TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
Nhiều dân tộc, đặc biệt ở các nước nghèo, phụ thuộc vào cây thu hái hoang dại cho thực phẩm, vật liệu xây dựng, chất đốt và thuốc chữa bệnh Hiện nay, tri thức bản địa về sử dụng cây thuốc đang phát triển mạnh mẽ ở một số quốc gia trên thế giới.
Tại Việt Nam, nguồn tài nguyên thực vật đang đối mặt với nguy cơ mai một do tăng dân số và sự cạnh tranh trong sử dụng đất cho canh tác, xây dựng và khai thác Đồng thời, kho tàng tri thức dân gian của các dân tộc thiểu số, đặc biệt là tri thức y học bản địa, cũng đang dần bị lãng quên Việt Nam sở hữu nhiều loại dược liệu quý hiếm và tri thức y học truyền thống phong phú, với nhiều bài thuốc có giá trị, tạo điều kiện cho sự phát triển của nền y dược cổ truyền.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), 80% dân số ở các nước đang phát triển vẫn dựa vào thuốc thảo dược cho chăm sóc sức khỏe Tại Việt Nam, mỗi năm tiêu thụ khoảng 50-60 nghìn tấn dược liệu để chế biến thuốc y học cổ truyền, phục vụ ngành dược hoặc xuất khẩu Việc bảo tồn cây thuốc dân tộc không chỉ là bảo tồn thực vật mà còn gắn liền với tri thức của dân tộc thiểu số; nếu tri thức này mất đi, cây thuốc sẽ trở thành cây hoang dại Do đó, nghiên cứu về các loài cây thuốc là cần thiết để bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu cho thế hệ hiện tại và tương lai.
Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trong nước và trên Thế giới
2.2.1 Tình hình nghiên cứu trên Thế giới
Trong những năm gần đây, nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc cho mục đích chữa bệnh của người dân bản địa đã được các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục Ở Châu Á, nơi có nhiều dân tộc bản địa sinh sống, tri thức về việc sử dụng thực vật làm thuốc rất phong phú và đa dạng Các nghiên cứu cụ thể đã được tiến hành tại nhiều cộng đồng và khu vực khác nhau.
Manju Panghal và cs (2010) công trình nghiên cứu kiến thức bản địa về cây thuốc được sử dụng ở cộng đồng Saperas của làng Khetawas, quận
Nghiên cứu tại Jhajjar, Haryana, Ấn Độ đã phát hiện 57 loài thực vật thuộc 51 chi và 35 họ được cộng đồng Saperas sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh khác nhau Trong số đó, cây thuốc thuộc họ Fabaceae là nhóm được sử dụng phổ biến nhất.
Arshad Abbasi và cộng sự (2013) đã nghiên cứu về thực vật học và giá trị văn hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học tại Lesser dãy Hymalaya Họ ghi nhận có 45 loại rau thuộc 38 chi và 24 họ được người dân sử dụng để điều trị nhiều bệnh khác nhau và tiêu thụ.
Mi-Jang Song và cộng sự (2013) đã tiến hành khảo sát cây thuốc trên đảo Jeju, Hàn Quốc, phát hiện 171 loài thực vật thuộc 141 chi và 68 họ Nghiên cứu ghi nhận 777 cách sử dụng các loài cây thuốc của người dân địa phương.
Auemporn Junsongduang và cs (2013) nghiên cứu về cây thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lan đã chỉ ra
365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong đó các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng nhiều nhất [45]
Mi-Jang Song và cộng sự (2014) đã tiến hành nghiên cứu và phân tích các kiến thức truyền thống về cây thuốc của cư dân tại Vườn quốc gia Gayasan, Hàn Quốc, trong đó họ đã điều tra và thống kê được 200 loài thực vật.
Cư dân đã sử dụng 168 chi và 87 họ thực vật để điều trị nhiều bệnh như rối loạn cơ xương, đau nhức, rối loạn hệ hô hấp, bệnh gan và các vết thương Châu Âu, với lịch sử y học dân gian phong phú, đã lưu giữ tri thức bản địa qua ghi chép và truyền miệng qua nhiều thế kỷ (Cassandra L Quave và cs., 2012) Gần đây, nhiều nghiên cứu khoa học đã được thực hiện về việc sử dụng thực vật để điều trị bệnh cho người dân bản địa.
Nghiên cứu của Maria Leporatti và cộng sự (2007) tại khu vực Alto Tirreno Cosentino, Calabria, miền Nam Ý đã phát hiện 52 loài thực vật thuộc 35 họ được người dân sử dụng để điều trị các bệnh như bệnh ngoài da, bệnh hô hấp, đau răng, sâu răng và đau thấp khớp.
Nghiên cứu của Montse Parada và cộng sự (2009) về thực vật dân tộc ở khu vực Alt Empordà, Catalonia, bán đảo Iberia đã phát hiện ra 518 loài thực vật thuộc 335 chi và 80 họ, được người dân sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh khác nhau.
