CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cơ sở lýluận
1.1.1 Khái quát về công tác chăm sóc của điều dưỡng
1.1.1.1 Định nghĩa điều dưỡng Định nghĩa điều dưỡng: Điều dưỡng là một nghệ thuật sử dụng môi trường của người bệnh để hỗ trợ sự phục hồi của họ (Florence Nightingale, năm 1860)
1.1.1.2 Nhiệm vụ của người điều dưỡng
Theo Thông tư 07/2011/TT-BYT ngày 26/11/2011, người điều dưỡng có 12 nhiệm vụ quan trọng trong công tác chăm sóc bệnh nhân tại các bệnh viện Những nhiệm vụ này bao gồm việc theo dõi tình trạng sức khỏe, thực hiện các kỹ thuật y tế, hỗ trợ bác sĩ trong quá trình điều trị, và cung cấp thông tin cho bệnh nhân và gia đình về quy trình chăm sóc Sự chuyên nghiệp và tận tâm của người điều dưỡng đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ y tế và đảm bảo sự an toàn cho bệnh nhân.
- Tư vấn, hướng dẫn giáo dục sức khỏe
- Chăm sóc vệ sinh cá nhân
- Chăm sóc phục hồi chức năng
- Chăm sóc người bệnh có chỉ định phẫu thuật, thủ thuật
- Dùng thuốc và theo dõi dùng thuốc cho người bệnh
- Chăm sóc người bệnh giai đoạn hấp hối và người bệnh tử vong
- Thực hiện các kỹ thuật điều dưỡng
- Theo dõi, đánh giá người bệnh
- Bảo đảm an toàn và phòng ngừa sai sót chuyên môn kỹ thuật trong chăm sóc người bệnh
- Ghi chép hồ sơ bệnh án
* Nguyên tắc thực hành điều dưỡng
Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, điều dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản về thể chất và tinh thần của người bệnh Theo học thuyết của Virginia Henderson, người bệnh có 14 nhu cầu cơ bản, và nguyên tắc trong thực hành điều dưỡng là hỗ trợ người bệnh thỏa mãn những nhu cầu này.
- Hỗ trợ NB trong hô hấp
- Hỗ trợ người bệnh trong ăn uống
- Hỗ trợ người bệnh trong bài tiết
- Hỗ trợ người bệnh trong tư thế, vận động: nằm, ngồi, đi đứng 4
- Hỗ trợ người bệnh trong ngủ và nghỉ ngơi
- Hỗ trợ người bệnh trong thay và mặc quân áo
- Hỗ trợ người bệnh trong duy trì thân nhiệt bình thường
- Hỗ trợ người bệnh vệ sinh cá nhân
- Hỗ trợ người bệnh tránh những nguy hiểm
- Hỗ trợ tinh thần người bệnh
- Hỗ trợ người bệnh lao động, giải trí, rèn luyện thể lực
- Hỗ trợ người bệnh trong giao tiếp
- Tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo
- Giúp NB có kiến thức y học thông tường liên quan đến bệnh tật của họ
1.1.2 Khái quát về mổ lấy thai
Mổ lấy thai là một phẫu thuật nhằm lấy thai và các phần phụ ra khỏi buồng tử cung thông qua rạch ở thành bụng và thành tử cung Định nghĩa này không bao gồm trường hợp mở bụng để lấy thai khi thai đã nằm trong ổ bụng do chửa ngoài tử cung hoặc vỡ tử cung.
1.1.2.2 Các chỉ định mổ lấy thai
* Chỉ định mổ lấy thai chủ động
Khung chậu hẹp toàn diện là loại khung chậu có tất cả các đường kính giảm đều ở cả eo trên và eo dưới, với đường kính nhô - hậu vệ nhỏ hơn 8,5 cm Trong khi đó, khung chậu méo được xác định khi đo hình trám Michaelis không cân đối.
Khung chậu hình phễu có đặc điểm là phần eo trên rộng và eo dưới hẹp Để chẩn đoán, cần đo đường kính lưỡng ụ ngồi; nếu đường kính này nhỏ hơn 9cm, nên xem xét chỉ định MLT chủ động.
- Đường xuống của thai bị cản trở:
+ U tiền đạo là khối u nằm trong tiểu khung làm cho ngôi không lọt hoặc không xuống được;
+ Rau tiền đạo trung tâm, bán trung tâm
- Tử cung có sẹo mổ cũ:
+ Sẹo mổ ở thân TC trước khi có thai lần này như: sẹo mổ bóc nhân xơ tử cung, sẹo mổ tạo hình tử cung, ;
+ Sẹo mổ cũ và ngôi thai bất thường;
+ Sẹo mổ cũ và thai to [6]
- Nguyên nhân về phía mẹ:
+ Các bệnh tim ở giai đoạn mất bù trừ;
+ Bệnh tăng huyết áp, tai biến mạch não, tiền sản giật và sản giật;
Âm đạo chít hẹp có thể xảy ra do bẩm sinh hoặc do rách trong quá trình sinh nở mà không được khâu phục hồi đúng cách Ngoài ra, các ca phẫu thuật liên quan đến âm đạo, như mổ rò bàng quang - âm đạo và mổ rò trực tràng - âm đạo, cũng có thể dẫn đến tình trạng này.
