ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc NKHHCT nhập viện điều trị tại khoa Nhi Bệnh viện Sản - Nhi tỉnh Yên Bái
Trong khoảng thời gian từ tháng 01/2020 đến tháng 04/2020, các bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) đã nhập viện điều trị tại khoa Nhi của Bệnh viện Sản - Nhi tỉnh Yên Bái và đã đồng ý tham gia nghiên cứu.
Bà mẹ có con đang trong tình trạng bệnh nặng và cần chuyển viện Trước đây, bà đã tham gia chương trình giáo dục sức khỏe về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính Tuy nhiên, bà không có khả năng nhận thức và giao tiếp bằng tiếng Việt.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2019 đến tháng 9/2020
- Địa điểm nghiên cứu: Khoa Nhi - Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Yên Bái.
Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu can thiệp so sánh trước sau có nhóm chứng
Các bà mẹ được lựa chọn vào nghiên cứu theo tiêu chuẩn chọn mẫu Đánh giá kiến thức, thái độ của bà mẹ lần
1 về bệnh, chăm sóc trẻ mắc, dự phòng NKHHCT Đánh giá kiến thức, thái độ của bà mẹ lần
2 trước khi trẻ ra viện về bệnh, chăm sóc trẻ mắc, dự phòng NKHHCT Đánh giá kiến thức, thái độ của bà mẹ lần
1 trước can thiệp về bệnh, chăm sóc trẻ mắc, dự phòng NKHHCT Đánh giá kiến thức, thái độ của bà mẹ lần
2 sau can thiệp về bệnh, chăm sóc trẻ mắc, dự phòng NKHHCT
So sánh nhóm chứng và nhóm can thiệp
Mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Ch ọ n m ẫ u: Các bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc NKHHCT đang điều trị tại khoa Nhi Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Yên Bái theo tiêu chuẩn chọn mẫu
- C ỡ m ẫ u: được tính theo công thức tính cỡ mẫu cho việc kiểm định sự khác nhau giữa 2 tỷ lệ được áp dụng như sau:
Trong đó: n là số bà mẹ tham gia nghiên cứu ở mỗi nhóm α là xác suất sai lầm loại 1 β là xác suất sai lầm loại 2
Z 2 (α, β) : Tra từ bảng Z tương ứng với giá trị α = 0,05 và β = 0,10 thì
P1 là tỷ lệ bà mẹ có kiến thức, thái độ không đúng về NKHHCT tại quần thể trước can thiệp
P2 là tỷ lệ bà mẹ có kiến thức, thái độ không đúng về NKHHCT tại quần thể sau can thiệp
Nghiên cứu của Đỗ Thị Hòa năm 2017 cho thấy tỷ lệ bà mẹ có kiến thức và thái độ không đúng về nhiễm khuẩn hậu sản trước can thiệp là 93,1%, trong khi tỷ lệ này sau can thiệp giảm xuống còn 30,1% Dựa vào các tỷ lệ P1 là 0,93 và P2 là 0,3, tính toán cho thấy cần 76 mẫu Để đảm bảo không mất số liệu, tác giả đã quyết định tăng thêm 10%.
Vậy cỡ mẫu của nhóm chứng là 84 người và nhóm nghiên cứu là 84 người
Sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện: chọn tất cả các bà mẹ có con dưới
Trong khoảng thời gian từ tháng 02 đến tháng 4 năm 2020, tại khoa Nhi Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Yên Bái, 5 trẻ em dưới 5 tuổi mắc NKHHCT đã được điều trị và đáp ứng tiêu chuẩn chọn mẫu Các bà mẹ có con mắc NKHHCT được phân chia thành hai nhóm: nhóm can thiệp và nhóm chứng, theo thứ tự liên tục, với việc chọn một bà mẹ từ nhóm can thiệp và sau đó là một bà mẹ từ nhóm chứng, cho đến khi đủ mẫu cho cả hai nhóm.
Công cụ và phương pháp thu thập số liệu
Bộ công cụ được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Đỗ Thị Hòa (2017) và đã được điều chỉnh để phù hợp với tình hình bệnh nhân tại tỉnh Yên Bái Nội dung của bộ công cụ bao gồm các yếu tố thiết yếu nhằm hỗ trợ việc chăm sóc sức khỏe cho người bệnh trong khu vực này.
+ Phần A: Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu: gồm 11 câu hỏi được đánh số từ A1 đến A11
Phần B của bài viết đánh giá kiến thức của bà mẹ về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) thông qua 20 câu hỏi lựa chọn, được phân chia thành ba nội dung chính Từ câu B1 đến B8, bài đánh giá tập trung vào kiến thức của bà mẹ về bệnh NKHHCT Tiếp theo, từ câu B9 đến B15, nội dung sẽ xem xét kiến thức của bà mẹ về cách chăm sóc trẻ mắc NKHHCT Cuối cùng, từ câu B16 đến B20, phần này đánh giá kiến thức của bà mẹ về các biện pháp dự phòng NKHHCT.
+ Phần C: Đánh giá thái độ của bà mẹ về NKHHCT gồm 09 câu hỏi lựa chọn được đánh số từ C1 đến C9
* Can thi ệ p và thu th ậ p s ố li ệ u:
Phỏng vẫn trực tiếp Tiến hành theo những bước sau:
Bước đầu tiên trong quy trình cải thiện chất lượng chăm sóc tại khoa Nhi Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Yên Bái là tổ chức một buổi tập huấn cho ba điều dưỡng viên chăm sóc chính Buổi tập huấn này sẽ tập trung vào mục đích, nội dung và phương pháp điều tra, nhằm đảm bảo các điều dưỡng viên hiểu rõ quy trình Sau buổi tập huấn vào buổi sáng, các điều dưỡng viên sẽ thực hành trên bệnh nhân để đánh giá hiệu quả của việc đào tạo.
Vào mỗi buổi sáng từ 8h đến 11h30, từ thứ 2 đến thứ 6, bước 2 trong quy trình nghiên cứu là lựa chọn đối tượng tham gia Đối tượng sẽ được phân chia thành hai nhóm: nhóm chứng và nhóm can thiệp, dựa trên các tiêu chuẩn đã được xác định.
Bước 3 của nghiên cứu bao gồm việc giải thích mục đích, ý nghĩa, phương pháp và quyền lợi của đối tượng tham gia Khi đồng ý tham gia, đối tượng sẽ ký vào bản đồng thuận và được hướng dẫn về hình thức tham gia cũng như cách trả lời câu hỏi trong phiếu khảo sát Đánh giá lần 1 về kiến thức và thái độ của đối tượng tham gia nghiên cứu sẽ được thực hiện thông qua phỏng vấn trực tiếp, sử dụng phiếu khảo sát vào buổi chiều ngày đầu tiên trẻ nhập viện.
