1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc thiểu số tại xã phú xuyên, huyện đại từ, tỉnh thái nguyên

100 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 100
Dung lượng 4,26 MB

Cấu trúc

  • PHẦN 1. MỞ ĐẦU (10)
    • 1.1. Tính cấp thiết của đề tài (10)
    • 1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài (11)
    • 1.3. Ý nghĩa của đề tài (11)
      • 1.3.1. Ý nghĩa khoa học (11)
      • 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn (11)
  • PHẦN 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (12)
    • 2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu (12)
    • 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước (12)
      • 2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới (12)
      • 2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước (16)
    • 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu (26)
      • 2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu (26)
      • 2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu (28)
  • PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP . 20 NGHIÊN CỨU (29)
    • 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (29)
    • 3.2. Nội dung nghiên cứu (29)
    • 3.3. Phương pháp nghiên cứu (30)
  • PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN (36)
    • 4.1.1. Đa dạng các bậc taxon (36)
    • 4.1.2. Đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc (42)
    • 4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc (44)
    • 4.2 Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh thái Nguyên (46)
    • 4.3. Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên, Huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên (48)
      • 4.3.1. Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu sốở xã Phú Xuyên (48)
      • 4.3.2. Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên (51)
      • 4.3.3. Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa (53)
      • 4.3.4 Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng các dân tộc ở xã Phú Xuyên (54)
    • 4.4. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng (56)
  • PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (59)
    • 5.1. Kết luận (59)
    • 5.2. Đề nghị (60)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (62)
  • PHỤ LỤC (68)

Nội dung

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu

Phòng và chữa bệnh bằng thảo dược đã được sử dụng từ hàng ngàn năm và ngày càng phát triển mạnh mẽ, với nhiều hoạt chất quý được tìm ra để điều trị các bệnh từ cảm cúm đến ung thư Tuy nhiên, kiến thức về cây thuốc và bài thuốc đang dần bị mất đi Việc gìn giữ vốn kiến thức này là cần thiết, vì khoảng 80% dân số thế giới vẫn dựa vào thuốc tự nhiên trong chăm sóc sức khỏe WHO khuyến nghị sử dụng thuốc cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe ban đầu, vì vậy, nghiên cứu về các loài cây thuốc là rất quan trọng cho việc bảo tồn và phát triển thảo dược cho các thế hệ tương lai.

Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước

2.2.1 Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới

Tổ tiên loài người đã gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên từ khi xuất hiện, trải qua nhiều cuộc đấu tranh để sinh tồn trước thiên nhiên và bệnh tật Trong quá trình này, các tộc người đã sớm nhận ra rằng nhiều loại cây cỏ trong tự nhiên có thể được sử dụng làm thuốc, góp phần quan trọng vào việc duy trì sức khỏe và sinh mạng.

4 sống lao động, đấu tranh với bệnh tật đã sáng tạo ra những bài thuốc và phương pháp chữa bệnh

Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trên toàn cầu về việc sử dụng cây thuốc trong chữa bệnh của người dân bản địa Tại Châu Á, các nhà khoa học đang khám phá những phương pháp chữa trị truyền thống và giá trị dược liệu của các loại cây thuốc.

Châu Á là châu lục đa dạng với nhiều dân tộc bản địa, nổi bật với tri thức phong phú về việc sử dụng thực vật làm thuốc Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện tại các cộng đồng và khu vực khác nhau nhằm khám phá và bảo tồn vốn tri thức quý giá này.

Arshad Abbasi và các cộng sự (2012) đã thực hiện một nghiên cứu về thực vật học và giá trị văn hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học tại Lesser dãy Hymalaya, ghi nhận được 45 loại rau ăn được hoang dã.

38 chi và 24 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau và tiêu thụ

Auemporn Junsongduang và cs (2013) [38] nghiên cứu về cây thuốc từ nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lan đã chỉ ra

365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong đó các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng nhiều nhất

Nghiên cứu của Homervergel G Ong và Young-Dong Kim (2014) về thực vật học định lượng của các cây thuốc sử dụng bởi nhóm bản địa Ati Negrito ở đảo Guimaras, Philippines đã phát hiện 142 loài cây dược liệu thuộc 55 họ, được áp dụng trong 16 loại bệnh khác nhau.