Nghiên cứu của Behxhet Mustafa và cộng sự (2012) về các loài thực vật làm thuốc ở dãy núi Alps Albania tại Kosovo đã ghi nhận 98 loài thuộc 39 họ, được người dân sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh Các cây thuốc phổ biến nhất chủ yếu thuộc họ Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae Tại Châu Mỹ, cũng đã có các nghiên cứu tương tự về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa.
Nghiên cứu của Rainer W Bussmann và Douglas Sharon (2006) về việc sử dụng cây thuốc cổ truyền tại miền Bắc Peru đã ghi nhận 510 loài thực vật được người dân địa phương sử dụng để điều trị bệnh Các họ thực vật được sử dụng nhiều nhất bao gồm Asteraceae, Fabaceae, Lamiaceae, Solanaceae, Euphorbiaceae và Poaceae.
Cecilia Almeida và cộng sự (2006) đã tiến hành nghiên cứu về các cây thuốc phổ biến tại khu vực Xingo, một vùng khô hạn ở Đông Bắc Brazil, và phát hiện ra 187 loài thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị nhiều bệnh như cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim mạch, bệnh thận, viêm và an thần.
Nghiên cứu của Gabriele Volpato và cộng sự (2009) về việc sử dụng cây thuốc của người nhập cư Haiti và con cháu họ tại tỉnh Camaguey, Cuba đã phát hiện 123 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh khác nhau.
Nghiên cứu của Gaia Luziatelli và cộng sự (2010) về cây thuốc của cộng đồng Ashaninka tại Bajo Quimiriki, Junin, Peru đã phát hiện 402 loài thực vật được sử dụng để điều trị bệnh Các loài cây này chủ yếu thuộc các họ Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và Piperaceae.
Nghiên cứu của Yadav Uprety và cộng sự (2012) về việc sử dụng cây thuốc trong rừng phương Bắc Canada đã phát hiện 546 loài cây thuốc được người thổ dân sử dụng để điều trị 28 bệnh và triệu chứng khác nhau Trong đó, các cây thuốc chủ yếu được sử dụng để chữa các rối loạn liên quan đến dạ dày - ruột và cơ xương.
Nghiên cứu năm 2014 về "Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo León, Mexico" đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228 chi và 91 họ được sử dụng để điều trị bệnh Trong số đó, hai họ thực vật chủ yếu được sử dụng là Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada-Castillón và cộng sự, 2014).
Tổng quan khu vực nghiên cứu
2.3.1 Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
Xã Vân Trình thuộc huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, nằm ở phía Bắc huyện Thạch An và cách trung tâm huyện khoảng 2 km Địa giới hành chính của xã được xác định rõ ràng.
+ Phía Đông giáp xã Thụy Hùng
+ Phía Tây giáp xã Thái Cường
+ Phía Nam giáp xã Lê Lai
+ Phía Bắc giáp huyện Hòa An và huyện Quảng Hòa
- Diện tích tự nhiên: 3238,51 ha
Xã Vân Trình có vị trí thuận lợi với hệ thống giao thông phát triển, bao gồm quốc lộ 4A và các tỉnh lộ 208, 209 nối liền với các huyện Thạch An và Phục Hòa Giao thông thuận tiện giúp kết nối với các xã lân cận, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và tạo điều kiện cho người dân tiếp cận ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất và đời sống.
Địa hình xã Vân Trình phức tạp với sự phân chia bởi các dãy núi đá vôi và núi đất xen kẽ, tạo nên những thung lũng màu mỡ thích hợp cho nông nghiệp Tuy nhiên, địa hình không bằng phẳng gây khó khăn trong việc bố trí sản xuất, tưới tiêu và giao thông.
Theo báo cáo thống kê đất đai tính đến ngày 31/12/2019 của UBND xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng [39] đã thống kê được như sau:
Tổng diện tích tự nhiên: 3238,51 ha
Diện tích đất nông nghiệp: 2913,3757ha
Diện tích đất phi nông nghiệp: 207,4943ha
Diện tích đất chưa sử dụng: 117,64ha
Xã Vân Trình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với thời tiết nóng ẩm và mưa nhiều Năm chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% lượng mưa cả năm với nhiều trận mưa lớn và gió bão kéo dài từ 2 đến 4 ngày; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, có lượng mưa ít và thời kỳ hanh khô kéo dài từ 15 đến 25 ngày, khiến nhiều diện tích canh tác bị khô cạn Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23,4°C, với tháng 7 là tháng nóng nhất (28,9°C) và tháng 1 là tháng lạnh nhất (15,8°C), chênh lệch nhiệt độ giữa tháng cao nhất và thấp nhất là 13,1°C Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.530 đến 1.776 giờ, trong đó tháng 7 có nhiều giờ nắng nhất và tháng 1 có ít giờ nắng nhất Lượng mưa hàng năm dao động từ 1.400 mm.
Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1500 mm, chủ yếu tập trung vào các tháng 6, 7 và 8 Trong một số năm, lượng mưa có thể lên tới 2000 mm, dẫn đến hiện tượng ngập úng kéo dài do mưa lớn tập trung.