+ Bảo tồn kết quả chỉnh hình phụ khoa: tiền sử mổ treo tử cung do sa sinh dục, sa bàng quang, làm lại âm đạo - tầng sinh môn;
+ Các dị dạng sinh dục: TC đôi, TC hai sừng, [6]
- Nguyên nhân về phía thai và phần phụ:
+ Thai suy mãn tính, hết ối,
+ Thai to, không tương xứng với khung chậu, không có khả năng lọt qua eo trên phải MLT [6]
* Các chỉ định mổ lấy thai trong quá trình chuyển dạ
Rau tiền đạo là loại rau có vị trí nằm ở trung tâm, có thể gây ra tình trạng chảy máu sau khi bấm ối Trong trường hợp này, cần phải theo dõi tình trạng của mẹ và thai nhi để đảm bảo an toàn Rau tiền đạo cũng có thể phối hợp với những bất thường trong ngôi thai, điều này cần được chú ý trong quá trình theo dõi thai kỳ.
+ Rau bong non thể trung bình và thể nặng: đối với rau bong non thể trung bình và thể nặng là phải mổ cấp cứu ngay
Dọa vỡ tử cung có thể xảy ra trong các trường hợp chuyển dạ kéo dài, khi ngôi thai chưa lọt hoặc khi sử dụng oxytocin không đúng chỉ định hoặc quá liều Những tình huống này làm cho đoạn dưới tử cung phình to, tăng nguy cơ vỡ Đối với thai bình thường hoặc thai đã suy nhưng không thể lấy thai bằng phương pháp âm đạo, mổ lấy thai sẽ là giải pháp cần thiết.
Vỡ tử cung là một biến chứng nghiêm trọng trong thai kỳ, thường xảy ra ở những sản phụ có sẹo mổ cũ, đặc biệt là ở thân tử cung Nguyên nhân dẫn đến vỡ tử cung trong chuyển dạ có thể bao gồm sự bất tương xứng giữa thai nhi và khung chậu, sản phụ đã sinh nhiều lần, hoặc có vết mổ cũ Khi xảy ra vỡ tử cung, việc can thiệp y tế khẩn cấp là rất cần thiết để cứu sống mẹ và thai nhi.
+ Sa dây rau: Sa dây rau là tối cấp cứu sản khoa, cần lấy thai ra ngay khi còn tim thai
+ Nếu đủ điều kiện thì lấy thai ra bằng forceps;
+ Nếu không đủ điều kiện đặt forceps phải MLT ngay
- Chỉ định về phía thai:
+ Thai to: thai to đều trọng lượng thai > 3.500g không tương xứng với khung chậu, loại trừ thai to một phần
Các ngôi bất thường trong thai kỳ bao gồm ngôi vai, ngôi trán, ngôi mặt kiểu cằm sau và ngôi mông, thường kèm theo trọng lượng thai nhi lớn, bất thường xương chậu, hoặc tử cung có sẹo mổ cũ.
Khi thai quá ngày sinh và được chẩn đoán là thai già tháng, việc đình chỉ thai nghén là cần thiết Nếu lượng nước ối còn nhiều, có thể gây chuyển dạ bằng cách truyền oxytocin qua tĩnh mạch và theo dõi quá trình chuyển dạ bằng máy monitoring Trong trường hợp có biểu hiện bất thường, cần thực hiện MLT Nếu không còn nước ối hoặc nước ối xanh bẩn, điều này có thể chỉ ra tình trạng suy thai hoặc thai kém phát triển, cũng cần tiến hành MLT.
Đa thai là tình trạng mang thai từ hai thai trở lên, trong đó song thai có thể gặp phải các tình huống khó khăn như thai hai ngôi đầu chèn nhau, khiến cho thai thứ nhất không thể lọt ra ngoài Trong trường hợp song thai, nếu thai thứ nhất là ngôi mông và thai thứ hai là ngôi đầu, có thể xảy ra hiện tượng mắc đầu khi sinh thai thứ nhất Việc mang thai từ ba thai trở lên cũng là một nguyên nhân gây khó khăn trong quá trình sinh nở.
- Chỉ định về phía mẹ:
Tử cung có sẹo mổ cũ dưới 24 tháng, bao gồm sẹo mổ ở thân tử cung, có thể dẫn đến những khó khăn trong quá trình sinh nở, kết hợp với các nguyên nhân khác.