Dol Luitel và cs (2014) [44] khi nghiên cứu cây thuốc được sử dụng bởi cộng đồng người Tamang ở quận Makawanpur của Trung tâm Nepal đã

Nghiên cứu đã phát hiện 161 loài thực vật thuộc 144 chi và 86 họ được người dân sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh khác nhau Y học dân gian châu Âu có một lịch sử phong phú, với tri thức bản địa được truyền lại qua các thế hệ thông qua ghi chép và truyền miệng Gần đây, nhiều nghiên cứu khoa học đã được thực hiện để khám phá việc sử dụng các loài thực vật trong điều trị bệnh của cộng đồng bản địa.

Nghiên cứu của Behxhet Mustafa và cộng sự (2012) về các loài thực vật thuốc ở dãy núi Alps Albania tại Kosovo đã ghi nhận 98 loài thực vật thuộc 39 họ, được người dân sử dụng để điều trị nhiều bệnh khác nhau Trong số đó, các cây thuốc phổ biến nhất chủ yếu thuộc các họ Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae.

Nghiên cứu của Gorka Menedez-Baceta và cộng sự (2014) đã chỉ ra rằng ở khu vực Tây Bắc xứ Basque, bán đảo Iberia, có 139 loài thực vật thuộc 58 họ được người dân sử dụng làm cây dược liệu truyền thống để điều trị bệnh, trong đó họ Asteraceae là nhóm cây được sử dụng phổ biến nhất.

Việc nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa cũng được thực hiện:

Cecilia Almeida và cộng sự (2006) đã tiến hành nghiên cứu về các cây thuốc phổ biến tại khu vực Xingo, một vùng khô hạn ở Đông Bắc Brazil Kết quả nghiên cứu cho thấy có 187 loài thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân địa phương sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh, bao gồm cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim mạch, bệnh thận, viêm và an thần.

Gabriele Volpato và cs (2009) [46] nghiên cứu sử dụng cây thuốc của người nhập cư Haiti và con cháu của họ ở tỉnh Camaguey, Cuba đã chỉ ra 123

6 loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau

Gaia Luziatelli và cộng sự (2010) đã tiến hành nghiên cứu về cây thuốc trong cộng đồng Ashaninka, thuộc các cộng đồng bản địa của Bajo Quimiriki, Junin, Peru Nghiên cứu này đã xác định 402 loài thực vật được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh Trong số đó, các loài cây phổ biến nhất chủ yếu thuộc các họ Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và Piperaceae.

Theo nghiên cứu năm 2014 về "Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo León, Mexico", đã xác định 252 loài thực vật thuộc 228 chi và 91 họ được sử dụng để điều trị bệnh, chủ yếu từ các họ Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada - Castillón và cs., 2014).

Người dân Châu Phi đã sử dụng cây thuốc bản địa trong hàng ngàn năm để duy trì sức khỏe, và các nghiên cứu gần đây cho thấy sự đa dạng và phong phú trong việc sử dụng cây thuốc của họ.

Nghiên cứu của David J Simbo cho thấy, tại khu vực Babungo, Tây Bắc Cameroon, có 107 loài thực vật thuộc 98 chi và 54 họ được người dân địa phương sử dụng làm thuốc Trong số đó, họ Asteraceae là nhóm thực vật chủ yếu được sử dụng để điều trị các bệnh.

Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức bản địa tại khu vực Oshikoto, Namibia, đã ghi nhận 61 loài cây thuốc thuộc 25 họ khác nhau được các thầy lang sử dụng để điều trị bệnh.

7 bệnh khác nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn và các vấn đề tim mạch (Ahmad Cheikhyoussef và cs., 2011) [36]

Nghiên cứu về cây thuốc sử dụng bởi phụ nữ tại rừng ven biển Agnalazaha, Đông Nam Madagascar đã ghi nhận 152 loài cây thuốc Trong số đó, có 8 loài được phụ nữ địa phương sử dụng để điều trị các biến chứng trong quá trình sinh nở, cũng như các bệnh nhiệt đới như sốt rét, giun chỉ và các bệnh lây truyền qua đường tình dục như bệnh lậu và giang mai.