2.3.2 Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu
Xã Vân Trình có 14 xóm với tổng số hộ là 759 hộ, tổng số nhân khẩu là
2515 người, nhân khẩu lao động là 1.322 người (lao động nam là 793, nữ là
529) trong đó lao động nông nghiệp có 1.256 người chiếm 95% tổng lao động toàn xã Tỷ lệ tăng dân số trung bình là 1%
Lao động đã qua đào tạo 238 người (chiếm 18% tổng số lao động), trong đó lao động nông nghiệp là 1071 người chiếm 81%, lao động phi nông nghiệp là 26 người (chiếm 0,02%)
Trên địa bàn xã, có bốn dân tộc anh em sinh sống, bao gồm: dân tộc Kinh với 22 người (chiếm 0,76%), dân tộc Nùng với 1.443 người (chiếm 49,66%), dân tộc Tày với 1.347 người (chiếm 46,35%), và dân tộc Dao với 94 người (chiếm 3%).
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng, phạm vi thời gian và địa điểm nghiên cứu
Các cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, đã sử dụng nhiều loài thực vật làm thuốc chữa bệnh Kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của họ thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về các loại thảo dược trong việc điều trị bệnh tật.
- Địa điểm nghiên cứu: Công tác điều tra thực địa được tiến hành tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 đến tháng 5/2020
- Nghiên cứu tri thức về kinh nghiệm sử dụng sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc: Nùng, Tày và Dao.
Nội dung nghiên cứu
* Đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong các cộng đồng dân tộc tại xã Vân Trình, huyện Thạch an, tỉnh Cao Bằng:
- Đánh giá đa dạng các bậc taxon của nguồn tài nguyên cây thuốc: đa dạng bậc họ; đa dạng bậc chi
- Đánh giá đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc
- Đánh giá về môi trường sống của thực vật làm thuốc
* Xác định những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn: Đánh giá ở mức độ quý hiếm của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu
* Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng
- Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình
- Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình
- Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc
- Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình
Nghiên cứu đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc quý được các cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Vân Trình sử dụng Các loài cây này không chỉ có giá trị trong y học cổ truyền mà còn đóng góp vào việc bảo tồn văn hóa và tri thức của các dân tộc Việc xác định hiệu quả kháng khuẩn của chúng sẽ mở ra cơ hội phát triển các sản phẩm từ thiên nhiên, đồng thời nâng cao nhận thức về giá trị của cây thuốc trong cộng đồng.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, với mục tiêu đạt kết quả nghiên cứu cụ thể Các phương pháp và giải pháp thực hiện ý tưởng sẽ được triển khai nhằm đảm bảo tính hiệu quả và chất lượng của nghiên cứu.
Kế thừa các tài liệu về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội trong khu vực nghiên cứu là rất quan trọng, cùng với việc tham khảo các nghiên cứu liên quan để đảm bảo tính chính xác và đầy đủ cho vấn đề nghiên cứu.
- Kế thừa kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các ông lang, bà mế người dân tộc ở khu vực nghiên cứu
3.3.2 Phương pháp điều tra cộng đồng
Trong khu vực nghiên cứu, chúng tôi tiến hành phỏng vấn các ông lang, bà mế và người dân có kinh nghiệm về việc sử dụng cây thuốc và các bài thuốc gia truyền của các cộng đồng dân tộc Mẫu phiếu điều tra được thiết kế dựa trên phiếu điều tra cây thuốc trong cộng đồng và phiếu điều tra bài thuốc dân gian do Viện Dược liệu phát triển vào năm 1993.
Để thu thập thông tin về cây thuốc, cần ghi chép đầy đủ các yếu tố như tên phổ thông và tên địa phương, số hiệu mẫu hoặc ảnh cây thuốc, dạng sống và môi trường sống Đồng thời, cần xác định bộ phận sử dụng làm thuốc, bao gồm thân, rễ, hoa, quả, hạt, nhựa và vỏ, cùng với công dụng của chúng Ngoài ra, việc ghi lại những đặc điểm dễ nhận biết của cây trong tự nhiên, cũng như thời gian, địa điểm và người thu thập thông tin là rất quan trọng.
Để định danh tên cây, cần thực hiện theo các bước sau: đầu tiên, tiến hành định danh tại thực địa; tiếp theo, sử dụng kiến thức và kinh nghiệm của các chuyên gia, cùng với các nguồn tài liệu tin cậy đã được công bố để giám định lại.
Bước đầu tiên trong quá trình điều tra là xác định sơ bộ tên địa phương và tên thường gọi của các loài thực vật Đối với những loài chưa xác định rõ, cần chú thích để kiểm tra lại ở bước tiếp theo Đối với các loài không biết tên, cần thu thập mẫu như lá, hoa, hoặc quả và ghi lại vào biểu điều tra bằng các ký hiệu như sp1, sp2 để phục vụ cho việc giám định sau này.
Tất cả các cây sẽ được xác định lại tên gọi và lập danh mục cây thuốc dựa trên kiến thức chuyên môn của các chuyên gia thực vật, cùng với các tài liệu đáng tin cậy đã được công bố, như cuốn "Cây cỏ Việt Nam" của Phạm Hoàng Hộ.
