ông bố tương lai) đối với việc NCBSM Kết quả cho thấy người cha thường tham gia vào việc lựa chọn phương pháp nuôi dưỡng trẻ sơ sinh Tuy nhiên họ thường không được đưa vào trong các chương trình giáo dục truyền thông về NCBSM Qua khảo sát 268 người đàn ông trước khi được tuyển chọn vào khóa học giáo dục về sinh con, 58% (n6) cho biết vợ chồng họ đã lên kế hoạch để NCBSM hoàn toàn; một số khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa người đàn ông này và những người có kế hoạch cho con bú ngoài hoàn toàn Nhóm dự định cho con bú mẹ có xu hướng tin rằng bú sữa mẹ là tốt hơn cho trẻ (96% và 62%, P < 0,0001), giúp tăng cường gắn bó mẹ con (92% và 53%, P < 0,0001), và bảo vệ trẻ sơ sinh (79% và 47%, P < 0,001) Nhóm cho con bú mẹ cũng có nhiều khả năng muốn vợ/bạn gái của họ NCBSM (90% và 13%, P < 0,0001) và có sự tôn trọng người phụ nữ cho con bú (57% và 16%, P < 0,001) Ngược lại, những người trong nhóm muốn cho con ăn sữa ngoài có nhiều khả năng suy nghĩ cho con bú không tốt cho ngực (52% và 22%, P < 0,01), làm cho ngực xấu đi (445 và 23%, P < 0,0001) Đa số của cả hai nhóm không chấp nhận việc cho con bú ở nơi công cộng (nhóm cho con bú mẹ 1%, cho bú sữa ngoài 78%, P < 0,05) [28]

Năm 2003, một nghiên cứu tại Thụy Điển cho thấy rằng trẻ em có cha có trình độ học vấn thấp, nhận trợ cấp thất nghiệp hoặc có thu nhập thấp thường ít được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ đến 12 tháng tuổi Ngoài ra, những cha không có thời gian nghỉ phép khi con ra đời cũng dẫn đến tỷ lệ cho con bú thấp hơn ở các mốc 2, 4 và 6 tháng tuổi Nghiên cứu tại Tây Úc năm 2013 đã khẳng định rằng giáo dục và hỗ trợ cho cha trong việc cho con bú có thể cải thiện tỷ lệ cho con bú.

Nghiên cứu của Calen I và cộng sự (2005) đã chỉ ra mối liên quan giữa thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) với đặc điểm cá nhân và nghề nghiệp của người cha, cũng như sự hỗ trợ của họ Tại Việt Nam, các nghiên cứu về vai trò của người cha trong NCBSM đã được thực hiện, cho thấy sự tham gia của người cha trong chăm sóc sức khỏe con cái giúp giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng Ngoài ra, sự hỗ trợ của người cha cũng có tác động tích cực đến việc tăng tỷ lệ bà mẹ thực hành NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sự tham gia của người cha trong NCBSM còn hạn chế, với hơn 90% người chồng không nhắc vợ cho con bú sớm Các kênh thông tin như truyền thông đại chúng và cán bộ y tế là nguồn thông tin chính về NCBSM cho các ông chồng Những người chồng thiếu kiến thức và có thái độ tiêu cực đối với NCBSM có khả năng không hỗ trợ vợ trong việc cho con bú sớm cao hơn so với nhóm có kiến thức và thái độ tích cực.

Kiến thức đúng của người cha về nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) có sự khác biệt rõ rệt giữa hai nhóm: cha có vợ cho con bú đạt tỷ lệ 70% và cha có vợ không cho con bú chỉ đạt 40% Điều này cho thấy vai trò quan trọng của kiến thức người cha trong việc thực hành NCBSM của bà mẹ.

Nghiên cứu của Vũ Thị Hà năm 2014 cho thấy chỉ có 44,1% người cha biết về thời gian nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn (NCBSM), trong khi 40% vẫn chưa nắm rõ thông tin này Hơn nữa, 37,1% người cha không có kiến thức đúng về khái niệm NCBSM hoàn toàn Sự tham gia của người cha trong việc hỗ trợ bà mẹ tiếp tục NCBSM cũng rất hạn chế, với 56% người cha thực hành chưa tốt trong việc khuyến khích bà mẹ và 67,3% không hỗ trợ hiệu quả trong quá trình này.

Bệnh viện PSTƯ đã triển khai nhiều chương trình nhằm thực hiện sáng kiến Bệnh viện Bạn hữu trẻ em, bao gồm các lớp học tiền sản cho các ông bố, bà mẹ tương lai và người thân của thai phụ, nhằm cung cấp kiến thức cơ bản về nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) Tuy nhiên, vai trò và thái độ của người cha trong thực hành NCBSM của các bà mẹ tại bệnh viện vẫn chưa được nghiên cứu Kết quả nghiên cứu này sẽ làm sáng tỏ vấn đề và cung cấp bằng chứng cho lãnh đạo bệnh viện về sự cần thiết điều chỉnh nội dung và hình thức hỗ trợ cho người cha, nhằm nâng cao vai trò của họ trong NCBSM Việc thực hiện tốt vai trò hỗ trợ của người cha tại bệnh viện sẽ là tiền đề giúp vợ có sữa và thực hành NCBSM hiệu quả, khởi đầu cho giai đoạn nuôi con lâu dài sau này.

MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT

Trên thế giới

Theo số liệu từ 64 nước đang phát triển, chiếm 69% số trẻ sinh ra trên thế giới, tình trạng dinh dưỡng đã có sự cải thiện rõ rệt Từ năm 1996 đến 2006, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đã tăng từ 33% lên 37% Đặc biệt, khu vực cận sa mạc Saharan ở châu Phi ghi nhận mức tăng ấn tượng từ 22% lên 30%, trong khi châu Âu cũng có sự cải thiện từ 10% lên 19% Tại châu Mỹ Latinh và Caribean, ngoại trừ Mexico và Brazil, tỷ lệ trẻ sơ sinh được bú mẹ hoàn toàn đã tăng từ 30% lên 45%.

Theo báo cáo của UNICEF năm 2009, chỉ có 38% trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn, trong khi tỷ lệ này ở trẻ từ 6 - 9 tháng tuổi là 55% và 50% ở trẻ từ 20 - 23 tháng tuổi Tại các nước đang phát triển, tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú sữa mẹ hoàn toàn là 39%, còn ở các nước kém phát triển là 37% Đối với trẻ được tiếp tục bú sữa mẹ đến 24 tháng tuổi, tỷ lệ ở các nước đang phát triển là 51%, và ở các nước kém phát triển là 64%.

Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra tầm quan trọng của việc nuôi con bằng sữa mẹ và cho con bú sớm sau sinh Tuy nhiên, tỷ lệ cho con bú sớm sau sinh vẫn còn thấp ở một số khu vực, cụ thể là 17% ở Đông Âu và Trung Á, 33% ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương, trong khi tỷ lệ cao nhất là 50% ở Mỹ La tinh, Caribe, Bắc và Đông Phi.