Vào buổi chiều ngày thứ hai trẻ nhập viện, tiến hành can thiệp giáo dục sức khỏe (GDSK) cho các bà mẹ, tập trung vào việc nâng cao kiến thức và thái độ về nhiễm khuẩn huyết cấp tính (NKHHCT) theo chương trình can thiệp đã được trình bày trong phụ lục 3.
Bước 5 trong nghiên cứu là đánh giá lần 2 về kiến thức và thái độ của đối tượng tham gia trước khi trẻ được ra viện, thực hiện vào ngày thứ 05 hoặc ngày thứ 06 kể từ khi trẻ nhập viện ở cả hai nhóm.
Các biến số nghiên cứu
2.6.1 Các bi ế n s ố v ề thông tin chung c ủ a đố i t ượ ng nghiên c ứ u
- Tuổi: là số tuổi hiện có của đối tượng nghiên cứu khi trả lời phỏng vấn Tuổi được tính bằng công thức sau: tuổi = 2020 - năm sinh
- Trình độ học vấn: là mức độ bằng cấp cao nhất mà bà mẹ có được hiện tại
- Nghề nghiệp: là hình thức công việc hiện tại bà mẹ đang làm
- Số con của bà mẹ: là số con sống hiện tại của bà mẹ Là biến định lượng gồm
2 giá trị: 1 con và từ 2 con trở lên
- Nhận được thông tin về NKHHCT là biến định tính có 2 giá trị: có và không Nếu có thì nguồn thông tin nhận được từ đâu
2.6.2 Các bi ế n s ố ki ế n th ứ c c ủ a bà m ẹ v ề NKHHCT
- Kiến thức về NKHHCT trước can thiệp GDSK bao gồm kiến thức về bệnh, chăm sóc trẻ mắc và dự phòng NKHHCT của bà mẹ trước can thiệp GDSK
- Kiến thức về NKHHCT sau can thiệp GDSK bao gồm kiến thức về bệnh, chăm sóc trẻ mắc và dự phòng NKHHCT của bà mẹ sau can thiệp GDSK
- Kiến thức về bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính bao gồm kiến thức đúng về khái niệm, nguyên nhân, yếu tố nguy cơ, dấu hiệu bệnh
Chăm sóc trẻ mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính đòi hỏi kiến thức đúng về việc thông thoáng đường thở, giảm triệu chứng khó thở, vệ sinh mũi và họng, giữ ấm cho trẻ, cùng với chế độ ăn uống hợp lý để hỗ trợ sức khỏe.
- Kiến thức của bà mẹ về dự phòng NKHHCT: bao gồm kiến thức đúng về các biện pháp phòng bệnh cho trẻ
2.6.3 Các bi ế n s ố thái độ c ủ a bà m ẹ v ề NKHHCT
Thái độ đúng của bà mẹ về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) là rất quan trọng trước khi can thiệp giáo dục sức khỏe (GDSK) Điều này bao gồm việc hiểu biết về bệnh, cách chăm sóc trẻ mắc bệnh và các biện pháp dự phòng hiệu quả Bà mẹ cần nắm vững kiến thức để bảo vệ sức khỏe cho trẻ và ngăn ngừa sự lây lan của NKHHCT.
Thái độ đúng của bà mẹ về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) sau can thiệp giáo dục sức khỏe (GDSK) đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc trẻ mắc bệnh Việc hiểu biết và có nhận thức đúng về bệnh, cách chăm sóc trẻ và các biện pháp dự phòng sẽ giúp giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh và cải thiện sức khỏe cho trẻ.
- Thái độ của bà mẹ về bệnh NKHHCT Bà mẹ có thái độ đúng về bệnh
Khi trẻ có dấu hiệu khó thở, mệt mỏi, bú kém hoặc không uống được, việc đưa trẻ đến cơ sở y tế là rất quan trọng Bà mẹ cần chú ý đến những triệu chứng này để đảm bảo sức khỏe cho trẻ.
Bà mẹ có thái độ đúng đắn trong việc chăm sóc trẻ mắc NKHHCT khi nhận thức được tầm quan trọng của việc vệ sinh mũi họng cho trẻ bằng dung dịch nước muối sinh lý Bà mẹ cũng không áp dụng chế độ ăn uống kiêng khem cho trẻ và chú trọng đến việc điều trị sớm khi trẻ mắc bệnh, từ đó giúp nâng cao sức khỏe và phòng ngừa biến chứng.
Bà mẹ có thái độ đúng đắn trong việc dự phòng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) khi nhận thức rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ trẻ em khỏi khói thuốc lá, bụi bẩn và lông động vật Bà mẹ cũng chú trọng giữ ấm cho trẻ trong những ngày lạnh, nuôi dưỡng trẻ hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu, tiêm phòng đầy đủ theo quy định và cách ly trẻ với những người mắc bệnh hô hấp để đảm bảo sức khỏe tối ưu cho trẻ.
Tiêu chuẩn đánh giá
- Đánh giá kiến thức của bà mẹ về NKHHCT
Gồm 20 câu hỏi lựa chọn ý đúng nhất Bà mẹ tham gia trả lời phỏng vấn với mỗi câu hỏi trả lời đúng được 1 điểm, trả lời không đúng hoặc không biết là 0 điểm, sau đó tính tổng điểm kiến thức:
Bài kiểm tra gồm 20 câu hỏi, tổng điểm tối đa là 20 Các bà mẹ đạt từ 14 điểm trở lên (tương đương 70% câu trả lời đúng) sẽ được xếp vào nhóm có kiến thức đạt, trong khi những bà mẹ có điểm dưới 14 sẽ được đánh giá là kiến thức chưa đạt.
+ Cách tính điểm và phân loại kiến thức đạt và không đạt trước và sau can thiệp là giống nhau
- Đánh giá thái độ của bà mẹ về NKHHCT
Gồm 09 câu hỏi, câu trả lời được xếp thứ tự 4 mức là: Rất không quan trọng, không quan trọng, quan trọng, rất quan trọng Tương ứng các lựa chọn trả lời trên với số điểm là 1, 2, 3, 4 Sau đó tính tổng điểm đạt được và quy về điểm trung bình của mỗi câu trả lời (tổng điểm/9 câu hỏi) Bà mẹ có điểm trung bình từ 3 đến 4 điểm (tương ứng câu trả lời quan trọng và rất quan trọng) xếp loại thái độ đúng, dưới 3 điểm (tương ứng câu trả lời là rất không quan trọng, không quan trọng) xếp loại thái độ không đúng
Đánh giá sự thay đổi sau can thiệp GDSK so với trước can thiệp được thực hiện dựa trên mức chênh điểm trung bình từ các câu hỏi và sự khác biệt về tỷ lệ đúng đối với từng nội dung đánh giá.