Tài liệu tham khảo bao gồm "Từ điển Cây thuốc Việt Nam" của Võ Văn Chi (2012), "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" của Đỗ Tất Lợi (2005), và "Danh lục các loài thực vật Việt Nam" do Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV biên soạn (2006) Danh sách tên cây thuốc sẽ được cập nhật và hoàn thiện trong bước này.
Bảng 3.1 Mẫu bảng điều tra cây thuốc được các cộng đồng dân tộc ở khu vực nghiên cứu
Thời gian điều tra: Người điều tra: Địa điểm điều tra: Địa chỉ điều tra:
Họ tên, điện thoại Địa chỉ liên hệ
3.3.3 Phương pháp thu thập mẫu Đối với loài cây chưa xác định được tên ở ngoài thực địa và loài cần giám định lại tên
Trong quá trình thu mẫu ở thực địa, mỗi cây thuốc được thu từ 3 đến 10 mẫu, tất cả các mẫu đều được gắn nhãn rõ ràng với thông tin về ký hiệu mẫu, địa điểm, thời gian thu thập và tên người thu mẫu Các mẫu cùng cây sẽ được đánh số theo cùng một số hiệu để đảm bảo tính nhất quán và dễ dàng quản lý.
Để thu mẫu hiệu quả, cần chuẩn bị các dụng cụ như bản gỗ ép mẫu, túi đựng mẫu, bao tải dứa, kéo cắt cây, giấy báo, dây buộc, etyket, bút chữ A, sổ ghi chép và máy ảnh (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997) [34].
Hình 3.1 Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài
3.3.4 Phương pháp đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc Đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của các cộng đồng dân tộc ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, đề tài sử dụng phương pháp đánh giá của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [34]:
- Đa dạng về bậc phân loại: ngành, lớp, họ, chi, loài
- Đa dạng về dạng sống: kí sinh, dây leo, gỗ trung bình, gỗ nhỏ, thảo, bụi
- Đa dạng về môi trường sống: rừng, đồi, vườn, ven suối hoặc nơi ẩm ướt
- Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc: thân, rễ, lá, hoa, quả, hạt,
- Đa dạng về cách chế biến cây thuốc: khô và tươi
- Đa dạng về các nhóm bệnh chữa trị: bệnh về khớp, tim, dạ dày, gan, giải độc, xương,…
3.3.5 Phương pháp đánh giá mức độ nguy cấp Đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc, xác định những cây thuốc thuộc diện bảo tồn ở khu vực nghiên cứu theo: Sách đỏ Việt Nam, phần thực vật rừng (Bộ KH&CN, 2007) [3], Nghị định 06/2019/NĐ-CP (Chính phủ nước Việt Nam, 2019) [10], Danh sách đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam (Nguyễn Tập, 2007) [31]
3.3.6 Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn
- Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu
Nguyên liệu lá, thân, rễ cây thuốc sau khi thu hái được rửa sạch, để ráo nước sau đó đem sấy khô ở 90 0 C đến khối lượng không đổi
Nguyên liệu sau khi được sấy khô cần được nghiền thành bột mịn bằng máy xay đa năng nhỏ Sau đó, bột này nên được bảo quản ở nơi khô ráo để phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo.
Nguyên liệu được tách chiết bằng phương pháp ngâm nóng, sử dụng bột khô với tỷ lệ 10 g/100 ml dung môi methanol Quá trình chiết diễn ra trong máy lắc với tần số 200 vòng/phút trong 24 giờ để đảm bảo các chất hoạt tính sinh học tan đều Sau khi lọc qua giấy lọc, 80 ml dịch lọc được cô đặc bằng máy cô quay hoặc sấy khô đến khi khối lượng khô không đổi và được bảo quản ở 4°C để phục vụ cho các nghiên cứu về khả năng kháng khuẩn.
- Bước 3: Chuẩn bị giống vi khuẩn
Sử dụng 2 chủng vi khuẩn gồm 1 chủng gram dương là S.a
Chủng vi khuẩn Staphylococcus aureus và E.coli (Escherichia coli) được lấy từ phòng thí nghiệm Vi sinh - Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên Để bảo quản giống, vi sinh vật được hoạt hóa trong môi trường LB và sau đó được cấy chuyển sang môi trường thạch nghiêng để nuôi cấy.
24 giờ ở 37 0 C, giữ trong tủ lạnh để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo
- Bước 4: Thử khả năng kháng khuẩn
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng
4.1.1 Đa dạng về các bậc Taxon
Nghiên cứu về cây thuốc dựa trên kinh nghiệm của cộng đồng các dân tộc Nùng, Tày và Dao tại xã Vân Trình đã ghi nhận 82 loài thực vật thuộc ngành Ngọc lan (Magnoloiophyta), được phân loại vào 80 chi và 63 họ khác nhau Kết quả chi tiết được trình bày trong Bảng 4.1.