Theo khảo sát sức khỏe gia đình quốc gia Ấn Độ, tỷ lệ trẻ em bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ sau sinh tại nông thôn Ấn Độ là 21,5%, trong khi ở nông thôn Tây Bengal là 24,5% Nghiên cứu năm 2009 tại Singur, Hooghly cho thấy tỷ lệ này cao hơn, đạt 34,2% Đối với trẻ em từ 0 - 5 tháng tuổi, tỷ lệ bú sữa mẹ tại nông thôn Ấn Độ là hơn 48,3%, trong khi tại nông thôn Tây Bengal là 57,1%.

Ở Việt Nam

Dữ liệu điều tra gần đây tại Việt Nam cho thấy tỷ lệ cho con bú sớm cao, tuy nhiên tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu lại thấp và không có sự gia tăng Nghiên cứu về thực hành nuôi con của các bà mẹ dân tộc cho thấy những vấn đề cần được cải thiện để nâng cao tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ.

Tại huyện Lương Sơn, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu chỉ đạt 21,6%, trong khi 66,2% bà mẹ cho con bú ngay trong nửa giờ đầu sau sinh Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến tình trạng không được bú mẹ hoàn toàn của trẻ trong giai đoạn này là tác động từ gia đình (P < 0,05).

Kết quả điều tra của Dự án A&T năm 2010 cho thấy tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu chỉ đạt 18,4%, trong khi tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ chủ yếu là 44,7% Năm 2011, khảo sát tại 11 tỉnh cho thấy tỷ lệ trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu vẫn thấp, chỉ 20,2%, và tỷ lệ trẻ bú sữa mẹ chủ yếu là 54,6% Đặc biệt, tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ trong vòng giờ đầu sau sinh là 50,5%.

Một nghiên cứu tại huyện Quỳnh Bảng, tỉnh Nghệ An cho thấy 70% bà mẹ cho con bú trong vòng 1 giờ sau sinh, nhưng chỉ 36% nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 4-6 tháng đầu Nguyên nhân chính cho việc cho ăn dặm sớm là do bà mẹ phải trở lại công việc đồng áng chỉ sau vài ngày sinh mà không nhận được sự hỗ trợ từ chồng Nam giới thường tập trung vào công việc khai thác đá hoặc nuôi tôm, khiến công việc đồng ruộng trở thành gánh nặng chủ yếu cho phụ nữ, bất kể họ vừa sinh hay đang nuôi con nhỏ.

Nghiên cứu của Đinh Thị Phương Hòa năm 2006 về thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) tại 4 bệnh viện ở Hà Nội cho thấy tỷ lệ các bà mẹ thực hành cho con bú sữa non trong ngày đầu sau sinh còn hạn chế, chỉ đạt 44,1% trong số 540 bà mẹ được khảo sát.

Theo nghiên cứu của Trần Thị Hải Dung tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm

Năm 2013, chỉ có 33,8% bà mẹ thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh, chủ yếu do cảm thấy đau và mệt mỏi (81,3%) Trong số 290 bà mẹ nghiên cứu, 75 sản phụ mổ đẻ (25,9%) không cho trẻ bú sớm Một nghiên cứu từ Viện Dinh dưỡng quốc gia cho thấy tỉ lệ cho con bú ngay trong 30 phút đầu sau sinh đạt 75,2%, và 82% bà mẹ cho con bú hoàn toàn Tuy nhiên, chỉ 16,9% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, 38,7% bà mẹ đã cho trẻ ăn thức ăn khác trong tuần đầu, 7% trẻ bị cai sữa sớm trong vòng 12 tháng, và 21,9% trẻ được nuôi bằng sữa bình.

Nghiên cứu của Nông Thị Thu Trang tại bệnh viện PSTƯ năm 2009 cho thấy kiến thức của các bà mẹ về việc cho trẻ bú sớm còn hạn chế Mặc dù kiến thức về sữa non và lợi ích của nó đối với trẻ sơ sinh tương đối tốt, nhưng chỉ gần một nửa số bà mẹ nắm rõ thời gian cho con bú sớm Tỷ lệ bà mẹ cho bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh chỉ đạt 31%, trong khi đó, tỷ lệ bà mẹ có tư thế cho con bú đúng và con ngậm bắt núm bú đúng lần lượt chỉ đạt 25,4% và 24,4% Đặc biệt, tỷ lệ bà mẹ không cho trẻ ăn hoặc uống thứ khác trước khi bú mẹ lần đầu theo khuyến nghị về nuôi con bằng sữa mẹ lại khá cao, chiếm 76,9%.

Tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương

Trong kế hoạch hành động quốc gia vì sự sống còn trẻ em giai đoạn 2009 –

Vào năm 2015, Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Nhi Trung ương đã phối hợp chỉ đạo và hỗ trợ xây dựng kế hoạch chăm sóc, điều trị cho bà mẹ và trẻ em trên toàn quốc Một trong những mục tiêu quan trọng của kế hoạch này là nâng cao tỉ lệ cho trẻ bú sớm sau sinh, góp phần giảm tỉ lệ tử vong sơ sinh.

Bệnh viện Phụ sản Trung ương tham gia chương trình "Bệnh viện bạn hữu trẻ em" của Việt Nam, một sáng kiến toàn cầu của WHO và UNICEF ra mắt năm 1991 Chương trình này nhằm nâng cao vai trò của dịch vụ thai sản trong việc khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ, đảm bảo cho trẻ em một khởi đầu tốt trong cuộc sống.

Bệnh viện Phụ sản Trung ương, được công nhận danh hiệu Bệnh viện Bạn hữu Trẻ em từ năm 2000, đã tích cực triển khai chương trình nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) Ban điều hành thường xuyên giám sát và kiểm tra việc thực hiện NCBSM tại các khoa, đồng thời phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp quảng cáo và bán sữa cho bệnh nhân trong bệnh viện Bệnh viện cũng tổ chức các lớp tập huấn định kỳ cho cán bộ viên chức theo chương trình của Bộ Y tế Để nâng cao nhận thức cho phụ nữ mang thai và người nhà bệnh nhân, 10 quy định về NCBSM được niêm yết tại các khoa, kèm theo tờ rơi hướng dẫn về cách cho con bú, phòng ngừa bệnh cho trẻ sơ sinh, và hướng dẫn nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu.

Các hình thức cung cấp kiến thức cho mẹ tại bệnh viện rất đa dạng, nhưng tỷ lệ cho con bú sớm và bú mẹ hoàn toàn vẫn thấp Điều này đặt ra câu hỏi về vai trò của người cha trong việc hỗ trợ các bà mẹ sau sinh, cũng như sự khác biệt trong kiến thức và thái độ của nam giới có vợ sinh tại các tuyến khác nhau Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu mức độ tiếp thu thông tin từ bệnh viện của người cha, từ đó giúp lãnh đạo bệnh viện xây dựng kế hoạch cung cấp thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khỏe phù hợp Đặc biệt, nghiên cứu sẽ làm rõ vai trò của các kênh thông tin cho người cha, đặc biệt là trong giai đoạn tiền sản, và hiệu quả của các hoạt động này trong việc truyền đạt kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ Khoa Sản thường tiếp nhận các sản phụ không có bệnh kèm theo, với quy định về giờ thăm và sự hiện diện của người nhà trong trường hợp mổ đẻ.