Chương trình can thiệp
Nội dung can thiệp GDSK tập trung vào việc nâng cao kiến thức và thái độ của bà mẹ có con dưới 5 tuổi về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) Điều này bao gồm việc hiểu rõ khái niệm, nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ liên quan đến NKHHCT, nhận diện dấu hiệu bệnh, cũng như cách chăm sóc trẻ khi bị bệnh và các biện pháp dự phòng hiệu quả.
- Người tiến hành can thiệp GDSK: Nhóm nghiên cứu
- Hình thức can thiệp GDSK: cá nhân
- Thời gian GDSK: 15 – 20 phút/ bà mẹ
- Cách thức can thiệp GDSK:
Vào buổi chiều ngày đầu tiên trẻ nhập viện, tiến hành phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ để đánh giá kiến thức và thái độ của họ về bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT), chăm sóc trẻ bệnh và các biện pháp dự phòng Thời gian phỏng vấn là từ 15 đến 20 phút cho mỗi bà mẹ, dựa trên bộ câu hỏi đã được chuẩn bị.
+ Tổng hợp, đánh giá kiến thức, thái độ của bà mẹ ở cả 2 nhóm về NKHHCT
+ Tiến hành GDSK, giải đáp các thắc mắc theo chương trình can thiệp GDSK đã xây dựng sau đánh giá lần 1 một ngày cho các bà mẹ nhóm 2
Đánh giá lại kiến thức và thái độ lần 2 về nuôi con khỏe mạnh, chăm sóc trẻ (NKHHCT) của các bà mẹ trong hai nhóm được thực hiện thông qua bộ câu hỏi giống như lần đánh giá đầu tiên Mục tiêu là để xác định sự thay đổi trong kiến thức và thái độ của các bà mẹ về NKHHCT trước khi trẻ xuất viện.
- Tài liệu và các vật dụng cần thiết: Bút, sổ ghi, bộ câu hỏi phỏng vấn, nội dung truyền thông GDSK, bản đồng thuận.
Phương pháp phân tích số liệu
Các số liệu được làm sạch, sau đó được nhập và phân tích bằng phần mềm SPSS 18.0.
Vấn đề đạo đức của nghiên cứu
Nghiên cứu này đã được hội đồng khoa học Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định và lãnh đạo Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Yên Bái chấp thuận và cho phép thực hiện.
Trước khi tham gia nghiên cứu, các bà mẹ được thông tin chi tiết về mục đích, lợi ích và quy trình phỏng vấn Họ có quyền quyết định đồng ý hoặc từ chối tham gia mà không làm ảnh hưởng đến chất lượng khám chữa bệnh cho con mình.
- Sự tham gia của bà mẹ là hoàn toàn tự nguyện
Tất cả các bà mẹ, dù có tham gia nghiên cứu hay không, đều được cung cấp thông tin giáo dục sức khỏe (GDSK) Nhóm chứng cũng nhận được tư vấn GDSK từ các nhân viên y tế khác, và sẽ được nhóm nghiên cứu GDSK ngay sau khi hoàn tất đánh giá lần 2.
Các thông tin thu thập từ bà mẹ tham gia nghiên cứu sẽ được sử dụng với sự đồng ý của họ và hoàn toàn bảo mật Thông tin cá nhân của các bà mẹ sẽ được giữ kín, lưu trữ an toàn và chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu.
Hạn chế của nghiên cứu, sai số và biện pháp khắc phục sai số
* Hạn chế của nghiên cứu:
- Nghiên cứu chưa đánh giá được thực hành trong chăm sóc, dự phòng NKHHCT cho trẻ của bà mẹ khi trẻ ra viện
* Những sai số mắc phải và cách khắc phục trong quá trình nghiên cứu:
- Sai số do đối tượng không hiểu rõ nội dung của câu hỏi
Sử dụng bộ câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, đơn giản, logic, sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu
Nhóm điều tra viên sẽ được đào tạo kỹ lưỡng về việc sử dụng bộ câu hỏi, kỹ năng tiếp cận đối tượng, và giáo dục sức khỏe, đồng thời thực hiện các bài thử nghiệm trước khi tiến hành điều tra.
Trước khi phỏng vấn điều tra viên phải giải thích rõ mục đích và ý nghĩa để đối tượng nghiên cứu hợp tác đảm bảo được tính trung thực
- Sai số do quá trình nhập số liệu xử lý số liệu bằng máy tính
Để khắc phục vấn đề, sau khi thu thập đầy đủ số liệu, quá trình làm sạch dữ liệu đã được thực hiện Số liệu được nhập hai lần riêng biệt và sau đó tiến hành so sánh để đảm bảo tính chính xác.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
B ả ng 3.1 Đặ c đ i ể m đố i t ượ ng nghiên c ứ u (n = 168) Đặc điểm Nhóm chứng Nhóm can thiệp
Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%) p
Bảng 3.1 chỉ ra rằng các bà mẹ trong nghiên cứu ở hai nhóm có đặc điểm tương đồng về độ tuổi, trình độ học vấn và nghề nghiệp, với giá trị p > 0,05.
B ả ng 3.2 Đặ c đ i ể m đố i t ượ ng nghiên c ứ u (ti ế p) Đặc điểm
Nhóm chứng Nhóm can thiệp Tần số Tỷ lệ p
Số con của bà mẹ
Nguồn thông tin nhận được từ
Bảng 3.2 cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm bà mẹ về nơi cư trú, số con, nhận được tư vấn và nguồn thông tin về NKHHCT (p > 0,05) Phần lớn các bà mẹ tham gia nghiên cứu sống ở nông thôn (nhóm chứng: 59,5%, nhóm can thiệp: 61,9%) Số lượng bà mẹ có 1 con gần tương đương với số bà mẹ có 2 con trở lên ở cả hai nhóm Hầu hết các bà mẹ nhận được thông tin về NKHHCT (nhóm chứng: 88,1%, nhóm can thiệp: 91,7%), tuy nhiên, tỷ lệ nhận tư vấn từ nhân viên y tế vẫn còn thấp (nhóm chứng: 32,1%, nhóm can thiệp: 27,4%).
Kiến thức, thái độ của bà mẹ về NKHHCT trước GDSK
B ả ng 3.3 Đ i ể m ki ế n th ứ c, thái độ v ề nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính tr ướ c can thi ệ p (n = 168)
Nhóm chứng Nhóm can thiệp Min - Max X ± SD Min -Max X ± SD p
NKHHCT 8 - 17 11,5 ± 1,7 8 - 17 12,0 ± 2,2 0,688 Thái độ chung về
Bảng 3.3 cho thấy sự khác biệt kiến thức, thái độ về NKHHCT giữa 2 nhóm nghiên cứu trước can thiệp không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05)
3.2.1 Ki ế n th ứ c c ủ a bà m ẹ v ề NKHHCT tr ướ c GDSK
B ả ng 3.4 Đ i ể m ki ế n th ứ c v ề nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính tr ướ c can thi ệ p
Nhóm chứng Nhóm can thiệp Min - p
Bảng 3.4 chỉ ra rằng sự khác biệt về kiến thức về NKHHCT giữa hai nhóm nghiên cứu không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) Mặc dù vậy, điểm trung bình kiến thức về NKHHCT của các bà mẹ vẫn ở mức thấp, với nhóm chứng đạt 11,5 ± 1,7 và nhóm can thiệp đạt 12 ± 2,2.