+ Con so lớn tuổi: thường là những người con so > 35 tuổi trong quá trình chuyển dạ có thêm một vài dấu hiệu bất thường cần phải MLT
Tình trạng sức khỏe của mẹ có thể ảnh hưởng đến thai kỳ, bao gồm các bệnh lý toàn thân như bệnh tim mạch, thiếu máu nặng và tiểu đường không được kiểm soát Ngoài ra, các bệnh lý tại chỗ như dị dạng sinh dục, rò niệu dục đã phẫu thuật, herpes sinh dục và papillome sinh dục nặng cũng có thể gây ra những rủi ro cho sức khỏe của mẹ và thai nhi.
- Chỉ định bất thường xảy ra khi theo dõi chuyển dạ:
+ Đẻ khó do cổ tử cung không tiến triển; CTC có sẹo cũ xấu; Khoét chóp hay cắt cụt CTC
+ Đẻ khó do nguyên nhân cơ học: bất tương xứng giữa thai nhi và khung chậu
+ Đẻ khó do nguyên nhân động lực: Do rối loạn cơn co TC không điều chỉnh được bằng thuốc
+ Thai suy cấp trong chuyển dạ: Phải MLT ngay nếu chưa đủ điều kiện để lấy thai ra ngay bằng thủ thuật qua đường âm đạo [6]
Cơ sở thựctiễn
1.2.1 Các nghiên cứu về nhiễm khuẩn vết mổ trên thế giới
Trước thế kỷ XIX, khi chưa xác định được nguyên nhân gây nhiễm khuẩn và chưa có kháng sinh, nhiễm khuẩn sau mổ đẻ là một trong những biến chứng nguy hiểm nhất, với tỷ lệ tử vong rất cao, lên tới 93% ở Anh theo thống kê của Ratford Thomas (1838-1849) và 100% ở Áo theo Spathe (1837) Năm 1857, Tarnier (Pháp) và Semmelweiss (Áo) đã chỉ ra rằng sốt hậu sản có tính chất lây truyền, từ đó đề xuất các biện pháp vệ sinh như rửa sạch dụng cụ, tăng cường vệ sinh phòng đẻ và cách ly thai phụ, giúp giảm tỷ lệ tử vong một cách rõ rệt.
Vào năm 1865, Pasteur phát hiện ra liên cầu khuẩn gây nhiễm khuẩn hậu sản, từ đó đề ra phương pháp khử khuẩn và vô khuẩn, giúp giảm tỷ lệ tử vong từ 9,5% xuống 1% và 0,3% Năm 1929, Fleming phát minh ra penicilin, kháng sinh đầu tiên, và đến năm 1935, sulfonamid được sử dụng để điều trị nhiễm khuẩn Những tiến bộ trong gây mê hồi sức vào thập niên 1950 cùng với cải tiến kỹ thuật khâu đã nâng cao độ an toàn cho phẫu thuật mổ lấy thai Nghiên cứu về nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai trải qua bốn giai đoạn lịch sử: trước thế kỷ XIX với tỷ lệ tử vong cao, giai đoạn dự phòng và cách ly thai phụ do Tarnier và Semmelweiss đề xuất, giai đoạn vi khuẩn với sự phân lập liên cầu khuẩn của Pasteur và phương pháp khử khuẩn do Lister và Pasteur phát triển, và giai đoạn kháng sinh với sự ra đời của penicilin và các kháng sinh khác như ampixilin, gentamyxin, metronidazol, đã góp phần giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn sau mổ đẻ một cách rõ rệt.
Nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) là nguyên nhân chính gây ra tình trạng bệnh tật gia tăng và tử vong ở bệnh nhân phẫu thuật trên toàn thế giới NKVM không chỉ kéo dài thời gian nằm viện mà còn tạo gánh nặng tài chính cho bệnh nhân và hệ thống y tế quốc gia Theo giám sát tại Hoa Kỳ, NKVM là loại nhiễm khuẩn bệnh viện phổ biến thứ hai, chiếm 24% tổng số nhiễm khuẩn bệnh viện, với tỷ lệ từ 2% đến 5% trong số 16 triệu ca phẫu thuật hàng năm Tại một số quốc gia châu Âu và Bắc Mỹ, tỷ lệ NKVM dao động từ 0,5% đến 15% tùy thuộc vào loại phẫu thuật và tình trạng bệnh nhân Đặc biệt, ở các nước đang phát triển, tỷ lệ NKVM thường cao hơn so với châu Âu và Hoa Kỳ, với tỷ lệ tại Brazil năm 1994 là 8,8%, sau đó giảm xuống còn 3,3% vào năm sau.