Bệnh viện PSTƯ hiện đang thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Y tế về chăm sóc thiết yếu sau sinh cho mẹ và con, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc khuyến khích tiếp xúc da kề da giữa mẹ và con ngay sau khi sinh.

Kết quả thu thập số liệu

Theo thống kê từ 369 người cha tham gia khảo sát với 56 câu hỏi tại khoa sản Thường, Bệnh viện Phụ sản Trung ương trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2020, kết quả cho thấy

Từ phân tích mô tả ĐTNC, chúng tôi thu được một số thông tin chung của người cha, người mẹ, trẻ và đặc điểm hộ gia đình như sau:

Bảng 2.1 Thông tin chung về người cha Đặc điểm Tần suất Tỉ lệ (%)

Tiểu học, trung học cơ sở Trung học phổ thông, trung cấp

Cao đẳng, đại học Trên đại học

Nông nghiệp Công nhân, thợ thủ công Buôn bán, dịch vụ Cán bộ/ công chức Lao động tự do

Trong nghiên cứu với 369 người cha, độ tuổi từ 25 đến 34 chiếm tỉ lệ cao nhất với 68,3%, tiếp theo là nhóm tuổi từ 35 trở lên với 24,7%, trong khi đó, độ tuổi từ 18 đến 24 chỉ chiếm 7% Về trình độ học vấn, 45,3% người cha có trình độ trung học phổ thông và trung cấp, trong khi 43,1% có trình độ cao đẳng và đại học, và chỉ 6% người cha có trình độ trên đại học.

Trong số các bậc cha, tỉ lệ người làm cán bộ, công chức chiếm ưu thế nhất với 39,5% Tiếp theo là lao động tự do, chiếm 18,7%, và công nhân, thợ thủ công với 15,2% Phần còn lại thuộc về các nghề khác.

Trong một nghiên cứu với 369 cặp vợ chồng, có 52,3% sống ở nông thôn và 47,7% ở thành thị Đối tượng chủ yếu là người cha dân tộc Kinh, chiếm 98,1%, bên cạnh đó còn có các dân tộc khác như Tày, Mông đến từ các tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.

Bảng 2.2 Thông tin chung về bà mẹ Đặc điểm Tần suất Tỉ lệ

Tiểu học + Trung học cơ sở Trung học phổ thông, trung cấp

Cao đẳng, đại học Trên đại học

Nông nghiệp Công nhân, thợ thủ công Buôn bán, dịch vụ Cán bộ/ công chức Lao động tự do

Kết quả nghiên cứu cho thấy trong số 369 bà mẹ tham gia, tỷ lệ cao nhất thuộc về nhóm tuổi 19 – 24 với 70,7%, trong khi nhóm tuổi từ 35 trở lên chỉ chiếm 13% Về trình độ học vấn, 173 bà mẹ hoàn thành trung học phổ thông và trung cấp, chiếm 46,9%, trong khi tỷ lệ bà mẹ có trình độ trên đại học chỉ là 1,3% Ngoài ra, nghề nghiệp của các bà mẹ cũng được phân tích, với 46,6% làm công nhân, thợ thủ công, 42,2% là cán bộ công chức, và tỷ lệ thấp nhất thuộc về bà mẹ làm nông nghiệp với 10,3%.

Bảng 2.3 Thông tin chung về trẻ sơ sinh Đặc điểm Tần suất Tỉ lệ (%)

39,8 60,2 Cân nặng khi sinh (gram)

Theo Bảng 2.3, trong số trẻ sơ sinh của ĐTNC, tỷ lệ trẻ nam chiếm 55,6% nhiều hơn trẻ nữ Trọng lượng sơ sinh trung bình là 3178 ± 421 gram, trong đó có 3 trẻ có trọng lượng thấp nhất là 2000 gram (chiếm 1,1%) và 1 trẻ có trọng lượng cao nhất là 4900 gram (chiếm 0,3%).

Trong nghiên cứu, số trẻ vừa sinh ra là con thứ hai trở lên của bà mẹ đạt 222 trẻ, chiếm 60,2%, gần gấp đôi so với số trẻ là con đầu tiên, chỉ có 147 trẻ, chiếm 39,8%.

Bảng 2.4 Đặc điểm của gia đình ĐTNC Đặc điểm Địa dư

Nông thôn Thành thị Tổng Quy mô hộ gia đình

Gia đình hạt nhân Gia đình mở rộng

180 (48,8%) Kinh tế hộ gia đình

Thu nhập khá trở lên Thu nhập thấp

Trong nghiên cứu với 369 cặp vợ chồng, nhóm gia đình hạt nhân chiếm 51,2% trong khi nhóm gia đình mở rộng chiếm 48,8% Đặc biệt, có 217 hộ gia đình có thu nhập khá trở lên, cho thấy tỷ lệ này vượt trội so với 52 hộ gia đình có thu nhập thấp.

2.4.2 Kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ

2.4.2.1 Kiến thức của người cha về nuôi con bằng sữa mẹ

Kiến thức về BSSS của người cha được đánh giá qua thời điểm cho trẻ bú ngay sau sinh, khả năng nhận biết sữa non và sữa đầu, cũng như hiểu biết về lợi ích của việc bú sớm đối với cả mẹ và trẻ Dưới đây là kết quả đo lường kiến thức của người cha về BSSS.

Bảng 2.5 Kiến thức của cha về BSSS

Kiến thức của cha về BSSS N %

Biết thời điểm cho con BSSS

Biết trong vòng 1 giờ đầu

62,9 37,1 Biết gọi tên sữa non/sữa đầu

73,7 26,3 Kết quả bảng 2.5 cho thấy 62,9% người cha biết rằng cần cho con bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh

Mặt khác, số người cha biết tên gọi sữa non/sữa đầu là 73,7% cao hơn hẳn số người cha không biết kiến thức này (26,3%)

Bú sữa non, thức ăn tốt nhất cho trẻ

Trẻ có nhiều sữa mẹ hơn để bú

Giữ ấm cho trẻ Giúp tống phân su nhanh

Biểu đồ 2.1 cho thấy kiến thức của người cha về lợi ích của BSSS đối với trẻ em Cụ thể, người cha nhận thức rõ ràng về lợi ích “bú sữa non, thức ăn tốt nhất cho trẻ”, với tỷ lệ 67,6% ở nông thôn và 69,9% ở thành thị Ngoài ra, người cha cũng hiểu biết về lợi ích của việc cho con bú mẹ sớm.

Tỉ lệ người cha nhận thức được lợi ích của việc cho trẻ bú sữa mẹ nhiều hơn ở nông thôn (30,7%) so với thành thị (25,9%) Tuy nhiên, lợi ích giữ ấm cho trẻ và giúp tống phân su nhanh vẫn chưa được nhiều ông bố biết đến Đáng chú ý, vẫn còn một tỉ lệ không nhỏ các ông bố không nắm rõ lợi ích của bú sữa mẹ, với 13,6% ở nông thôn và 13% ở thành thị.