Bảng 4.1 Phân bố các ngành thực vật làm thuốc ở xã Vân Trình, huyện
Stt Magnoloiophyta Số họ Số chi Số loài
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
Kết quả nghiên cứu cho thấy lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) chiếm ưu thế với 56 họ, 72 chi và 73 loài được sử dụng làm thuốc, tương ứng với 88,89%, 90,00% và 89,02% trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) Một ví dụ điển hình là loài Giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino, được sử dụng trong điều trị viêm tai giữa.
Lớp Một lá mầm (Liliopsida) chỉ có 9 loài (Chiếm 10,98%), 8 chi (Chiếm 10,00%) và 7 họ (Chiếm 11,11%) so với tổng số loài, chi, họ điều tra được
Tỉ lệ họ giữa lớp Ngọc lan với lớp Hành là 8,00 nghĩa là trung bình cứ
Trong hệ thống phân loại thực vật, tỷ lệ giữa các họ thuộc lớp Hai lá mầm và lớp Một lá mầm là 8:1 Cụ thể, cứ trung bình 9 chi và 8 loài thuộc lớp Hai lá mầm sẽ có 1 chi và 1 loài thuộc lớp Một lá mầm Tỷ lệ này phản ánh sự phân bố đa dạng giữa hai lớp thực vật.
Các loài cây thuộc ngành Ngọc lan, đặc biệt là những loài trong lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida), chiếm tỷ lệ lớn và có vai trò quan trọng trong việc cung cấp dược liệu cho các dân tộc thiểu số tại khu vực nghiên cứu, được sử dụng để phòng ngừa và chữa trị bệnh.
Dưới đây là một số hình ảnh về một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu:
Hình 4.1 Hình ảnh một số loài cây thuốc ở KVNC
Ké hoa đào - Urena lobata L
Bảy lá một hoa - Paris chinensis Franch
Khoan cân đằng- Tinospora sinensis (Lour.) Merr
Sa nhân - Amomum villosum Lour
4.1.1.2 Số lượng phân bố các loài cây trong từng họ
Khu vực nghiên cứu ghi nhận được tổng cộng 63 họ cây thuốc, với sự phân bố số lượng các loài cây thuốc trong các họ được trình bày chi tiết trong Bảng 4.3.
Bảng 4.2 Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ
Ngành thực vật 1 loài 2 loài
Nguồn số liệu được tổng hợp từ bảng phụ lục 3
Từ kết quả Bảng 4.2 trên số liệu cho thấy, có 3 họ có 3 loài trong đó có
Trong lớp Hai lá mầm, có hai họ chính là Rutaceae (họ Cam) và Menispermaceae (họ Tiết dê) Đồng thời, một họ thuộc lớp Một lá mầm là Araceae (họ Ráy) chiếm 4,76% tổng số họ và 10,98% tổng số loài Trong tổng số họ, có 13 họ với 2 loài thuộc lớp Hai lá mầm, chiếm 20,63% tổng số họ và 31,71% tổng số loài Ngoài ra, có 47 họ chỉ có 1 loài, chiếm 74,60% tổng số họ và 57,32% tổng số loài.
4.1.1.3 Các họ đa dạng nhất
Kết quả đánh giá cho thấy ba họ cây thuốc đa dạng nhất được sử dụng theo kinh nghiệm của cộng đồng dân tộc thiểu số Nùng, Tày và Dao tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, được trình bày trong Bảng 4.3.
Khu vực nghiên cứu có sự đa dạng sinh học phong phú với các họ thực vật nổi bật như họ Cam (Rutaceae) với 2 chi và 3 loài, họ Tiết dê (Menispermaceae) bao gồm 3 chi và 3 loài, cùng với họ Ráy (Araceae) có 2 chi và 3 loài.
Bảng 4.3 Các họ đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu
Tên họ Số loài Số chi
Tên Việt Nam Tên Khoa học Số loài Tỉ lệ % Số chi Tỉ lệ %
Tổng số được phát hiện:
Trong 3 họ giàu loài được xác định ở xã Vân Trình thì không có họ nào nằm trong 10 họ đa dạng nhất của hệ thực vật Việt Nam Điều này cho thấy tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại khu vực nghiên cứu vẫn còn thấp, do vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc
Kết quả so sánh các họ giàu loài của nguồn cây thuốc tại xã Vân Trình với họ giàu loài của hệ thực vật Việt Nam, theo nghiên cứu của Nguyễn Nghĩa Thìn (2005), được trình bày trong Bảng 4.4.
Bảng 4.4 So sánh các họ giầu loài ở KVNC (1) với số loài của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2)
Stt Họ nhiều loài KVNC
Theo Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2006), có nhiều loài cây thuốc thuộc các họ khác nhau trong khu vực miền Bắc Việt Nam.
Bảng kết quả chỉ ra rằng cộng đồng các dân tộc Nùng, Tày và Dao tại xã Vân Trình sử dụng 3 họ thực vật giàu loài làm thuốc chữa bệnh, bao gồm Rutaceae (chiếm 2,34%), Araceae (1,71%) và Menispermaceae (5,77%), với mỗi họ đều có 3 loài được sử dụng.