Năm 2003, tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) ở một số bệnh viện khu vực Châu Á như Ấn Độ và Thái Lan dao động từ 8,8% đến 24% ở bệnh nhân sau phẫu thuật Tại Châu Phi, tỷ lệ NKVM đặc biệt cao, với Tazania ghi nhận 24% và một số quốc gia lân cận sa mạc Sahara như Ethiopia có tỷ lệ nhiễm lên tới 19,0%.
1.2.2 Một số nghiên cứu về nhiễm khuẩn vết mổ tại Việt Nam
Tại Việt Nam, thực hành chống nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) đã có từ lâu nhưng chưa được hệ thống hóa thành một lĩnh vực chuyên môn rõ ràng Kể từ năm 1997, Bộ Y tế đã chính thức ban hành quy chế chống nhiễm khuẩn trong tổ chức bệnh viện, từ đó thúc đẩy các bệnh viện chú trọng hơn đến việc thực hành chống nhiễm khuẩn, bao gồm cả nhiễm khuẩn vết mổ Bên cạnh quy chế này, việc xử lý rác thải cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác phòng ngừa nhiễm khuẩn.
Bộ Y tế đã liên tục ban hành các quyết định nhằm cải thiện thực hành chống nhiễm khuẩn, bao gồm Quy chế quản lý chất thải (1999) và các tiêu chí về thực hành, giám sát, huấn luyện kiểm soát nhiễm khuẩn trong bộ Tiêu chí đánh giá chất lượng Bệnh viện hàng năm Đặc biệt, vào năm 2012, Bộ Y tế đã phát hành Quyết định số 3671/QĐ-BYT hướng dẫn phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ, cùng với Quyết định 3916/QĐ-BYT vào ngày 28 tháng 8, nhằm tăng cường hiệu quả kiểm soát nhiễm khuẩn trong cơ sở y tế.
Hướng dẫn kiểm soát nhiễm khuẩn tại khoa Gây mê hồi sức được ban hành năm 2017 đã cung cấp quy chế cụ thể, tuy nhiên, tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện vẫn là một thách thức lớn đối với hệ thống y tế Việt Nam.
Nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai không chỉ liên quan đến phẫu thuật mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố của người bệnh như tình trạng thai nghén, dinh dưỡng, cơ địa và bệnh lý kèm theo Nghiên cứu của Vũ Duy Minh năm 2009 tại bệnh viện Từ Dũ cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai là 2,1%, với các yếu tố nguy cơ bao gồm vỡ ối sớm trên 2 giờ, thai nghén có nguy cơ như tiền sản giật và tăng huyết áp, cũng như các bệnh lý kèm theo Tỷ lệ mổ lấy thai hiện nay đang có xu hướng tăng, với số liệu năm 1997 cho thấy tỷ lệ mổ lấy thai tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng là 37% và tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương là 36%.
1.2.3.Chăm sóc nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai
Khi chẩn đoán nhiễm khuẩn vết mổ thành bụng, cần phải mở vết mổ để kiểm tra, dẫn lưu, rửa sạch, cắt lọc mô hoại tử và để hở Nếu nghi ngờ có sự phá vỡ cân, nên đặt dẫn lưu trong phòng mổ Sau khi làm sạch nhiễm trùng và thấy rõ mô hạt, vết thương có thể được đóng lại Điều trị kháng sinh là cần thiết đối với bệnh nhân có triệu chứng toàn thân và các bệnh đi kèm như suy giảm miễn dịch hoặc tiểu đường.
Rửa và dẫn lưu vết thương là bước quan trọng trong quá trình chăm sóc vết mổ Việc rửa vết mổ bằng dung dịch nước muối giúp loại bỏ mô chết, dịch tiết và máu cục, đồng thời hỗ trợ quá trình lành vết thương mà không gây ảnh hưởng, nhờ vào tính chất đẳng trương của nước muối.
Cắt lọc vết mổ là quá trình quan trọng nhằm loại bỏ dị vật và mô yếu bằng kẹp, dao mổ hoặc kéo, giúp tăng tốc độ liền vết thương và ngăn ngừa nhiễm trùng Quy trình này kết thúc khi tất cả mô hoại tử đã được loại bỏ và mô hạt bắt đầu hình thành.
Đối với những vết thương sâu, cần sử dụng gạc ẩm để chăm sóc Gạc nên được làm ẩm bằng dung dịch nước muối sinh lý và đặt vào trong vết mổ, sau đó phủ bên ngoài bằng các lớp gạc khô Khi gạc được thay ra (tốt nhất là trước khi khô hoàn toàn), mô hoại tử sẽ được loại bỏ cùng với gạc Việc thay băng nên được thực hiện 3 lần mỗi ngày cho đến khi bề mặt vết mổ được bao phủ chủ yếu bởi mô hạt.