Giúp tử cung co hồi nhanh

Mẹ cảm thấy yên tâm

Kích thích tiết sữa về, thông tia sữa

Biểu đồ 2.2 cho thấy rằng nhiều người cha đã nhận thức được lợi ích của BSSS đối với sức khỏe của bà mẹ sau sinh, đặc biệt là việc kích thích tiết sữa và thông tia sữa, với tỷ lệ biết đến đạt 50,6% ở nông thôn và 56% ở thành thị Tuy nhiên, kiến thức về việc BSSS giúp tử cung co hồi nhanh vẫn còn hạn chế, với tỷ lệ chỉ 17,6% ở nông thôn và 25,4% ở thành thị.

Tỉ lệ người cha cho rằng BSSS giúp bà mẹ cảm thấy yên tâm là 18,8% và 19,2% ở nông thôn và thành thị

Một tỷ lệ đáng kể các ông bố vẫn chưa nhận thức được lợi ích của BSSS dành cho vợ, với 34,1% ở nông thôn và 25,9% ở thành phố.

Bảng 2.6 Một số kiến thức về NCBSM và thứ tự lần sinh của trẻ Đặc điểm

Thứ tự lần sinh trẻ

Chỉ bú mẹ không ăn uống thêm

Nên cho bú cả ngày và đêm

Tần suất cho con bú

3 tiếng/lần, theo nhu cầu của trẻ

Trong nghiên cứu với 369 người cha, tỷ lệ cha biết đúng khái niệm NCBSM đạt 75,3% Đặc biệt, cha có vợ sinh con lần thứ hai trở lên có tỷ lệ kiến thức cao hơn (77,5%) so với nhóm cha mới có con lần đầu (72,1%).

Tỉ lệ người cha nắm vững kiến thức về thời gian và tần suất cho con bú đạt 83,5% và 97,0% Đặc biệt, các ông bố có con lần thứ hai có tỷ lệ hiểu biết cao hơn (85,1% và 97,7%) so với nhóm cha lần đầu (81,6% và 95,9%) Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai nhóm này không đạt ý nghĩa thống kê với P > 0,05.

Biểu đồ 2.3 Tổng điểm kiến thức về NCBSM của người cha

BÀN LUẬN

Kiến thức của người cha về nuôi con bằng sữa mẹ

Kiến thức của người cha đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thái độ và hỗ trợ cho thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) Theo nghiên cứu của Vũ Thị Hà, chỉ có 44,1% người cha nhận thức được tầm quan trọng của việc cho con bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh Ngược lại, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ này cao hơn, đạt 62,9% Sự khác biệt này có thể do thời điểm phỏng vấn của hai nghiên cứu không giống nhau; nghiên cứu của chúng tôi tiến hành phỏng vấn ngay tại thời điểm ra viện, gần với thời điểm thực hành cho con bú sớm của người vợ.

Nghiên cứu của Vũ Thị Hà chỉ ra rằng khi trẻ được 20 - 24 tháng tuổi, người cha thường gặp khó khăn trong việc nhớ lại những kiến thức liên quan đến giai đoạn mới sinh con.

Kết quả nghiên cứu cho thấy 73,7% người cha biết tên gọi sữa non/sữa đầu, cao hơn nhiều so với 26,3% người cha không biết Tỉ lệ này vượt trội so với nghiên cứu của Trần Hữu Bích và Đinh Thị Phương Hòa tại khu vực nông thôn Việt Nam (37,8%, 40,1%), nhưng lại tương đồng với nghiên cứu của Hoàng Thế Kỷ, nơi có 75% người chồng biết nên cho con bú trong vòng 1 giờ sau sinh tại Thanh Hà, Hải Dương.

Tỉ lệ người cha nắm vững kiến thức về định nghĩa nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM), thời gian và tần suất cho con bú lần lượt đạt 75,6%, 83,3% và 97,6% Những con số này cao hơn rõ rệt so với tỉ lệ người cha không biết về các kiến thức này ở cả ba nhóm tuổi 18-24, 25-34 và từ 35 tuổi trở lên Kết quả nghiên cứu cũng nhất quán với nghiên cứu của Vũ Thị Hà, cho thấy sự khác biệt về kiến thức NCBSM theo từng nhóm tuổi Đặc biệt, tỉ lệ người cha trên 28 tuổi có kiến thức tốt về NCBSM đạt 47,9%, cao hơn so với 31% ở nhóm cha trẻ tuổi dưới 28 tuổi (P=0,028).

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ hiểu biết về thời gian cho con bú cả ngày lẫn đêm đạt 83,5% Theo Hoàng Thế Kỷ, hơn 95% các ông bố cho rằng nên cho con bú liên tục Tuy nhiên, có 10,6% các ông bố cho rằng chỉ nên cho bú khi trẻ khóc, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,01) giữa khu vực nông thôn (7,9%) và thành thị (29,6%).

Trong nghiên cứu này, điểm trung bình kiến thức NCBSM của người cha được xác định là 13,8, với độ lệch chuẩn là 4,7 Điểm cao nhất đạt được là 25, trong khi điểm thấp nhất là 0, trong tổng số điểm tối đa là 30 Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu trước đó tại huyện Thanh Hà, Hải Dương.

Khi phân loại kiến thức của người cha về NCBSM, 53,7% người cha được xác định là chưa đạt, dựa trên giá trị phân vị 50% (14 điểm) Kết quả này cho thấy sự giảm sút so với nghiên cứu tại huyện Gia Lâm năm 2014, khi tỷ lệ người cha chưa đạt là 59%.

Sự chênh lệch trong kiến thức y tế tại huyện Gia Lâm, một huyện ngoại thành phía Bắc Hà Nội, có thể xuất phát từ nghề nghiệp chủ yếu của người cha là công nhân (77,2%), dẫn đến việc tiếp cận thông tin y tế từ các bệnh viện lớn như bệnh viện PSTƯ bị hạn chế Điều này ảnh hưởng đến nhận thức của họ về các vấn đề y tế quan trọng.

Để đáp ứng nhu cầu thực tế, cần đa dạng hóa các hình thức cung cấp thông tin và giáo dục về nuôi dạy con cái cho các ông bố Các chương trình này nên được tổ chức vào cuối tuần, nhằm cung cấp kiến thức kịp thời cho cả cha và mẹ, đặc biệt là những người làm công nhân, thợ thủ công và cán bộ nhà nước (chiếm 54,7%), những người không có thời gian tham dự trong giờ hành chính Việc tổ chức các lớp học tiền sản cũng cần được quảng bá đến các sản phụ và thai phụ cùng chồng của họ khi đến khám và sinh tại bệnh viện thông qua băng rôn, biểu ngữ, bảng thông báo và tờ rơi, giúp họ có kế hoạch tham dự.