Số lượng loài được sử dụng làm thuốc tại Việt Nam còn rất thấp so với tổng số loài trong cùng một họ, cho thấy tiềm năng lớn trong việc phát hiện thêm nhiều loài có thể ứng dụng trong y học.
4.1.2 Đa dạng về dạng sống của nguồn tài nguyên cây thuốc
Trong nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc tại xa Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, tôi đã phát hiện 82 loài cây thuốc khác nhau mà người dân địa phương sử dụng, cho thấy sự đa dạng về các dạng sống của chúng Kết quả chi tiết được trình bày trong Bảng 4.5 dưới đây.
Bảng 4.5 Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở KVNC
Stt Dạng sống Số lượng Tỉ lệ
Tổng số loài được điều tra được 82
Bảng kết quả cho thấy, ba cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao tại KVNC đã sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc dựa trên kinh nghiệm truyền thống, tập trung vào 6 dạng sống, trong đó chủ yếu là 4 dạng sống cây thân thảo, dây leo và gỗ nhỏ.
Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được ở khu vực nghiên cứu
Dựa trên các tài liệu bảo tồn như Sách đỏ Việt Nam - Phần II Thực vật (2007), Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam trong “Cẩm nang cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam” của Nguyễn Tập (2007), và Nghị định số 06/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22 tháng 01 năm 2019, tôi đã xác định các loài cây thuốc cần được bảo tồn Kết quả được trình bày trong Bảng 4.7.
Bảng 4.7 Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ở xã Vân
Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng
Tt Tên phổ thông Tên khoa học Thuộc họ
1 Lan kim tuyến Anoectochilus setaceus Blume
Orchidaceae - Họ lan EN IA
4 Bảy lá một hoa Paris chinensis Franch Trilliaceae - Họ trọng lâu IIA EN
5 Hà thủ ô đỏ Fallopia multiflora
Họ rau răm VU EN
8 Cốt toái bổ Drynaria fortunei
SĐVN, hay Sách đỏ Việt Nam, là tài liệu quan trọng ghi nhận các loài thực vật và động vật đang bị đe dọa Nghị định 06/2019/NĐ-CP quy định về việc bảo tồn và phát triển bền vững các loài này Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam 2006 (DLĐCTVN) liệt kê các loài cây thuốc quý, trong đó có nhiều loài được phân loại theo mức độ nguy cấp như VU (Sắp nguy cấp) và EN (Nguy cấp) Các loài thuộc nhóm IA bị nghiêm cấm khai thác và sử dụng vì mục đích thương mại, trong khi nhóm IIA chỉ được khai thác và sử dụng với sự hạn chế nhất định.
Theo bảng kết quả, có 8 loài cây thuốc cần bảo tồn, chiếm 9,76% tổng số loài được điều tra Những loài này thuộc 8 họ và 8 chi, được cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng sử dụng để chữa bệnh.
Số loài có tên trong Nghị định số 06/2019/NĐ-CP là 6 loài, trong đó có
1 loài ở mức IA - Nghiêm cấm khai thác sử dụng đó là loài Lan kim tuyến -
Anoectochilus setaceus Blume được người Nùng ở KVNC sử dụng để điều trị bệnh tim và bệnh máu trắng Hiện nay, có 5 loài thực vật nằm trong mức IIA - Hạn chế khai thác, bao gồm Bình vôi (Stephania rotunda Lour) và Hoàng tinh hoa trắng.
- Disporopsis longifolia Craib; Bảy lá một hoa - Paris chinensis Franch; Hoàng đằng - Fibraurea tinctoria Lour; Cốt toái bổ - Drynaria fortunei
(Kuntze ex Mett.) J.Sm chiếm 75,00% tổng số loài thuộc diện cần bảo tồn đã phát hiện được ở KVNC.
Theo Sách đỏ Việt Nam (2007), có 4 loài cây thuốc được ghi nhận, trong đó 3 loài đang ở mức độ nguy cấp (EN), chiếm 37,5% tổng số loài cần bảo tồn đã được phát hiện tại khu vực này Một trong số đó là loài Lan kim tuyến.
Anoectochilus setaceus Blume, Giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum
(Thunb.) Makin và; Cốt toái bổ - Drynaria fortunei (Kuntze ex Mett.) J.Sm
Có 1 loài ở mức độ sắp nguy cấp (VU) chiếm 12,5% tổng số loài cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn đã phát hiện được ở KVNC đó là các loài: Hà thổ ô đỏ
Theo Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam (2006), trong số 4 loài cây thuốc, có 3 loài đang ở mức độ nguy cấp (EN), chiếm 37,5% tổng số loài cần bảo tồn Ngoài ra, có 1 loài thuộc mức độ đang nguy cấp (VU), đó là Giảo cổ lam.
Ngoài ra, trong số 8 loài cây thuốc này có 1 loài là: Cốt toái bổ -
Drynaria fortunei (Kuntze ex Mett.) J.Sm đã được ghi nhận trong ba tài liệu bảo tồn quan trọng: Nghị định số 06/2019/NĐ-CP của Chính phủ, Sách đỏ Việt Nam (2007) và Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam (2006) Do đó, việc áp dụng các biện pháp khai thác và sử dụng hợp lý loài cây thuốc này là cần thiết, nhằm hỗ trợ công tác chữa bệnh bền vững cho cộng đồng dân tộc thiểu số trong khu vực nghiên cứu cũng như cho toàn bộ Việt Nam.