Băng vết mổ giữ độ ẩm và ấm, giúp thúc đẩy quá trình lành vết thương Sau khi mô hoại tử được loại bỏ và vết mổ bắt đầu tạo hạt, có thể thay băng một lần mỗi ngày hoặc cách ngày để không làm gián đoạn quá trình hồi phục.
Nhiễm khuẩn vết mổ do viêm mô tế bào có thể được điều trị hiệu quả bằng kháng sinh mà không cần dẫn lưu Tuy nhiên, các chất sát khuẩn tại chỗ như povidine, NaCl và nước oxy già không được khuyến cáo sử dụng, vì chúng có thể gây độc cho nguyên bào sợi và cản trở quá trình lành vết mổ.
Khi đối mặt với nhiễm khuẩn nặng, việc điều trị thường bắt đầu bằng kháng sinh phổ rộng nhằm kiểm soát các loại cầu khuẩn Gram dương trên da và trong phòng mổ Cuối cùng, phương pháp điều trị kháng sinh sẽ được điều chỉnh dựa trên triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân và kết quả cấy vi khuẩn Tuy nhiên, việc cấy gạc từ vết mổ thường phát hiện nhiều loại vi khuẩn khác nhau, gây khó khăn trong việc xác định nguyên nhân chính xác của nhiễm trùng.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Giới thiệu về bệnh viện phụ sản Hà Nội
Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội, được thành lập theo Quyết định số 4951/QĐTC ngày 21/11/1979, tọa lạc tại đường Đê La Thành – Giảng Võ – Ba Đình, Hà Nội Sau 40 năm phát triển từ một nhà hộ sinh nhỏ với 100 giường, hiện nay bệnh viện đã mở rộng với 4 tòa nhà, bao gồm 3 tòa 5 tầng và 1 tòa 9 tầng, tổng cộng gần 600 giường Bệnh viện có 1 giám đốc, 3 phó giám đốc và 1 chuyên gia, cùng với 12 phòng ban chức năng và 24 khoa phòng, trong đó có 3 khoa cận lâm sàng Năm 2017, bệnh viện đã sáp nhập thêm 2 cơ sở là 38 Cảm Hội và 10 Hà Đông Là bệnh viện chuyên khoa hạng I của thành phố, Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội thực hiện 7 nhiệm vụ chính.
Khám chữa bệnh Sản phụ khoa và công tác kế hoạch hóa gia đình
Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội hiện có tổng cộng 1.613 cán bộ công nhân viên và người lao động Trong đó, cán bộ viên chức chiếm 26,22% với 423 người, hợp đồng 68 có 14 người chiếm 0,87%, hợp đồng dài hạn có 8 người chiếm 0,50%, và hợp đồng theo thỏa thuận của đơn vị chiếm 72,41% với 1.168 người.
Bệnh viện Phụ sản Hà Nội là cơ sở đầu ngành về chuyên ngành phụ sản, đồng thời cũng là nơi đào tạo đại học và sau đại học, nghiên cứu khoa học, chỉ đạo tuyến và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực này tại Hà Nội Với bề dày lịch sử, bệnh viện sở hữu đội ngũ bác sĩ được đào tạo bài bản trong nước và nâng cao tay nghề tại các quốc gia tiên tiến, đảm bảo chất lượng chuyên môn cao và tâm huyết với nghề nghiệp.
Bệnh viện được trang bị hệ thống thiết bị khám và chữa bệnh hiện đại, chuyên sâu, theo kịp xu hướng điều trị tiên tiến nhất trên thế giới Các khoa, phòng và trung tâm của bệnh viện có đầy đủ máy xét nghiệm sinh hóa, huyết học và miễn dịch, đảm bảo chất lượng dịch vụ y tế tốt nhất cho bệnh nhân.
Hình 2.1 Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
* Đặc điểm tình hình khoa Sản nhiễm trùng C3:
Khoa Sản nhiễm trùng C3 là một khoa lâm sàng quan trọng của Bệnh viện, trực thuộc sự lãnh đạo của Giám đốc Bệnh viện Khoa có trách nhiệm tiếp nhận, điều trị và chăm sóc sản phụ trước, trong và sau sinh, đảm bảo tuân thủ các quy định chuyên môn kỹ thuật Đội ngũ nhân viên của khoa gồm 39 người, bao gồm 6 bác sĩ, 28 điều dưỡng và hộ sinh, cùng 5 hộ lý.
Khoa có cơ sở vật chất hiện đại với 02 phòng đẻ (bao gồm 01 phòng đẻ nhiễm trùng và 01 phòng đẻ lây nhiễm) cùng 07 phòng bệnh, tổng cộng 32 giường bệnh Số lượng bệnh nhân trung bình hàng ngày dao động từ 28 đến 40 người.