Thái độ của người cha về nuôi con bằng sữa mẹ

Quan điểm truyền thống vẫn coi trọng nam giới và xem nhẹ vai trò của phụ nữ, đặc biệt là trong việc chăm sóc gia đình Nghiên cứu cho thấy một tỷ lệ đáng kể nam giới (27,9%) tin rằng nhiệm vụ của họ chỉ là lo những việc lớn, không cần quan tâm đến việc chăm sóc trẻ em, trong khi 45,8% cho rằng việc cho bú là bản năng của phụ nữ và không cần sự hỗ trợ từ chồng Tình hình tại Quỳnh Lưu, Nghệ An cũng tương tự, khi các bà mẹ hầu như không nhận được sự hỗ trợ từ chồng, trong khi nam giới tập trung vào các công việc như khai thác đá hoặc nuôi tôm Do đó, công việc đồng ruộng vẫn được xem là trách nhiệm chính của phụ nữ, bất kể họ đang trong giai đoạn sinh nở hay nuôi con nhỏ.

Sau khi sinh, các bà mẹ thường gặp nhiều khó khăn như đau đớn, mệt mỏi và cần sự hỗ trợ trong việc chăm sóc bản thân, đặc biệt là vệ sinh trước khi cho con bú Vai trò của người cha là rất quan trọng trong việc giúp đỡ mẹ vượt qua những khó khăn này Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự hỗ trợ của người cha có ảnh hưởng lớn đến việc bắt đầu và duy trì cho con bú của mẹ Đặc biệt, phụ nữ có thu nhập thấp thường xem sự hỗ trợ từ nam giới là yếu tố quyết định trong việc cho con bú.

Vai trò của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) có sự khác biệt giữa các nước đang phát triển như Việt Nam và những quốc gia khác Một nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ với 203 người cha cho thấy 92,1% mong muốn con được bú sữa mẹ, trong khi 58,6% đã thảo luận về vấn đề này với vợ Hơn 88,7% người cha cảm thấy hạnh phúc khi hỗ trợ việc nhà để vợ có thời gian cho con bú, và gần một nửa (48,8%) bày tỏ mong muốn tham gia các chương trình giáo dục về NCBSM.

Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng thái độ của người cha đối với việc cho con bú sớm còn hạn chế Theo nghiên cứu của chúng tôi, có tới 42,8% người cha chưa nhận thức đúng về sữa non và cho rằng cần vắt bỏ trước khi cho con bú Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu tại huyện Thanh Hà, Hải Dương (25,9%) Bên cạnh đó, 28,5% người cha vẫn trung lập hoặc đồng tình với việc cho trẻ uống nước hoặc mật ong ngay sau sinh, thấp hơn so với 41% trong nghiên cứu tại Thanh Hà, Hải Dương Chỉ có 53,9% và 61,8% người cha đồng ý rằng việc cho con bú sữa mẹ là rất tốt cho sức khỏe của bé và mẹ Điều này đặt ra câu hỏi về cách cải thiện thái độ của người cha để tăng tỷ lệ cho con bú sữa mẹ sớm.

Nghiên cứu này phân tích thái độ của các ông cha về việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn tại thời điểm ra viện, phản ánh quan điểm của họ sau khi trở về gia đình Trong bối cảnh quảng cáo sữa công thức thay thế sữa mẹ đang tràn lan, có tới 48,2% (178 người) các ông cha đồng tình với việc cho trẻ ăn bổ sung trước 6 tháng tuổi, cho rằng điều này giúp trẻ cứng cáp hơn Họ cũng cho rằng nếu có điều kiện, nên cho trẻ uống thêm sữa ngoài trong 6 tháng đầu.

(205 người cha chiếm 55,6%), sữa mẹ không đủ dinh dưỡng (134 người cha chiếm 36,3%) là chuyện không có gì khó giải thích Cũng theo kết quả ở trên thì có tới

Trong một nghiên cứu, 268 (72,6%) người cha đã nhận được tư vấn về việc sử dụng sữa công thức từ nhiều nguồn khác nhau như cộng tác viên dinh dưỡng, bạn bè, truyền thông và internet, trong khi chỉ có 41 (11,1%) người cha nhận được tư vấn từ nhân viên y tế tại bệnh viện PSTƯ Điều này cho thấy cần có sự can thiệp từ các nhà lãnh đạo ngành y tế và bệnh viện để xử lý nghiêm khắc những nhân viên y tế không tuân thủ quy định tư vấn Bệnh viện cần tiếp tục triển khai và mở rộng các lớp tiền sản dành riêng cho người cha, nhằm nhấn mạnh vai trò quan trọng của họ trong việc đảm bảo trẻ em có một khởi đầu tốt nhất.

Tại bệnh viện, 98,4% sản phụ được chăm sóc không chỉ bởi người cha mà còn bởi các thành viên khác trong gia đình như mẹ chồng, mẹ vợ, và anh chị em Quan điểm của người cha về thời gian chăm sóc vợ được phân loại thành ba nhóm: nhiều (4,9%), hợp lý (68%) và ít (27,1%) Nguyên nhân chính khiến các ông chồng cho rằng thời gian chăm sóc vợ tại bệnh viện chưa đủ là do họ phải đi làm (61%), 11% phải ở nhà chăm sóc con khác, 27% do nội quy bệnh viện, và 1% đi chơi với bạn Tuy nhiên, khi vợ trở về nhà, việc chăm sóc con khác của người chồng cũng hỗ trợ vợ, giúp vợ có thêm thời gian nghỉ ngơi Ngủ đủ giấc là yếu tố quan trọng giúp tăng cường sản xuất sữa mẹ, đảm bảo cho việc nuôi con bằng sữa mẹ thành công.

Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng gia đình, đặc biệt là mẹ chồng, có ảnh hưởng lớn đến việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn (P < 0,05) Trong nhiều trường hợp, mẹ chồng không đồng ý và gây cản trở cho việc cho con bú mẹ hoàn toàn, thường cho rằng sữa mẹ không đủ chất hoặc lượng, dẫn đến việc yêu cầu cho trẻ ăn thêm sữa ngoài Điều này đặt ra nhu cầu cần thiết cho sự ủng hộ từ người chồng, đặc biệt khi 64,8% các ông bố chưa bao giờ hoặc chỉ thỉnh thoảng bảo vệ quan điểm nuôi con bằng sữa mẹ khi có ý kiến tiêu cực từ người xung quanh Trong văn hóa Việt Nam và các nước phương Đông, con dâu thường ngại trái lời mẹ chồng, mặc dù họ nhận thức được tầm quan trọng của việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn Do đó, việc giáo dục các ông bố về vai trò hỗ trợ vợ trong những tình huống này là rất quan trọng và hoàn toàn có thể thực hiện được.

Sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ

Nghiên cứu của Sherriff và cộng sự chỉ ra rằng nhiều người cha trên thế giới quan tâm đến việc hỗ trợ vợ trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) Mặc dù họ muốn tham gia và giúp đỡ trong quá trình này, nhưng thường cảm thấy thiếu chuẩn bị cho những thách thức mà việc cho con bú có thể mang lại và không chắc chắn về cách thức hỗ trợ vợ hiệu quả.