Bảng 3.5 – 3.7 để làm rõ hơn thực trạng kiến thức của các bà mẹ ở cả 2 nhóm: B ả ng 3.5 Ki ế n th ứ c c ủ a bà m ẹ v ề b ệ nh nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính (n = 168)
Nhóm chứng trả lời đúng
Nhóm can thiệp trả lời đúng p
- Dấu hiệu nguy kịch ở trẻ dưới 2 tháng tuổi
- Dấu hiệu nguy kịch ở trẻ từ 2 tháng tuổi đến 5 tuổi
Bảng 3.5 chỉ ra rằng phần lớn các bà mẹ trong hai nhóm đều nắm vững kiến thức về nguy cơ và dấu hiệu sớm của bệnh Tuy nhiên, kiến thức về khái niệm NKHHCT và dấu hiệu rút lõm lồng ngực còn hạn chế, khi chỉ có 17 bà mẹ hiểu đúng về khái niệm bệnh và 36 trong số 168 bà mẹ nhận biết đúng dấu hiệu rút lõm lồng ngực.
B ả ng 3.6 Ki ế n th ứ c c ủ a bà m ẹ v ề ch ă m sóc tr ẻ m ắ c nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính (n = 168)
Kiến thức về chăm sóc trẻ mắc NKHHCT
Nhóm chứng trả lời đúng Nhóm can thiệp trả lời đúng p
Làm giảm ngạt mũi tại nhà 28 (33,3) 32 (38,1) 0,187 Chăm sóc khi trẻ có khó thở 30 (35,7) 31 (36,9) 0,141
Tăng cường ăn/ bú mẹ nhiều hơn 55 (65,5) 52 (61,9) 0,631
Chế độ ăn uống hợp lý 61 (72,6) 66 (78,6) 0,371
Uống nhiều nước ấm theo nhu cầu 35 (41,7) 42 (50) 0,280
Theo Bảng 3.6, mặc dù phần lớn các bà mẹ đã nắm vững cách cho trẻ ăn uống hợp lý, nhưng chỉ có hơn 30% trong mỗi nhóm có kiến thức đúng về cách giảm ngạt mũi và chăm sóc trẻ khi gặp khó thở tại nhà.
B ả ng 3.7 Ki ế n th ứ c c ủ a bà m ẹ v ề d ự phòng nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính
Kiến thức về dự phòng
Nhóm chứng trả lời đúng
Nhóm can thiệp trả lời đúng p
Giữ ấm và vệ sinh mũi họng 51 (60,7) 41 (48,8) 0,122 Tiêm phòng đầy đủ, đúng lịch 66 (78,6) 58 (69,0) 0,162
Tránh thuốc lá, khói bụi,… 83 (98,8) 75 (89,3) 0,009
Chế độ dinh dưỡng 55 (65,5) 51 (60,7) 0,524 Đường lây truyền bệnh 82 (97,6) 82 (97,6) 1,000 Bảng 3.7 cho thấy đa phần các bà mẹ có kiến thức về dự phòng NKHHCT cho trẻ
3.2.2 Thái độ c ủ a bà m ẹ v ề NKHHCT tr ướ c GDSK
B ả ng 3.8 Đ i ể m thái độ v ề nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính tr ướ c can thi ệ p
3 Về dự phòng NKHHCT 15,3 ± 2,1 16,0 ± 2,6 0,207 Bảng 3.8 cho thấy sự khác biệt thái độ về NKHHCT giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05)
B ả ng 3 9 Thái độ c ủ a bà m ẹ v ề b ệ nh nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính (n = 168)
Nhóm chứng trả lời đúng Nhóm can thiệp trả lời đúng p Tần số (%) Tần số (%)
Dấu hiệu đưa trẻ đi đến CSYT 65 (77,4) 64 (76,2) 0,057
Bảng 3.9 cho thấy phần lớn các bà mẹ 2 nhóm đều có thái độ đúng về dấu hiệu đưa trẻ đến cơ sở y tế
B ả ng 3 10 Thái độ c ủ a bà m ẹ v ề ch ă m sóc tr ẻ m ắ c nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính
Nhóm chứng trả lời đúng Nhóm can thiệp trả lời đúng p Tần số (%) Tần số (%)
Bảng 3.10 cho thấy phần lớn các bà mẹ trong hai nhóm đều có thái độ đúng về cách chăm sóc trẻ khi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) Cụ thể, tỷ lệ đưa trẻ đến cơ sở y tế (CSYT) để điều trị sớm là rất cao, với 81% ở nhóm một và 82% ở nhóm hai Điều này chứng tỏ sự nhận thức tích cực của các bà mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ.
B ả ng 3.11 Thái độ c ủ a bà m ẹ v ề d ự phòng nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính
Nhóm chứng trả lời đúng Nhóm can thiệp trả lời đúng p Tần số (%) Tần số (%)
Tránh thuốc lá, khói bụi, 83 (98,8) 83 (98,8) 0,052
Bảng 3.11 cho thấy phần lớn các bà mẹ 2 nhóm đều có thái độ đúng về dự phòng NKHHCT cho trẻ
3.3 Kiến thức, thái độ của bà mẹ về NKHHCT sau GDSK
B ả ng 3 12 Đ i ể m ki ế n th ứ c và thái độ v ề nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính sau giáo d ụ c s ứ c kh ỏ e (n = 168)
Nhóm chứng Nhóm can thiệp
Bảng 3.12 cho thấy điểm kiến thức và thái độ chung về NKHHCT có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm sau GDSK với p < 0,05
3.3.1 Ki ế n th ứ c c ủ a bà m ẹ v ề NKHHCT sau GDSK
Bi ể u đồ 3.1 S ự thay đổ i ki ế n th ứ c c ủ a bà m ẹ v ề nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính sau giáo d ụ c s ứ c kh ỏ e (n = 168)
Biểu đồ 3.1 cho thấy tỷ lệ bà mẹ trong nhóm chứng có kiến thức đúng không có sự khác biệt đáng kể giữa hai lần đánh giá (p > 0,05) Trong khi đó, tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng trong nhóm can thiệp đã tăng mạnh từ 10,7% trước can thiệp lên 77,4% sau can thiệp, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
B ả ng 3 13 S ự thay đổ i v ề đ i ể m ki ế n th ứ c c ủ a bà m ẹ v ề nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính (n = 168) Điểm đánh giá
Kiến thức bà mẹ nhóm chứng Kiến thức bà mẹ nhóm can thiệp p
Bảng 3.13 chỉ ra rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kiến thức về NKHHCT của các bà mẹ trong nhóm chứng giữa hai lần khảo sát (p > 0,05) Tuy nhiên, kiến thức về NKHHCT của bà mẹ trong nhóm can thiệp đã tăng đáng kể, với điểm trung bình trước can thiệp là 12 ± 2,2 và tăng lên 19 ± 2,8 sau can thiệp, cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
< 0,05 Kiến thức khảo sát lần 2 về NKHHCT giữa 2 nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05
B ả ng 3 14 S ự thay đổ i v ề đ i ể m ki ế n th ứ c c ủ a bà m ẹ 2 nhóm v ề b ệ nh, ch ă m sóc, d ự phòng nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính (n = 168)
Kiến thức bà mẹ nhóm chứng Kiến thức bà mẹ nhóm can thiệp
Dự phòng Bệnh Chăm sóc Dự phòng
Bảng 3.14 chỉ ra rằng kiến thức của các bà mẹ trong nhóm can thiệp về bệnh, chăm sóc và dự phòng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) đã tăng đáng kể sau can thiệp với p < 0,05 Ngược lại, nhóm chứng không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kiến thức này giữa hai lần khảo sát, với p > 0,05.