Thực trạng công tác chăm sóc người bệnh nhiễm khuẩn sau mổ lấy
Sau khi thu thập dữ liệu trên 30 người bệnh nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai tại khoa C3 bệnh viện Phụ Sản Hà Nội thu được kết quả như sau:
2.1.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Bảng 2.1 Phân bố ĐTNC theo độ tuổi
Tuổi sản phụ Số lượng (N = 30) Tỷ lệ %
Nhận xét:Nhóm sản phụ nhiễm trùng sau mổ trong độ tuổi từ 25 – 35 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất (66,67%)
Bảng 2.2.Phân bố ĐTNC theo nghề nghiệp
Nghề nghiệp Số lượng (N= 30) Tỷ lệ %
Nhận xét:Phần lớn sản phụ nhiễm trùng sau mổ có nghề nghiệp là nhân viên văn phòng chiếm tỷ lệ 46,67%
Bảng 2.3.Phân bố ĐTNC theo thời gian xuất hiện nhiễm khuẩn vết mổ
Nhận xét:Hơn một nửa số sản phụ nhiễm khuẩn vết mổ có số ngày xuất hiện nhiễm khuẩn từ 8-14 ngày chiếm tỷ lệ 56,67%
Bảng 2.4: Phân bố ĐTNC theo triệu chứng lâm sàng của NKVM Triệu chứng lâm sàng của nhiễm khuẩn vết mổ
Sưng, đau, tấy đỏ vết mổ 19 63,33
Chảy mủ, chảy dịch vết mổ 12 40
Toác vết mổ dưới da 4 13,33
Hầu hết các sản phụ bị nhiễm khuẩn vết mổ đều gặp phải những triệu chứng điển hình như sưng, nóng, đỏ và đau, với tỷ lệ 80% có sốt Ngoài ra, 63,33% sản phụ cũng trải qua tình trạng sưng, đau và tấy đỏ tại vết mổ.
Bảng 2.5 Thời gian điều trị kháng sinhtrong thời gian nhiễm trùng Thời gian điều trị kháng sinh Số lượng (N0) Tỷ lệ
Nhận xét: Hơn một nửa sản phụ nhiễm khuẩn vết mổ phải điều trị kháng sinh từ 5-7 ngày chiếm 53,33%
Bảng 2.6 Phối hợp kháng sinh sau mổ lấy thai Nhóm kháng sinh kết hợp Tổng số (N 0) Tỷ lệ %
Nhận xét: Đa số các sản phụ nhiễm khuẩn vết mổ đều phải dùng phối hợp
2 nhóm kháng sinh trong quá trình điều trị chiếm 83,33%
Bảng 2.7 Thời gian khâu lại vết mổ sau điều trị kháng sinh
Thời gian khâu lại vết mổ
Nhận xét:Phần lớn các sản phụ được khâu lại vết mổ trong vòng 10 ngày chiếm 60%
2.2.2 Thực trạng công tác chăm sóc người bệnh nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai tại khoa C3 bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2020
Bảng 2.8 Công tác tư vấn, hướng dẫn GDSK cho NB (n = 30)
Tỷ lệ (%) ĐD thực hiện hướng dẫn NB cách tự theo dõi, chăm sóc trong quá trình điều trị
Thực hiện hướng dẫn đầy đủ 24 80
Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 6 20
Không thực hiện 0 0 ĐDhướng dẫn cho NB về chế độ ăn uống trong điều trị, sau khi ra viện
Thực hiện hướng dẫn đầy đủ 14 46,6
Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 10 33,3
Không thực hiện 6 20,1 ĐD thực hiện hướng dẫn cho NB về chế độ
Thực hiện hướng dẫn đầy đủ 18 60
Tỷ lệ (%) sinh hoạt trong khi nằm điều trị và sau khi ra viện
Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 9 30
Không thực hiện 3 10 ĐD thực hiện hướng dẫn NB cách tự phòng bệnh trong khi điều trị và sau khi ra viện về sinh hoạt tại gia đình
Thực hiện hướng dẫn đầy đủ 0 0
Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 25 83,3
Không thực hiện 5 16,7 ĐD hướng dẫn NB các phương pháp luyện tập nâng cao sức khỏe tại gia đình sau khi ra viện
Thực hiện nhưng chưa chu đáo 20 66,6
Trong công tác tư vấn giáo dục sức khỏe (GDSK) cho bệnh nhân (NB), điều dưỡng (ĐD) đã thực hiện đầy đủ hướng dẫn cho NB về cách tự theo dõi và chăm sóc trong quá trình điều trị, đạt tỷ lệ cao nhất là 80% Tuy nhiên, nội dung mà NB đánh giá thấp nhất là việc ĐD hướng dẫn các phương pháp luyện tập nâng cao sức khỏe tại gia đình sau khi ra viện, với tỷ lệ thực hiện chỉ đạt 66,6% và chưa được chu đáo.