Tỉ lệ hỗ trợ vợ trong việc nuôi con bằng sữa mẹ chỉ đạt 50,1%, trong khi 61,8% các ông bố thường xuyên mua hoặc nhờ người khác mua sữa công thức cho con khi thấy vợ chưa có sữa Nguyên nhân chủ yếu là lo lắng trẻ sẽ đói Hơn nữa, 72,6% các ông bố cho biết họ tiếp cận thông tin về dinh dưỡng từ các phương tiện truyền thông, điều này ảnh hưởng lớn đến quan điểm của họ về việc cho con bú mẹ Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng rất ít người thường xuyên tìm hiểu về nuôi con bằng sữa mẹ, với tỉ lệ bảo vệ quan điểm này chỉ dưới 10%.

Hơn 50% người cha thường xuyên tham gia vào việc chăm sóc vợ trong thời gian mang thai và sau sinh, bao gồm việc đưa vợ đi khám thai, hỗ trợ khi cho con bú, và bàn bạc về cách chăm sóc con Để hỗ trợ tốt nhất cho vợ trong việc nuôi con bằng sữa mẹ, người cha cần có sự ủng hộ từ gia đình, xã hội và các chính sách công Nghiên cứu tại Thụy Điển cho thấy, những người cha không được nghỉ phép khi con ra đời thì con họ ít được nuôi bằng sữa mẹ hơn Từ ngày 01 tháng 01 năm 2016, Việt Nam đã có luật nghỉ thai sản cho nam giới, áp dụng cho những người đã đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con, với quy định nghỉ từ 5 đến 14 ngày tùy thuộc vào tình huống sinh Thời gian nghỉ này được tính trong 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh.

Chính sách hỗ trợ này mang lại lợi ích lớn cho các ông bố, giúp họ duy trì vai trò quan trọng trong thời gian vợ họ nằm viện sau sinh Điều này cho phép họ tập trung vào việc chăm sóc và hỗ trợ vợ trong giai đoạn nuôi con bền vững sau sinh, cũng như trong những ngày đầu khi trở về nhà.

Thuận lợi và khó khăn

Trong quá trình triển khai các giải pháp, bệnh viện Phụ sản Trung ương đã gặp phải một số thuận lợi và khó khăn Thứ nhất, thương hiệu bệnh viện đã được khẳng định trong 65 năm, tạo dựng lòng tin nơi khách hàng, giúp thông tin dễ dàng tiếp cận và hỗ trợ tối đa cho các ông bố trong quá trình chăm sóc vợ sau sinh Thứ hai, sự quan tâm chỉ đạo sát sao từ lãnh đạo bệnh viện cùng với sự hợp tác từ các phòng chức năng như Điều dưỡng, Quản lý chất lượng, và Đào tạo đã tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất và nhân lực cho công tác truyền thông Cuối cùng, đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao và kỹ năng tư vấn tốt cũng góp phần quan trọng vào việc tổ chức hiệu quả các hoạt động truyền thông về chăm sóc vợ sau sinh.

Mặc dù có nhiều thuận lợi, việc nâng cao kiến thức và hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) vẫn gặp một số khó khăn tại bệnh viện Thứ nhất, đây là một vấn đề mới, chưa được quan tâm nhiều ở Việt Nam, khiến người cha và xã hội thường cho rằng NCBSM chỉ là trách nhiệm của phụ nữ Bệnh viện PSTƯ cũng chưa chú trọng đến vai trò của người cha trong chăm sóc sau sinh trong các chương trình tư vấn tiền sản Thứ hai, thời gian tổ chức các lớp tiền sản vào giờ hành chính gây khó khăn cho những người cha đi làm, khiến họ không thể tham gia Thứ ba, công tác quảng bá cho các lớp tiền sản còn hạn chế, thiếu băng rôn và biểu ngữ, trong khi trang web của bệnh viện chưa hoạt động hiệu quả và thông tin chưa phong phú.

Giải pháp giải quyết vấn đề

Để giải quyết những vấn đề đã nêu, nhiều giải pháp đã được áp dụng trên toàn cầu và tại Việt Nam, tập trung chủ yếu vào việc cải thiện khả năng tiếp cận thông tin cho các bậc cha mẹ.

Bệnh viện PSTƯ hiện tổ chức lớp học tiền sản cho thai phụ và người nhà vào sáng thứ 4 và thứ 6 hàng tuần, cung cấp 8 nội dung mỗi tháng cho các bậc cha mẹ Mặc dù thông tin chuyên môn cao được truyền đạt trực tiếp, mỗi nội dung chỉ diễn ra một lần trong tháng, khiến nhiều người không thể tiếp cận kiến thức cần thiết Hơn nữa, lịch giảng dạy không được công bố rộng rãi, dẫn đến việc thai phụ không biết và không thể lên kế hoạch bổ sung kiến thức Việc tổ chức lớp học vào giờ hành chính cũng hạn chế khả năng tham gia của những bậc phụ huynh làm việc theo giờ hành chính, như công nhân và viên chức nhà nước.

Một giải pháp truyền thông hiệu quả tại bệnh viện là sử dụng các phương tiện như màn hình ti vi, bảng điện tử, tờ rơi và áp phích để nâng cao nhận thức của người cha về tầm quan trọng của việc nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) Điều này giúp họ có động lực và thái độ tích cực hơn trong việc hỗ trợ vợ Bên cạnh đó, bệnh viện cũng tổ chức các buổi tư vấn trực tiếp cho từng gia đình theo lịch cố định hoặc khi có nhu cầu Mặc dù hình thức truyền thông đã đa dạng hóa và người cha có thể tiếp cận thông tin chất lượng, nhưng số lượng người cha tham gia vẫn còn hạn chế do họ bận rộn với việc chăm sóc vợ và con sau sinh.

Để giải quyết những vấn đề còn tồn tại tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, cần áp dụng những giải pháp hiệu quả và khả thi, dựa trên thực trạng cùng với các thuận lợi và khó khăn đã được nêu ra.

Nghiên cứu cho thấy, thời điểm tốt nhất để cha mẹ tiếp cận thông tin là trước khi sinh.

Tại Hoa Kỳ, một số chương trình đã được triển khai nhằm cung cấp thông tin về nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) cho các người cha Chương trình Người cha hỗ trợ cho con bú của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ sử dụng video, áp phích và tài liệu quảng cáo để tác động tích cực đến quyết định NCBSM, đặc biệt là trong cộng đồng người Mỹ gốc Phi Tại Texas, một nghiên cứu thí điểm trong Chương trình Đặc biệt bổ sung dinh dưỡng cho phụ nữ, trẻ sơ sinh và trẻ em đã tổ chức các buổi thảo luận nhóm giữa những người cha, giúp cải thiện tỷ lệ cho con bú của các bà vợ Kết quả cho thấy không chỉ tỷ lệ cho con bú mẹ hoàn toàn được cải thiện mà còn việc nâng cao kiến thức và niềm tin của các người cha có thể hỗ trợ hiệu quả cho thực hành NCBSM của các bà vợ.

Để nâng cao kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM), cần triển khai các giải pháp đa dạng tập trung vào thời gian trước sinh Việc cung cấp thông tin cho các ông bố về NCBSM sẽ giúp họ chuẩn bị tốt hơn cho sự ra đời của đứa trẻ và chăm sóc trẻ sau sinh Tâm lý mong muốn có kiến thức vững vàng để chào đón con sẽ là động lực lớn để họ tiếp nhận thông tin một cách hiệu quả Dưới đây là một số giải pháp cụ thể có thể áp dụng tại bệnh viện.