Bảng 3.15 – 3.17 mô tả chi tiết sự thay đổi kiến thức của bà mẹ ở 2 nhóm: B ả ng 3.15 S ự thay đổ i ki ế n th ứ c c ủ a bà m ẹ v ề b ệ nh nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính (n = 168)
Kiến thức của bà mẹ về bệnh
Bà mẹ nhóm chứng trả lời đúng
Bà mẹ nhóm can thiệp trả lời đúng Khảo sát lần 1
Khái niệm 13 (15,5) 19 (22,6) 0,034 4 (4,8) 80 (95,2) < 0,001 Nguyên nhân 58 (69,0) 62 (73,8) 0,505 40 (47,6) 81 (96,4) < 0,001 Yếu tố nguy cơ 65 (77,4) 67 (79,8) 0,011 62 (73,8) 84 (100) < 0,001 Dấu hiệu:
- Dấu hiệu nguy kịch ở trẻ dưới 2 tháng tuổi
- Dấu hiệu nguy kịch ở trẻ từ 2 tháng tuổi đến 5 tuổi
Bảng 3.15 cho thấy kiến thức của các bà mẹ trong nhóm chứng không có sự thay đổi đáng kể giữa hai lần đánh giá Ngược lại, nhóm can thiệp đã ghi nhận sự cải thiện rõ rệt về kiến thức bệnh tật sau can thiệp (p < 0,05), với sự tăng trưởng ấn tượng về khái niệm NKHHCT, từ 4,8% lên 95,2%.
B ả ng 3.16 S ự thay đổ i ki ế n th ứ c c ủ a bà m ẹ v ề ch ă m sóc tr ẻ m ắ c nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính (n = 168)
Kiến thức của bà mẹ về chăm sóc trẻ mắc
Bà mẹ nhóm chứng trả lời đúng Bà mẹ nhóm can thiệp trả lời đúng
Khảo sát lần 1 Khảo sát lần 2 p
Giảm ngạt mũi tại nhà
Chăm sóc khi trẻ có khó thở
Vệ sinh mũi 50 (59,5) 54 (64,3) 0,505 57 (67,9) 84 (100) < 0,001 Giữ ấm 54 (64,3) 56 (66,7) 0,182 50 (59,5) 84 (100) < 0,001
Tăng cường ăn/ bú mẹ
Chế độ ăn hợp lý 61 (72,6) 66 (78,6) 0,237 66 (78,6) 72 (85,7) 0,221
Uống nhiều nước ấm theo nhu cầu
Bảng 3.16 cho thấy rằng kiến thức của các bà mẹ trong nhóm chứng về chăm sóc trẻ mắc NKHHCT không có sự thay đổi đáng kể giữa hai lần đánh giá Ngược lại, nhóm can thiệp cho thấy sự cải thiện rõ rệt trong kiến thức, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) Đặc biệt, sau can thiệp, 100% các bà mẹ trong nhóm can thiệp đã nắm vững kiến thức về việc giữ ấm và vệ sinh mũi cho trẻ.
B ả ng 3.17 S ự thay đổ i ki ế n th ứ c c ủ a bà m ẹ v ề d ự phòng nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính (n = 168)
Kiến thức của bà mẹ về dự phòng
Bà mẹ nhóm chứng Bà mẹ nhóm can thiệp
Giữ ấm và vệ sinh mũi họng 51 (60,7) 52 (61,9) 0,866 41 (48,8) 67 (79,8)
Tiêm phòng đầy đủ, đúng lịch
Tránh thuốc lá, khói bụi,…
Dinh dưỡng 55 (65,5) 59 (70,2) 0,317 51 (60,7) 71 (84,5) 0,001 Đường lây truyền bệnh 82 (97,6) 81 (96,4) 0,096 82 (97,6) 82 (97,6) 1,000
Sau can thiệp, kiến thức của bà mẹ về dự phòng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) cho trẻ trong nhóm can thiệp đã tăng rõ rệt (p < 0,05) Ngược lại, nhóm chứng không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong kiến thức về dự phòng NKHHCT giữa hai lần đánh giá (p > 0,05).