Nội dung Số lượng Tỷ lệ
Quan tâm, chia sẻ, hỏi thăm sức khỏe của người bệnh trong quá trình chăm sóc và điều trị
Thực hiện nhưng chưa tốt (có hỏi thăm nhưng thái độ không niềm nở, thông cảm)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ
(%) Động viên người bệnh yên tâm điều trị trong quá trình chăm sóc, làm thủ thuật
Thực hiện nhưng chưa tốt (lúc có, lúc không > 1 lần/ngày)
Thực hiện giải đáp kịp thời những băn khoăn, thắc mắc của người bệnh trong quá trinh điều trị và chăm sóc
Thực hiện nhưng chưa tốt (có giải đáp nhưng không kịp thời)
Thái độ, hành vi, lời nói trong giao tiếp và cư xử với người bệnh
Luôn tôn trọng, thái độ ân cần, thông cảm 23 76,6
Thực hiện nhưng chưa tốt ( lúc có, lúc không) 7 23,4
Công tác chăm sóc và hỗ trợ tâm lý, tinh thần cho người bệnh của điều dưỡng đã được người bệnh đánh giá tích cực, cho thấy sự thực hiện đầy đủ trong tất cả các khía cạnh.
Tỷ lệ người bệnh đánh giá cao sự quan tâm và chia sẻ từ đội ngũ y tế, với 76,6% cho biết họ thường xuyên được hỏi thăm sức khỏe và động viên yên tâm điều trị Ngoài ra, 76,6% người bệnh cũng nhận thấy sự tôn trọng và thái độ ân cần, thông cảm trong quá trình chăm sóc và thực hiện thủ thuật.
Bảng 2.10: Công tác chăm sóc theo dõi, đánh giá người bệnh (n = 30)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ
Nội dung Số lượng Tỷ lệ
(%) Điều dưỡng thực hiện đo mạch, nhiệt độ, huyết áp,3 lần/ngàycho
NB trong thời gian nằm viện
Thực hiện nhưng không đầy đủ 10 33,4
Điều dưỡng cần theo dõi diễn biến sức khỏe của bệnh nhân hàng ngày và hỏi thăm tình hình bệnh tật để phát hiện sớm các biến chứng trong thời gian nằm viện.
Thực hiện chưa đầy đủ
Không thực hiện 3 10,1 Điều dưỡngcó đến ngay và xử trí kịp thời khi NB có dấu hiệu bấtthường
Theo đánh giá của người bệnh, 66,6% cho rằng điều dưỡng thực hiện tốt việc đo mạch, nhiệt độ và huyết áp hàng ngày trong thời gian nằm viện Cũng có 66,6% điều dưỡng thường xuyên hỏi thăm tình trạng bệnh tật của người bệnh Đặc biệt, 60% người bệnh nhận xét điều dưỡng đã đến kịp thời và xử trí ngay khi có dấu hiệu bất thường Chỉ có 10% người bệnh phản ánh rằng điều dưỡng chưa đến ngay và xử lý kịp thời khi có dấu hiệu bất thường.
Bảng 2.11 Hỗ trợ điều trị và phối hợp thực hiện y lệnh của bác sĩ
Tỷ lệ (%) ĐD thực hiện thông báo, giải thích công việc sắp làm trước khi thực hiện y lệnh của bác sĩ
Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 4 13,4
Không thực hiện 0 0 ĐD thực hiện kiểm tra tên, tuổi của NB, giải thích đầy đủ trước mỗi lần thực hiện y lệnh thuốc cho NB
Thực hiện chưa đầy đủ 6 20
Không thực hiện 0 0 ĐD động viên, giải thích rõ ràng trước mỗi lần thực hiện thủ thuật tiêm, truyền, chăm sóc vết mổ…cho NB
Có, thực hiện đầy đủ 24 80 Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 6 20
Không thực hiện 0 0 ĐD hướng dẫn NB những việc cần chuẩn bị trước mỗi lần làm xét nghiệm, siêu âm
Có, thực hiện hiện hướng dẫn đầy đủ 27 90
Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 3 10
Bài đánh giá về công tác hỗ trợ điều trị và phối hợp thực hiện y lệnh của bác sĩ cho thấy hầu hết các nội dung được người bệnh đánh giá thực hiện tốt, với tỷ lệ cao trên 80% Điều này chứng tỏ sự hiệu quả trong việc chăm sóc và hỗ trợ bệnh nhân trong quá trình điều trị.