Giải pháp thứ nhất, tổ chức lớp tiền sản vào các buổi cuối tuần, có thể vào thứ

Giải pháp tổ chức các buổi học vào thứ 7 hoặc chủ nhật giúp công nhân và cán bộ công chức có cơ hội tiếp cận kiến thức về NCBSM, từ đó nâng cao hiểu biết của họ Tuy nhiên, việc thực hiện ngoài giờ hành chính sẽ phát sinh chi phí để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho cán bộ Để giải pháp này thành công và hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng Đào tạo, phòng Điều dưỡng và phòng Tổ chức cán bộ nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động.

Giải pháp thứ hai là sản xuất các chương trình tư vấn tiền sản và đào tạo trực tuyến chất lượng về nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) và vai trò của người cha Giải pháp này mang lại cơ hội tiếp cận kiến thức cho các ông bố với thời gian và địa điểm linh hoạt, từ đó nâng cao nhận thức và hỗ trợ của họ trong thực hành NCBSM không chỉ tại bệnh viện PSTƯ mà còn trên toàn quốc và toàn cầu Với sự phát triển của internet và các phần mềm trực tuyến như Zoom, Webex, việc triển khai giải pháp này trở nên khả thi và cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 Tuy nhiên, một nhược điểm là không thể tiếp cận những người cha không quen hoặc không có điều kiện sử dụng internet qua thiết bị điện tử Để giải pháp này hiệu quả, cần sự hợp tác từ các đơn vị chuyên môn và phòng Công nghệ thông tin với đội ngũ nhân viên trẻ, năng động, có kỹ năng tốt để đảm bảo công nghệ và đường truyền ổn định.

Giải pháp thứ ba là tăng cường quảng bá các hoạt động của lớp tiền sản tại bệnh viện thông qua băng rôn, biểu ngữ, pa nô và áp phích ở khu vực sân viện và nơi chờ khám Mặc dù ưu điểm của giải pháp này là thai phụ, sản phụ và người nhà có thể dễ dàng nhìn thấy và tham gia, nhưng số lượng người biết đến hoạt động vẫn hạn chế, vì họ chỉ biết khi đến bệnh viện Hơn nữa, khi đến viện, ưu tiên của họ thường là khám chữa bệnh, khiến việc tham gia lớp tiền sản trở nên không thoải mái Để đảm bảo nội dung và hình thức quảng bá hiệu quả, cần có sự phối hợp giữa phòng Đào tạo và phòng Hành chính quản trị trong việc bố trí vị trí hợp lý cho các băng rôn và biểu ngữ.

Giải pháp thứ tư nhằm nâng cao chất lượng và phong phú nội dung cho trang web bệnh viện bao gồm việc bổ sung chuyên mục về lớp tiền sản với hình ảnh, bài viết và video truyền thông về nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) và vai trò của người cha Cần thiết lập chuyên mục “Người cha với NCBSM” để hỗ trợ thông tin cho các ông bố, đặc biệt khi chương trình của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đã cho thấy ảnh hưởng tích cực đến quyết định NCBSM Mặc dù giải pháp này giúp đa dạng hóa đối tượng tiếp cận thông tin, nhưng những người cha không sử dụng internet sẽ không thể tiếp cận Để thực hiện hiệu quả, cần sự năng động của phòng Công nghệ thông tin và chuyên môn vững vàng từ giảng viên Nghiên cứu cho thấy rằng kiến thức về NCBSM còn thấp ngay cả với nhân viên y tế, vì vậy giải pháp thứ năm là cần tăng cường hoạt động kiểm tra, đánh giá và bồi dưỡng kiến thức về NCBSM cho nhân viên y tế, nhằm nâng cao chất lượng thông tin cung cấp cho mẹ và gia đình Dù được lãnh đạo ủng hộ, nhưng hình thức đào tạo hiện tại còn thiếu sự mới mẻ, cần cải tiến phương pháp giảng dạy và tăng cường tương tác trong đào tạo để nâng cao hiệu quả.

Để triển khai hiệu quả các giải pháp, sự đồng thuận và chỉ đạo chặt chẽ từ lãnh đạo bệnh viện là điều thiết yếu Do đó, cần có sự phối hợp giữa phòng Điều dưỡng và phòng Đào tạo trong việc tham mưu cho lãnh đạo, giúp họ hiểu rõ vai trò quan trọng của mình trong thực hành NCBSM, từ đó đưa ra những định hướng và chỉ đạo cụ thể để thực hiện các giải pháp hiệu quả.