3.3.2 Thay đổ i thái độ c ủ a bà m ẹ v ề NKHHCT sau GDSK
Bi ể u đồ 3.2 S ự thay đổ i thái độ c ủ a bà m ẹ v ề nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính sau giáo d ụ c s ứ c kh ỏ e (n = 168)
Biểu đồ 3.2 cho thấy rằng thái độ đúng của các bà mẹ trong nhóm chứng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai lần đánh giá (p > 0,05) Trong khi đó, thái độ đúng của các bà mẹ trong nhóm can thiệp đã tăng đáng kể từ 58,3% trước can thiệp lên 90,5% sau can thiệp, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
B ả ng 3.18 S ự thay đổ i thái độ c ủ a bà m ẹ v ề nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính
Bà mẹ nhóm chứng Bà mẹ nhóm can thiệp
Min - Max X ± SD Min - Max X ± SD p
Bảng 3.18 chỉ ra rằng thái độ của các bà mẹ trong nhóm can thiệp đối với NKHHCT đã cải thiện rõ rệt, với điểm trung bình trước can thiệp là 28,7 ± 4,7 và tăng lên 33,0 ± 4,2 sau can thiệp.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê được xác định với p < 0,05 Trong khi đó, điểm thái độ của các bà mẹ trong nhóm chứng không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai lần đánh giá (p > 0,05) Tuy nhiên, điểm thái độ trong lần khảo sát thứ hai ở cả hai nhóm đã thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
B ả ng 3.19 S ự thay đổ i thái độ c ủ a bà m ẹ v ề nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính
Bà mẹ nhóm chứng Bà mẹ nhóm can thiệp
X ± SD (Khảo sát lần 2) p X ± SD
Bảng 3.19 cho thấy sau can thiệp, điểm thái độ của các bà mẹ trong nhóm can thiệp về bệnh, chăm sóc và dự phòng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính đều tăng với p < 0,05 Ngược lại, điểm thái độ của các bà mẹ trong nhóm chứng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
B ả ng 3.20 S ự thay đổ i thái độ c ủ a bà m ẹ v ề ch ă m sóc tr ẻ nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính (n = 168)
Thái độ của bà mẹ về chăm sóc trẻ mắc
Bà mẹ nhóm chứng Bà mẹ nhóm can thiệp
X ± SD (Khảo sát lần 2) p X ± SD
Bảng 3.20 chỉ ra rằng điểm thái độ của các bà mẹ trong nhóm can thiệp về chăm sóc trẻ NKHHCT có sự khác biệt thống kê đáng kể giữa hai lần đánh giá (p < 0,05) Trong khi đó, điểm thái độ của các bà mẹ trong nhóm chứng không cho thấy sự khác biệt tương tự.
B ả ng 3.21 S ự thay đổ i thái độ c ủ a bà m ẹ v ề d ự phòng nhi ễ m khu ẩ n hô h ấ p c ấ p tính (n = 168)
Thái độ về dự phòng
Bà mẹ nhóm chứng Bà mẹ nhóm can thiệp
Tránh thuốc lá, khói bụi,
Giữ ấm 3,2 ± 0,4 3,2 ± 0,4 0,096 3,3 ± 0,5 3,7 ± 0,6 < 0,001 Chế độ dinh dưỡng 2,7 ± 0,7 2,7 ± 0,8 0,675 2,9 ± 0,8 3,6 ± 0,7 < 0,001 Tiêm phòng 3,1 ± 0,4 3,1 ± 0,5 0,819 3,2 ± 0,5 3,7 ± 0,4 < 0,001 Cách ly 3,2 ± 0,4 3,1 ± 0,5 0,796 3,3 ± 0,5 3,7 ± 0,4 < 0,001
BÀN LUẬN
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Một nghiên cứu tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Yên Bái đã đánh giá 168 bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) đang điều trị Kết quả cho thấy, phần lớn các bà mẹ trong cả hai nhóm đều trên 26 tuổi, với tỷ lệ 56% ở nhóm chứng và 57,1% ở nhóm can thiệp Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Đỗ Thị Hòa, trong đó khảo sát 83 bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc NKHHCT tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định.
Năm 2017, một nghiên cứu cho thấy 61,5% bà mẹ tham gia nằm trong độ tuổi từ 26 đến 35 Tương tự, nghiên cứu của Chu Thị Thuỳ Linh trên 385 bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại khoa Nhi Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên cũng cho thấy 56,4% bà mẹ thuộc nhóm tuổi này Một nghiên cứu khác của Gyawali B N M tại Bhaktapur, Nepal, với 384 bà mẹ có con dưới 5 tuổi bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, cho kết quả tương tự khi 52,3% bà mẹ thuộc độ tuổi 25 – 35 Điều này cho thấy đa số các bà mẹ đã trưởng thành và có hiểu biết nhất định để tham gia trả lời câu hỏi nghiên cứu.
Biến số như tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn và số con có ảnh hưởng đến kiến thức về NKHHCT Kiến thức này thường cao hơn ở nhóm bà mẹ làm công chức, viên chức và tăng theo trình độ học vấn của họ Trong nghiên cứu, 56% bà mẹ nhóm chứng có trình độ từ trung cấp trở lên, trong khi nhóm can thiệp chỉ có 39,3% Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm về trình độ học vấn.
Các bà mẹ thành thị có kiến thức tốt hơn về dấu hiệu bệnh nặng, cách cho trẻ ăn và phòng ngừa bệnh so với các bà mẹ nông thôn, nhờ vào việc tiếp cận nhiều nguồn thông tin sức khỏe Trong nghiên cứu, đa số bà mẹ ở cả hai nhóm đều sống ở nông thôn, và tỷ lệ bà mẹ là cán bộ công chức rất thấp Thông tin y tế mà các bà mẹ nhận được chủ yếu qua các phương tiện truyền thông đại chúng như ti vi, loa đài, và báo chí, với tỷ lệ cao nhận được tư vấn về sức khỏe trẻ em Tuy nhiên, nguồn thông tin từ nhân viên y tế còn hạn chế, điều này cần được chú ý trong quá trình tư vấn sức khỏe cho các bà mẹ Thông tin này phản ánh đúng đặc điểm thực tế của Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Yên Bái, nơi có điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn.
Kiến thức và thái độ của bà mẹ về NKHHCT
4.2.1 Ki ế n th ứ c và thái độ c ủ a bà m ẹ v ề b ệ nh NKHHCT
Cải thiện kiến thức về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) là cần thiết để bảo vệ an toàn cho trẻ em và ngăn ngừa biến chứng Việc chăm sóc và điều trị NKHHCT bắt đầu từ việc nhận biết các dấu hiệu bệnh, tuy nhiên, thiếu kiến thức về bệnh và các triệu chứng có thể dẫn đến nguy cơ tử vong cao ở trẻ Trẻ được coi là mắc NKHHCT khi có dấu hiệu ho, khó thở hoặc thở nhanh Một nghiên cứu cho thấy kiến thức của các bà mẹ về NKHHCT còn thấp, đặc biệt là về khái niệm bệnh và các dấu hiệu nhận biết, bao gồm dấu hiệu sớm, muộn và nguy kịch Kết quả đánh giá ban đầu cho thấy kiến thức của cả hai nhóm bà mẹ vẫn còn nhiều hạn chế, tương tự như nghiên cứu trước đó của Đỗ Thị Hòa.
2017 [13], nghiên cứu của Thành Minh Hùng [15] và nghiên cứu của Nguyễn Thanh Xuân năm 2013 [29]
Kết quả đánh giá lần 1 cho thấy tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về khái niệm bệnh và dấu hiệu rút lõm lồng ngực rất thấp, chỉ có 15,5% bà mẹ nhóm chứng và 4,8% bà mẹ nhóm can thiệp nắm rõ khái niệm bệnh Ngoài ra, chỉ 20,2% bà mẹ nhóm chứng và 22,6% bà mẹ nhóm can thiệp nhận biết dấu hiệu rút lõm lồng ngực ở trẻ Đặc biệt, tỷ lệ nhận biết dấu hiệu nguy kịch ở trẻ dưới 2 tháng tuổi chỉ đạt 26,2% ở nhóm chứng, trong khi ở trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi, tỷ lệ này lần lượt là 33,9% và 29,8% cho hai nhóm Điều này cho thấy khả năng nhận biết tiến triển nặng của bệnh ở các bà mẹ còn hạn chế, dẫn đến việc trẻ thường được đưa đến cơ sở y tế khi bệnh đã nặng.