BÀN LUẬN
Các ưu điểm và tồn tại trong chăm sóc người bệnh nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai
mổ sau mổ lấy thai
- Điều dưỡng đã thực hiện đúng và đầy đủ quy trình chăm sóc theo quy định
- Bác sỹ và điều dưỡng phối hợp tốt trong quá trình điều trị và chăm sóc người bệnh
- Người bệnh được chăm sóc đúng quy trình
- Người bệnh được hướng dẫn chế độ tập luyện hợp lý theo thời gian và tình trạng sức của người bệnh
- Trang thiết bị cơ sở hạ tầng của bệnh viện đầy đủ, sạch sẽ đảm bảo cho quá trình chăm sóc sản phụ
Điều dưỡng và hộ sinh đôi khi chưa chú trọng đầy đủ vào việc chăm sóc sản phụ, dẫn đến việc họ dành ít thời gian tư vấn cho bệnh nhân Sự thiếu cụ thể trong tư vấn khiến sản phụ gặp khó khăn trong việc thực hiện các hướng dẫn.
- Kỹ năng tư vấn giáo dục sức khỏe của Hộ Sinh/ Điều dưỡng tốt nhưng do khối lượng công việc nhiều nên làm chưa đầy đủ
- Ghi chép hồ sơ đôi lúc chưa cập nhật kịp thời hoặc quên
- Khoa phòng còn chật hẹp, bệnh nhân quá tải nên vẫn còn bệnh nhân phải nằm giường bạt
- Số lượng phòng vệ sinh ít nên chưa đạt được tối đa sự hài lòng của người bệnh
3.1.3 Nguyên nhân của những hạn chế
- Nguyên nhân có thể do khối lượng công việc quá nhiều
- Hộ sinh/ Điều dưỡng còn chưa chuyên tâm vào công việc
- Hộ sinh/ Điều dưỡng cần được cập nhật kiến thức kỹ năng tư vấn
- Sản phụ và gia đình sản phụ yêu cầu cao.
Thuận lợi và khó khăn trong chăm sóc người bệnh nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai
mổ sau mổ lấy thai
Bệnh viện và các khoa phòng luôn đảm bảo cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế đầy đủ nhằm phục vụ tốt nhất cho việc chăm sóc người bệnh.
- Về phí nhân viên y tế: Được trang bị đầy đủ các quy trình chuẩn về chăm sóc người bệnh nhiễm khuẩn vết mổ
- Về phía người bệnh:Luôn hợp tác với các nhân viên y tế trong công tác chăm sóc và điều trị
- Bệnh nhân quá tải so với điều kiện cơ sở vật chất và đội ngũ y tế
- Nhiều nhân viên trẻ còn thiếu kinh nghiệm trong công tác chăm sóc bệnh nhân.
Giải pháp để khắc phục những tồn tại
- Tăng cường các chương tình đào tạo chuyên sâu về các quy trình chăm sóc người bệnh
- Xây dựng các quy trình chăm sóc chuẩn, phù hợp
- Nâng cao năng lực tư vấn sức khỏe cho điều dưỡng
- Xây dựng cơ sở vật chất, phối hợp với khoa dinh dưỡng cung cấp chế độ dinh dưỡng phù hợp cho bệnh nhân
Để đáp ứng nhu cầu chăm sóc ngày càng tăng của sản phụ, cần phải nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và buồng bệnh, nhằm tránh tình trạng thiếu hụt về cơ sở vật chất trong quá trình phục vụ.
- Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra
Bệnh viện thực hiện kiểm tra, giám sát và đánh giá quy trình chăm sóc sản phụ sau sinh để đảm bảo các tiêu chuẩn điều dưỡng và nữ hộ sinh được thực hiện đầy đủ.
- Tăng cường thêm nguồn lực y tế để giảm bớt khối lượng công việc, áp lực công việc cho cán bộ điều dưỡng, hộ sinh
- Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho điều dưỡng, hộ sinh được tập huấn, học tập nâng cao trình độ chuyên môn và nghiên cứu khoa học
Để nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh, cần thu thập ý kiến phản hồi từ sản phụ và gia đình thông qua phiếu đánh giá sự hài lòng, hòm thư góp ý, và tích hợp những ý kiến này vào tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ.
- Áp dụng đúng và đầy đủ quy trình chăm sóc thiết yếu cho bà mẹ và trẻ sơ sinh trong và sau đẻ
- Người điều dưỡng, hộ sinh cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao kỹ năng chăm sóc sản phụ
Tăng cường mối quan hệ với đồng nghiệp là rất quan trọng để nâng cao hiệu quả chăm sóc bệnh nhân Học hỏi kiến thức chuyên sâu và phối hợp chặt chẽ trong khoa phòng và bệnh viện sẽ giúp cải thiện chất lượng dịch vụ y tế.
- Sản phụ tham gia cùng với điều dưỡng, hộ sinh lập kế hoạch chăm sóc và thực hiện kế hoạch chăm sóc đạt hiệu quả cao nhất
- Sửa chữa các phòng bệnh do cũ.