Vốn tri thức trong việc sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng
4.3.1 Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình
Nghiên cứu về bộ phận sử dụng của cây thuốc không chỉ làm nổi bật tính đa dạng trong khả năng chữa bệnh mà còn có ý nghĩa quan trọng trong công tác bảo tồn Việc tìm hiểu các bộ phận này giúp đánh giá tính bền vững trong khai thác và sử dụng tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số Kết quả thống kê về các bộ phận sử dụng làm thuốc dựa trên kinh nghiệm của các dân tộc Nùng, Tày và Dao tại xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng được trình bày chi tiết trong Bảng 4.8.
Bảng 4.8 Bộ phận sử dụng của cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc ở KVNC
Stt Bộ phận sử dụng
Tổng số phát hiện theo mỗi dt 57 23 13
Chú thích: Tỷ lệ % trong bảng lớn hơn 100% do một số loài có thể sử dụng nhiều bộ phận khác nhau làm thuốc
Kết quả thống kê cho thấy ba cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao sử dụng đa dạng các bộ phận của cây làm thuốc, với tổng cộng 8 bộ phận được ghi nhận Trong đó, các bộ phận như cả cây, lá và rễ được sử dụng nhiều hơn so với các bộ phận khác.
Bộ phận sử dụng cả cây được 3 dân tộc sử dụng nhiều nhất, trong đó dân tộc Nùng chiếm ưu thế với 25/57 loài (43,86%) Dân tộc Tày và Dao cũng biết sử dụng cây, với tỷ lệ lần lượt là 9/23 loài (39,13%) và 10/13 loài (76,92%) Những loài cây có giá trị như cây Si - Ficus benjamina L được dùng làm thuốc bổ chữa xương khớp, trong khi cộng đồng dân tộc Tày sử dụng Ngũ gia bì chân chim - Schefflera heptaphylla để điều trị bệnh xương khớp và đau lưng.
Mác tọc tẹc là loại thảo dược được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị các bệnh xương khớp và thần kinh tọa Đồng thời, cộng đồng dân tộc Tày cũng áp dụng loại thảo dược này để chữa trị các chấn thương Ngoài ra, Thôi ba - Alangium chinense (Lour.) Harms, còn được gọi là Mạy đa, cũng được người Nùng sử dụng để điều trị viêm họng.
Dân tộc Nùng sử dụng lá thuốc nhiều nhất, với 11/57 loài, chiếm 19,30% tổng số loài được điều tra, trong khi dân tộc Tày có 5/23 loài, tương đương 21,74% Cộng đồng dân tộc Dao chưa ghi nhận việc sử dụng lá làm thuốc Một số loài tiêu biểu trong nhóm này là cây khế.
Averrhoa bilimbi L (1 Mác phường) được cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng để điều trị ốm sốt và dị ứng; Cánh kiến - Mallotus philippinesis (Lamk.)
Muell.-Arg (1 Rùng hao) được dân tộc Nùng áp dụng trong việc điều trị rắn cắn, trong khi đó, Ổi - Psidium guajava L (2 Mác ội) là thảo dược được cộng đồng Tày sử dụng để chữa trị bệnh kiết lị.
Cộng đồng dân tộc Nùng đã sử dụng 11 trong số 57 loài cây (chiếm 19,30% tổng số loài được khảo sát), trong khi cộng đồng Tày và Dao lần lượt biết sử dụng 2/23 và 2/13 loài cây thuốc (chiếm 8,70% và 15,38%) Một số loài cây tiêu biểu bao gồm Nhãn (Dimocarpus longan Lour), được sử dụng để điều trị ốm sốt, và Sau sau (Liquidambar formosana Hance), cũng được cộng đồng dân tộc khai thác vì công dụng chữa bệnh.
Nùng được sử dụng để điều trị thần kinh tọa và hỗ trợ điều trị thận, trong khi Cỏ xước (Achyranthes aspera L) được cộng đồng dân tộc Tày ngâm rượu để làm thuốc bổ.
Nghiên cứu cho thấy các bộ phận của cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng Tày, Nùng và Dao rất đa dạng, với kinh nghiệm phong phú nhất từ cộng đồng Nùng Tuy nhiên, việc sử dụng toàn bộ cây hoặc các bộ phận như thân, rễ, củ có thể gây hại cho việc bảo tồn nguồn gen Do đó, cần phát triển và thực hiện các phương pháp trồng cây thuốc bền vững, nhằm bảo tồn và phát triển tài nguyên dược liệu tại khu vực nghiên cứu và toàn Việt Nam.