Nghiên cứu của Thành Minh Hùng năm 2016 cho thấy 58,8% trẻ dưới 5 tuổi điều trị tại khoa nhi Bệnh viện đa khoa khu vực Ngọc Hồi mắc viêm phổi, trong đó 23,5% có viêm phổi nặng và 25,5% rất nặng Tương tự, nghiên cứu của Nguyễn Thị Xuân Hương từ 2008 - 2010 tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên chỉ ra viêm phổi là một trong bốn nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ sơ sinh Hằng năm, 3/4 trường hợp viêm phổi ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn cầu xảy ra tại 15 quốc gia, bao gồm Việt Nam, với khoảng 2 triệu trẻ mắc bệnh Đáng lưu ý, chỉ 52% trẻ tử vong do viêm phổi được chăm sóc y tế trước khi qua đời, chủ yếu do các bà mẹ không nhận biết được dấu hiệu bệnh hoặc không điều trị kịp thời Kết quả nghiên cứu của A M Alexandrino năm 2017 cũng cho thấy chỉ 11,1% bà mẹ nhóm chứng và 13,6% bà mẹ nhóm can thiệp có kiến thức đúng về triệu chứng sớm của bệnh, và chỉ 2,8% bà mẹ nhóm chứng cùng 13,6% bà mẹ nhóm can thiệp hiểu đúng về dấu hiệu xấu đi của bệnh.
Nghiên cứu của Đỗ Thị Hòa cho thấy chỉ có 21,7% bà mẹ hiểu đúng về khái niệm bệnh, trong khi 78,3% không nhận biết đúng dấu hiệu RLLLN Tuy nhiên, tỷ lệ nhận biết dấu hiệu nguy kịch ở trẻ lại cao hơn Theo nghiên cứu của Chu Thị Thuỳ Linh năm 2016, dấu hiệu ho được biết đến nhiều nhất (92,7%), tiếp theo là sốt (76,1%), trong khi dấu hiệu khó thở chỉ được 35,3% bà mẹ nhận biết Kết quả khảo sát tại Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ cho thấy 77% bà mẹ nhận biết dấu hiệu ho, nhưng chỉ 13% nhận biết thở nhanh và 20% nhận biết khó thở là dấu hiệu bệnh Nghiên cứu của Đàm Thị Tuyết cũng chỉ ra ho và sốt là hai dấu hiệu được nhận biết nhiều nhất, trong khi khó thở được biết đến rất thấp Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 22,6% bà mẹ không nhận biết đúng các dấu hiệu thường gặp, điều này cho thấy cần chú trọng hướng dẫn bà mẹ nhận biết dấu hiệu khó thở tại nhà để kịp thời đưa trẻ đi khám, tránh biến chứng nguy hiểm.
Nghiên cứu cho thấy kiến thức của các bà mẹ về dấu hiệu nặng của bệnh ở trẻ em còn hạn chế, với 73,8% bà mẹ nhóm chứng và 50% bà mẹ nhóm can thiệp không nhận biết được dấu hiệu nguy kịch ở trẻ dưới 2 tháng tuổi Đối với trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi, tỷ lệ này là 60,7% ở nhóm chứng và 70,2% ở nhóm can thiệp Đặc biệt, chỉ có 20,2% bà mẹ nhóm chứng và 22,6% bà mẹ nhóm can thiệp nhận biết đúng dấu hiệu rối loạn lân cận (RLLN) Kết quả này tương tự như nghiên cứu của Đỗ Thị Hòa và Chu Thị Thùy Linh, trong đó chỉ có 14,5% bà mẹ nhận biết đúng về dấu hiệu nguy kịch ở trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi.
Theo nghiên cứu của Thành Minh Hùng năm 2016, có đến 78,3% bà mẹ có con 5 tuổi không nhận ra hoặc nhận biết sai về dấu hiệu RLLLN Đặc biệt, 54% bà mẹ không biết đầy đủ về các triệu chứng của bệnh, trong khi chỉ có 15,7% nhận diện chính xác các dấu hiệu nguy hiểm toàn thân Đáng chú ý, 27,5% bà mẹ vẫn trả lời không biết về vấn đề này.
Chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ các bà mẹ phát hiện dấu hiệu RLLN, với 20,2% bà mẹ trong nhóm chứng và 22,6% trong nhóm can thiệp nhận biết được vấn đề này Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Đỗ Thị Hòa.
Tỷ lệ bà mẹ nhận biết đúng dấu hiệu RLLN đạt 21,7%, cao hơn so với các nghiên cứu trước đây của Trần Đỗ Hùng (1%) và Đàm Thị Tuyết (0,5%) Sự khác biệt này có thể do đối tượng nghiên cứu chủ yếu là phụ nữ trong độ tuổi 26 – 35, có từ 2 con trở lên và trình độ học vấn cao (trung cấp trở lên chiếm 56% ở nhóm chứng và 39,3% ở nhóm can thiệp), cùng với việc đa số nhận được thông tin tư vấn (88,1% ở nhóm chứng và 91,7% ở nhóm can thiệp) Trong khi đó, nghiên cứu của Đàm Thị Tuyết tập trung vào các bà mẹ có trình độ học vấn thấp (dưới THCS chiếm 87,4%) Trình độ học vấn cao hơn giúp bà mẹ có kiến thức tốt hơn về bệnh Tuy nhiên, tình trạng kinh tế còn nghèo (62,9%) làm giảm khả năng tiếp cận dịch vụ y tế Sự phát triển của công nghệ 4.0 cũng giúp các bà mẹ hiện nay dễ dàng tiếp cận thông tin về bệnh Nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện, nơi có trẻ mắc NKHHCT, giúp bà mẹ thường xuyên được nhân viên y tế nhắc nhở và hướng dẫn về các dấu hiệu cần đưa trẻ đi khám, từ đó dẫn đến sự khác biệt trong nhận thức.
Kiến thức về bệnh NKHHCT của bà mẹ nhóm chứng trong lần khảo sát thứ hai không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với lần đánh giá đầu tiên Nghiên cứu này phù hợp với kết quả của Đàm Thị Tuyết và Nguyễn Thị Minh Hiếu, cho thấy sự thay đổi kiến thức của bà mẹ nhóm chứng giữa hai lần đánh giá không có sự khác biệt đáng kể.