Ngày đăng: 03/04/2022, 14:58

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Trần Hữu Bích (2011), Khuyến khích người cha hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu, Hội thảo truyền thông kết quả nghiên cứu, Hải Dương Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khuyến khích người cha hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu
Tác giả: Trần Hữu Bích
Nhà XB: Hội thảo truyền thông kết quả nghiên cứu
Năm: 2011
2. Trần Hữu Bích (2009), Sự tham gia của người cha và sự phát triển của trẻ nhỏ, một bằng chứng từ nông thôn Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự tham gia của người cha và sự phát triển của trẻ nhỏ, một bằng chứng từ nông thôn Việt Nam
Tác giả: Trần Hữu Bích
Năm: 2009
3. Trần Hữu Bích và Đinh Thị Phương Hòa (2012), "Thay đổi kiến thức của người cha về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu - Phát hiện từ chương trình can thiệp cộng đồng hướng tới người cha tại khu vực nông thôn Việt Nam", Tạp chí Y tế Công cộng, 24(24), tr. 43-49 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thay đổi kiến thức của người cha về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu - Phát hiện từ chương trình can thiệp cộng đồng hướng tới người cha tại khu vực nông thôn Việt Nam
Tác giả: Trần Hữu Bích, Đinh Thị Phương Hòa
Nhà XB: Tạp chí Y tế Công cộng
Năm: 2012
4. Bộ Y tế (2008), Tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ, Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ
Tác giả: Bộ Y tế
Nhà XB: Nhà xuất bản Lao động xã hội
Năm: 2008
5. Bộ Y tế (2009), Kế hoạch hành động quốc gia vì sự sống còn trẻ em giai đoạn 2009 - 2015, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kế hoạch hành động quốc gia vì sự sống còn trẻ em giai đoạn 2009 - 2015
Tác giả: Bộ Y tế
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2009
6. Nguyễn Thanh Cường (2010), Kiến thức, thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ và sự tham gia vào chăm sóc trước sinh của nam giới có vợ mang thai tại Chililab, Luận văn thạc sỹ Y tế công cộng, Đại học Y tế công cộng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức, thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ và sự tham gia vào chăm sóc trước sinh của nam giới có vợ mang thai tại Chililab
Tác giả: Nguyễn Thanh Cường
Năm: 2010
7. Trần Thị Hải Dung (2013), Thực trạng và các yếu tố liên quan đến thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh của sản phụ tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2013, Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng và các yếu tố liên quan đến thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh của sản phụ tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2013
Tác giả: Trần Thị Hải Dung
Nhà XB: Đại học Y tế Công cộng
Năm: 2013
8. Trương Quý Dương (2003), Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến việc nuôi con bằng sữa mẹ trong 4 tháng đầu của phụ nữ dân tộc Mường tại huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình năm 2003, Luận văn thạc sỹ Y tế công cộng, Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến việc nuôi con bằng sữa mẹ trong 4 tháng đầu của phụ nữ dân tộc Mường tại huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình năm 2003
Tác giả: Trương Quý Dương
Nhà XB: Đại học Y tế Công cộng
Năm: 2003
10. Vũ Thị Hà (2014), Sự tham gia của người cha với thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ đang đi làm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội năm 2013, Luận văn Thạc sĩ Y tế Công cộng, Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự tham gia của người cha với thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ đang đi làm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội năm 2013
Tác giả: Vũ Thị Hà
Nhà XB: Đại học Y tế Công cộng
Năm: 2014
11. Nguyễn Thị Hạnh (2013), Mô tả kiến thức về chăm sóc trẻ đẻ non của các bà mẹ tại khoa sơ sinh bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013, Luận văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mô tả kiến thức về chăm sóc trẻ đẻ non của các bà mẹ tại khoa sơ sinh bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013
Tác giả: Nguyễn Thị Hạnh
Năm: 2013
12. Nguyễn Thị Hiệp, Vibeke Rasch và Hanne Overgaard Mogensen (2005), "Những nhân tố ảnh hưởng đến nuôi con bằng sữa mẹ ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An", Tạp chí Y tế Công cộng, 3(3), tr. 33-37 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những nhân tố ảnh hưởng đến nuôi con bằng sữa mẹ ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
Tác giả: Nguyễn Thị Hiệp, Vibeke Rasch, Hanne Overgaard Mogensen
Nhà XB: Tạp chí Y tế Công cộng
Năm: 2005
13. Đinh Thị Phương Hòa (2009), "Kiến thức, thực hành của bà mẹ về giữ ấm và cho trẻ bú sớm ngay sau khi đẻ", Y học Thực hành, tr. 1: 111-113 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức, thực hành của bà mẹ về giữ ấm và cho trẻ bú sớm ngay sau khi đẻ
Tác giả: Đinh Thị Phương Hòa
Năm: 2009
14. Hoàng Thế Kỷ (2012), Sự hỗ trợ của người chồng trong việc nuôi con bằng sữa mẹ và một số yếu tố liên quan tại huyện Thanh Hà, Hải Dương, năm 2011, Luận văn thạc sĩ Y tế công cộng, Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự hỗ trợ của người chồng trong việc nuôi con bằng sữa mẹ và một số yếu tố liên quan tại huyện Thanh Hà, Hải Dương, năm 2011
Tác giả: Hoàng Thế Kỷ
Nhà XB: Đại học Y tế Công cộng
Năm: 2012
16. Tổng cục Thống kê (2011), Điều tra đánh giá các mục tiêu Trẻ em và Phụ nữ 2011, Báo cáo kết quả, chủ biên, Hà Nội, Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều tra đánh giá các mục tiêu Trẻ em và Phụ nữ 2011
Tác giả: Tổng cục Thống kê
Năm: 2011
17. Trần Chí Liêm và Đinh Thị Phương Hòa (2009), "Đánh giá kiến thức cán bộ y tế và trang thiết bị tại các trạm y tế xã về chăm sóc trẻ sơ sinh", Y học Thực hành, tr. 5: 2-3 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá kiến thức cán bộ y tế và trang thiết bị tại các trạm y tế xã về chăm sóc trẻ sơ sinh
Tác giả: Trần Chí Liêm, Đinh Thị Phương Hòa
Nhà XB: Y học Thực hành
Năm: 2009
18. Nông Thị Thu Trang (2009), Đánh giá kiến thức và kỹ năng của bà mẹ cho trẻ bú sớm tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2009 Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá kiến thức và kỹ năng của bà mẹ cho trẻ bú sớm tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2009
Tác giả: Nông Thị Thu Trang
Năm: 2009
19. Alive &amp; Thrive (2012), Báo cáo điều tra ban đầu: báo cáo toàn văn điều tra 11 tỉnh, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo điều tra ban đầu: báo cáo toàn văn điều tra 11 tỉnh
Tác giả: Alive & Thrive
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2012
20. WHO - UNICEF (1993), Khóa học về tham vấn nuôi con bằng sữa mẹ, Hà Nội, Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khóa học về tham vấn nuôi con bằng sữa mẹ
Tác giả: WHO, UNICEF
Nhà XB: Hà Nội, Việt Nam
Năm: 1993

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.1. Thông tin chung về người cha - (LUẬN văn THẠC sĩ) kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ đẻ thường tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 2020
Bảng 2.1. Thông tin chung về người cha (Trang 24)
Bảng 2.2. Thông tin chung về bà mẹ - (LUẬN văn THẠC sĩ) kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ đẻ thường tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 2020
Bảng 2.2. Thông tin chung về bà mẹ (Trang 25)
Bảng 2.3. Thông tin chung về trẻ sơ sinh - (LUẬN văn THẠC sĩ) kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ đẻ thường tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 2020
Bảng 2.3. Thông tin chung về trẻ sơ sinh (Trang 26)
Bảng 2.4. Đặc điểm của gia đình ĐTNC - (LUẬN văn THẠC sĩ) kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ đẻ thường tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 2020
Bảng 2.4. Đặc điểm của gia đình ĐTNC (Trang 26)
Bảng 2.5. Kiến thức của cha về BSSS - (LUẬN văn THẠC sĩ) kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ đẻ thường tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 2020
Bảng 2.5. Kiến thức của cha về BSSS (Trang 27)
Bảng 2.6. Một số kiến thức về NCBSM và thứ tự lần sinh của trẻ - (LUẬN văn THẠC sĩ) kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ đẻ thường tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 2020
Bảng 2.6. Một số kiến thức về NCBSM và thứ tự lần sinh của trẻ (Trang 30)
Bảng 2.7. Về việc chăm sóc vợ tại bệnh viện - (LUẬN văn THẠC sĩ) kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ đẻ thường tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 2020
Bảng 2.7. Về việc chăm sóc vợ tại bệnh viện (Trang 36)
Bảng 2.7 cho thấy phần lớn số sản phụ trong nghiên cứu ngồi chồng ra cịn nhận  được sự  chăm  sóc  của  người thân  khác  trong  gia  đình  như  mẹ  đẻ,  mẹ  chồng  hay những người thân khác, tỉ lệ này là 98,4% - (LUẬN văn THẠC sĩ) kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ đẻ thường tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 2020
Bảng 2.7 cho thấy phần lớn số sản phụ trong nghiên cứu ngồi chồng ra cịn nhận được sự chăm sóc của người thân khác trong gia đình như mẹ đẻ, mẹ chồng hay những người thân khác, tỉ lệ này là 98,4% (Trang 36)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w