4.3.2 Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Vân Trình
Qua quá trình điều tra, tôi nhận thấy rằng cộng đồng dân tộc Nùng, Tày và Dao sở hữu kiến thức phong phú về việc sử dụng cây thuốc trong điều trị bệnh Những kinh nghiệm này không chỉ đa dạng mà còn mang tính gia truyền, được áp dụng cho nhiều nhóm bệnh khác nhau Kết quả chi tiết được trình bày trong Bảng 4.9 và Hình 4.2.
Bảng 4.9 Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể Stt Nhóm bệnh chữa trị
1 Nhóm thuốc bổ ( Bổ thận, bổ tim ) 10 17,54 4 17,39 1 7,69
Nhóm bệnh đường tiêu hóa
(Đau bụng,đau dạ dày, viêm loét dạ dày,…)
Nhóm bệnh hệ thần kinh
(thần kinh tọa, cao huyết áp, đau răng, bệnh tim.)
Nhóm bệnh xương khớp, hệ vận động (Đau khớp,
Nhóm bệnh về đường hô hấp (Ho gió, viêm họng, hen.)
6 Nhóm bệnh do động vật cắn(rắn cắn, rết cắn) 5 8,77 0 0,00 2 15,38
7 Nhóm bệnh đường tiết niệu (thận hư, đái dắt.) 3 5,26 1 4,35 2 15,38
8 Nhóm bệnh cảm cúm (sốt ) 3 5,26 1 4,35 0 0,00
Nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục, sinh lý (Băng huyết, vô sinh nam, viên phụ khoa )
10 Nhóm bệnh ngoài da (Dị ứng, mụn nhọt, bỏng) 2 3,51 1 4,35 0 0,00
11 Nhóm bệnh về gan (xơ gan, gan ) 2 3,51 0 0,00 1 7,69
12 Nhóm bệnh về ngộ độc
13 Nhóm bệnh về ung bướu
14 Nhiễm trùng vết thương, cầm máu 0 0,00 0 0,00 2 15,38
Tổng số loài điều tra được của mỗi dt 57 23 13
Chú thích: Tỉ lệ % ở bảng lớn hơn 100 do một số loài có thể sử dụng chữa nhiều nhóm bệnh khác nhau
Hình 4.2 Tỷ lệ nhóm bệnh chữa trị từ nguồn cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc Tày, Nùng, Dao tại xã Vân Trình
Theo kết quả từ Bảng 4.9, cộng đồng ba dân tộc Nùng, Tày và Dao đã sử dụng các loại cây thuốc để điều trị 14 nhóm bệnh khác nhau Cụ thể, người Nùng có khả năng sử dụng thuốc cho 13 nhóm bệnh, người Tày cho 8 nhóm bệnh, và người Dao cho 9 nhóm bệnh Trong số này, có những căn bệnh nan y như ung thư gan, bệnh tim mạch, bệnh thận và bệnh gan.
Cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng một lượng lớn cây thuốc để chữa trị, tập trung vào 5 nhóm bệnh chính Nhóm bệnh làm thuốc bổ chiếm 17,54% với 10 trong tổng số 57 loài cây được điều tra Các nhóm bệnh liên quan đến xương khớp, hệ vận động, tiêu hóa và thần kinh có 13 trong số 62 loài cây, tương đương 20,97% Nhóm bệnh tiêu hóa và tiết niệu mỗi nhóm có 9 loài, chiếm 14,52% Cuối cùng, nhóm bệnh ngoài da có 7 loài, chiếm 11,29%.
Nhóm thuốc bổ Nhóm bệnh đường tiêu hóa Nhóm bệnh hệ thần kinh Nhóm bệnh xương khớp, hệ vận động
Nhóm bệnh về đường hô hấp bao gồm các vấn đề liên quan đến hô hấp như viêm phổi và hen suyễn Nhóm bệnh do động vật cắn thường gây ra nhiễm trùng và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm Nhóm bệnh đường tiết niệu liên quan đến các vấn đề như viêm bàng quang và sỏi thận Nhóm bệnh cảm cúm gây ra triệu chứng như sốt, ho và mệt mỏi Cuối cùng, nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục và sinh lý tập trung vào các vấn đề sức khỏe liên quan đến hệ sinh sản và hormone ở phụ nữ.
Nhóm bệnh ngoài da Nhóm bệnh về gan Nhóm bệnh về ngộ độc Nhóm bệnh về ung bướu Nhiễm trùng vết thương, cầm máu
N hóm bệ nh c hữ a tr ị
Dân tộc Tày sử dụng cây thuốc chủ yếu để điều trị bốn nhóm bệnh, trong đó nhóm bệnh về đường tiêu hóa chiếm 26,09% với 6/23 loài, nhóm bệnh về xương khớp hệ vận động chiếm 21,74% với 5/26 loài, và nhóm làm thuốc bổ cùng nhóm bệnh hệ thần kinh đều chiếm 17,39% với 4/23 loài.
Cộng đồng dân tộc Dao sử dụng 13 loại cây thuốc để điều trị các bệnh, trong đó tập trung vào nhóm bệnh về đường tiết niệu, bệnh thần kinh và vết thương Hai trong số 13 loài cây (chiếm 15,38%) được sử dụng chủ yếu cho các vấn đề liên quan đến đường tiết niệu.