Sau can thiệp, kiến thức của các bà mẹ về bệnh tăng lên rõ rệt, đặc biệt là khái niệm bệnh (tăng từ 4,8% lên 95,2%) và nhận biết dấu hiệu RLLN (tăng từ 22,6% lên 77,4%) Tỷ lệ nhận biết các dấu hiệu nặng như khó thở, thở khác thường, RLLN, tím tái cũng tăng đáng kể từ 52,4% lên 92,9% Nghiên cứu của Đỗ Thị Hòa cho thấy tỷ lệ bà mẹ nhận biết dấu hiệu nặng tăng từ 34,9% lên 62,7%, và nghiên cứu của Đàm Thị Tuyết cho thấy nhận biết dấu hiệu thở nhanh tăng từ 16% lên 79,9% Kiến thức về dấu hiệu nguy kịch ở trẻ cũng cải thiện rõ rệt, với tỷ lệ đúng về dấu hiệu nguy kịch ở trẻ dưới 2 tháng tuổi tăng từ 50% lên 72,6% và ở trẻ từ 2 đến 5 tuổi tăng từ 29,8% lên 67,9% Đánh giá thái độ của bà mẹ trước can thiệp cho thấy phần lớn đều có thái độ đúng về việc đưa trẻ đến cơ sở y tế khi có biểu hiện khó thở, mệt mỏi hoặc bú kém Nghiên cứu cho thấy 88,7% bà mẹ đồng ý rằng phát hiện sớm có thể tránh được tử vong Sau can thiệp, điểm trung bình thái độ của bà mẹ nhóm can thiệp đạt 3,1 ± 0,7, cao hơn so với trước can thiệp (3,5 ± 0,7), trong khi nhóm chứng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê Kết quả này khẳng định hiệu quả của can thiệp giáo dục sức khỏe trong việc nâng cao kiến thức và thay đổi thái độ của bà mẹ về bệnh NKHHCT.
4.2.2 Ki ế n th ứ c, thái độ c ủ a bà m ẹ v ề ch ă m sóc tr ẻ m ắ c NKHHCT
Chăm sóc trẻ NKHHCT cần bắt đầu bằng việc phát hiện sớm các dấu hiệu bệnh và đưa trẻ đến cơ sở y tế ngay khi có triệu chứng cần khám Quan trọng là đảm bảo trẻ ăn uống đầy đủ, uống nhiều nước, và thường xuyên theo dõi diễn biến bệnh Ngoài ra, việc sử dụng thuốc cần tuân theo chỉ định của cán bộ y tế.
Khi trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT), hầu hết trẻ đều gặp phải tình trạng chảy mũi và nghẹt mũi, gây khó chịu và ảnh hưởng đến việc ăn uống Vì vậy, các bà mẹ cần nắm vững cách vệ sinh mũi cho trẻ để giúp trẻ cảm thấy dễ chịu hơn Nghiên cứu cho thấy 59,5% bà mẹ trong nhóm chứng và 67,9% trong nhóm can thiệp biết cách vệ sinh mũi cho trẻ, tỷ lệ này tương đồng với nghiên cứu của Đỗ Thị Hòa (39,8%) và Nguyễn Thị Minh Hiếu (47,2%) về kiến thức vệ sinh mũi họng cho trẻ.
Theo nghiên cứu của Chu Thị Thùy Linh, 71,2% bà mẹ sử dụng khăn lau mũi, 21,8% dùng giấy thấm sâu kèn, 2,1% dùng miệng hút mũi, và 4,9% không thực hiện biện pháp nào Tuy nhiên, chỉ có 33,3% bà mẹ trong nhóm chứng và 38,1% trong nhóm can thiệp biết cách giảm ngạt mũi an toàn tại nhà cho trẻ Ngoài ra, 35,7% bà mẹ nhóm chứng và 36,9% nhóm can thiệp biết cách vắt sữa mẹ đổ thìa cho trẻ khi trẻ khó thở Kiến thức này rất quan trọng trong việc chăm sóc trẻ mắc NKHHCT, vì nếu bà mẹ không nắm rõ các biện pháp chăm sóc đơn giản, tình trạng khó thở của trẻ có thể trở nên nghiêm trọng hơn.
Khi chăm sóc trẻ, việc giữ ấm cho trẻ trong thời tiết thay đổi là biện pháp quan trọng được nhiều bà mẹ biết đến, với 64,3% bà mẹ nhóm chứng và 59,5% bà mẹ nhóm can thiệp nhận thức về phương pháp này Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ này tương tự như các nghiên cứu trước đó Bên cạnh đó, dinh dưỡng đầy đủ cũng giúp trẻ nâng cao sức đề kháng và nhanh chóng phục hồi sức khỏe khi ốm Đa số bà mẹ trong cả hai nhóm đều có kiến thức đúng về việc tăng cường ăn uống cho trẻ khi bị bệnh, với 64% bà mẹ biết cho trẻ ăn nhiều hơn khi bị viêm phổi Tuy nhiên, khái niệm ăn nhiều hay uống nhiều là tương đối và khó đánh giá chính xác Nghiên cứu khuyến cáo cần tăng cường cho trẻ ăn uống trong và sau khi ốm, với khối lượng lớn hơn bình thường.
Sau can thiệp giáo dục sức khỏe (GDSK), kiến thức của các bà mẹ trong nhóm can thiệp đã cải thiện đáng kể Cụ thể, tỷ lệ bà mẹ biết cách giảm ngạt mũi tại nhà cho trẻ đã tăng từ 38,1% lên 89,6%; tỷ lệ biết chăm sóc trẻ khi khó thở tăng từ 36,9% lên 77,4%; tỷ lệ biết chế độ ăn uống hợp lý cho trẻ tăng từ 78,6% lên 85,7%; và tỷ lệ biết cho trẻ uống nhiều nước ấm theo nhu cầu tăng từ 50% lên 82,1% Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Hiếu và Đỗ Thị Hòa, cho thấy hiệu quả tích cực của can thiệp GDSK Đặc biệt, 100% bà mẹ trong nhóm can thiệp biết giữ ấm cho trẻ khi thời tiết lạnh và vệ sinh mũi an toàn cho trẻ Sự khác biệt về tỷ lệ này có thể do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, khiến các bà mẹ chú ý hơn đến nội dung can thiệp Điểm trung bình kiến thức của bà mẹ nhóm can thiệp tăng từ 5,0 ± 1,0 lên 7,0 ± 1,3, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) Trong khi đó, nhóm chứng không có sự khác biệt đáng kể giữa hai lần đánh giá (p > 0,05) Thái độ chăm sóc trẻ của bà mẹ nhóm can thiệp cũng cải thiện, với điểm trung bình tăng từ 9,6 ± 1,7 lên 11,1 ± 1,3 sau can thiệp (p < 0,05), trong khi nhóm chứng không có sự khác biệt (p > 0,05).