Tổng quan khu vực nghiên cứu

2.3.1 Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu

Xã Phú Xuyên cách trung tâm huyện Đại Từ 40 km về phía Tây Nam, vị trí địa lý có các mặt tiếp giáp như sau:

Phía đông giáp xã Bản Ngoại và xã Phú Thịnh

Phía tây giáp tỉnh Tuyên Quang

Phía nam giáp xã La Bằng

Phía bắc giáp xã Na Mao và xã Yên Lãng

Xã Phú Xuyên có địa hình tương đối đặc trưng :

Xã Phú Xuyên có địa hình đa dạng với núi cao ở phía Tây và đồng bằng phẳng ở phía Đông ven quốc lộ QL37 Địa hình thấp dần từ Tây xuống Đông Bắc, kết hợp giữa đồi núi thấp và đồng bằng, xen lẫn với các con sông, suối, ao hồ Tại đây, có 3 con suối bắt nguồn từ dãy núi Tam Đảo với tổng chiều dài khoảng 9 km, tạo nên đặc điểm nổi bật của vùng Địa hình chủ yếu là đồi núi, dốc dần theo hướng Tây Bắc - Đông Nam.

Theo báo cáo tổng kết của UBND xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên năm 2019, tổng diện tích tự nhiên của xã là 2.320,06 ha, bao gồm 2.095,33 ha đất nông nghiệp, 216,25 ha đất phi nông nghiệp và 1,84 ha đất chưa sử dụng.

Vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11, với đặc điểm nóng ẩm và lượng mưa dồi dào Mùa khô diễn ra từ tháng 11 đến tháng 4, khi gió Đông Bắc chiếm ưu thế, mang lại thời tiết hanh khô và lượng mưa ít Nhiệt độ trung bình hàng năm của khu vực này là một trong những chỉ số nổi bật thể hiện rõ nét đặc trưng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm.

23 0 C; tổng lượng mưa bình quân hàng năm 1.700 - 2.200mm, phân bố không đều có chênh lệch lớn giữa mùa mưa và mùa khô

Tổng diện tích mặt nước của xã hiện tại là 32,85 ha, bao gồm 9,2 ha ao, hồ, đầm và 23,65 ha đất sông suối, với hai con suối bắt nguồn từ dãy núi Tam Đảo chảy theo hướng Tây - Bắc và Đông - Nam Toàn bộ diện tích ao, hồ, đầm đang được các hộ dân sử dụng cho mục đích nuôi trồng thủy sản và tưới tiêu sản xuất nông nghiệp.

19 con suối chảy trên địa bàn xã là nguồn cung cấp nước chủ yếu phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân

* Hiện trạng thảm thực vật Điều kiện sinh thái và địa hình xã Phú Xuyên có thảm thực vật chủ yếu ở trên địa bàn xã là rừng tự nhiên

2.3.2 Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu

Xã Phú Xuyên bao gồm 18 xóm với sự hiện diện của 7 dân tộc khác nhau Tổng số hộ gia đình trong xã là 2.079, với tổng dân số đạt 7.608 người Trong đó, dân tộc Kinh chiếm 58%, còn lại là các dân tộc thiểu số.

Dao, Tày, Nùng, Cao Lan, Sán Chỉ, Ngái Tỷ lệ hộ nghèo chiếm 6,32% với 119 hộ

Cuộc sống của đồng bào dân tộc tại địa phương chủ yếu gắn liền với sản xuất nông lâm nghiệp, đặc biệt là cây lúa, rừng và đất rừng Họ thực hiện các hoạt động sinh kế truyền thống như khai thác sản phẩm tự nhiên, canh tác lúa nước, nương rẫy và chăn nuôi Rừng và đất rừng đóng vai trò quan trọng, là nguồn tài nguyên thiết yếu cho sinh kế và đời sống của đồng bào người Nùng và Dao.

ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 20 NGHIÊN CỨU

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Các loài thực vật được cộng đồng dân tộc Dao,

Cộng đồng dân tộc Dao và Nùng tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên có truyền thống sử dụng các loại cây thuốc để chữa bệnh Kinh nghiệm trong việc áp dụng các cây thuốc này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa và nâng cao sức khỏe cho người dân địa phương.

+ Công tác điều tra thực địa được tiến hành tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên

+ Nghiên cứu thực nghiệm (xác định hoạt tính khánh khuẩn) được tiến hành tại phòng thí nghiệm Khoa công nghệ sinh học - trường Đại học Khoa học Thái nguyên

- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/2020 đến tháng 05/2020

- Nghiên cứu tri thức dân tộc thiểu số: Dân tộc Dao, Nùng.

Nội dung nghiên cứu

- Đánh giá đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên:

+ Đánh giá đa dạng các bậc taxon của nguồn tài nguyên cây thuốc: đa dạng bậc họ; đa dạng bậc chi

+ Đánh giá đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc

+ Đánh giá về môi trường sống của thực vật làm thuốc

- Xác định những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn: Đánh giá ở mức độ quý hiếm của các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu

- Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của các cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên

+ Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Phú Xuyên

+ Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên

+ Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc

+ Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được các kết quả gắn với các nội dung nghiên cứu trên, cách thức và giải pháp thực hiện ý tưởng bao gồm như sau:

Kế thừa tài liệu về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội trong khu vực nghiên cứu, cùng với các tài liệu liên quan, là bước quan trọng để đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy cho vấn đề nghiên cứu.

- Kế thừa kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các ông lang, bà mế người dân tộc Nùng, Dao ở khu vực nghiên cứu

* Phương pháp điều tra thực địa

Trong khu vực nghiên cứu, việc điều tra phỏng vấn được tiến hành nhằm thu thập thông tin về cây thuốc từ các ông lang, bà mế và những người dân có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc cũng như các bài thuốc gia truyền của cộng đồng dân tộc ít người Mẫu phiếu điều tra được thiết kế dựa trên phiếu điều tra cây thuốc trong cộng đồng và phiếu điều tra bài thuốc dân gian do Viện Dược liệu, Bộ Y tế cung cấp.

Bảng 3.1 Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng một số dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và điều trị bệnh

Thời gian điều tra: Người điều tra:

22 Địa điểm điều tra: Địa chỉ điều tra:

Cán bộ được phỏng vấn

Họ tên Địa chỉ Điên thoại

Để thu thập thông tin về cây thuốc, cần ghi lại đầy đủ các yếu tố như tên phổ thông, tên dân tộc Nùng và Dao, số hiệu mẫu hoặc ảnh cây thuốc, dạng sống, môi trường sống, bộ phận sử dụng (thân, rễ, hoa, quả, hạt, nhựa, vỏ) cùng với công dụng của cây Ngoài ra, cần chú ý đến các đặc điểm dễ nhận biết của cây trong tự nhiên, đồng thời ghi rõ thời gian, địa điểm và người thu thập thông tin để đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy.

Để định danh tên cây, cần thực hiện theo các bước sau: (i) tiến hành định danh tại thực địa; (ii) áp dụng kiến thức và kinh nghiệm của các chuyên gia, kết hợp với các tài liệu tin cậy đã được công bố để xác minh lại.

Để tiến hành điều tra, bước đầu tiên là xác định tên địa phương và tên thường gọi của loài thực vật ngay từ lần khảo sát đầu tiên Đối với những loài chưa rõ, cần ghi chú để kiểm tra lại sau Nếu gặp các loài không xác định, hãy thu thập mẫu (như lá, hoa, quả, ) và ghi chú vào biểu điều tra bằng ký hiệu sp1, sp2, để phục vụ cho việc giám định sau này.

Bước 2: Tất cả các cây thuốc sẽ được thẩm định lại tên gọi và lập danh mục dựa vào kiến thức chuyên môn của các chuyên gia thực vật, cùng với các tài liệu tin cậy đã được công bố, chẳng hạn như cuốn "Cây cỏ Việt Nam" của Phạm Hoàng Hộ.

Danh sách các cây thuốc Việt Nam sẽ được cập nhật và hoàn thiện dựa trên các nguồn tài liệu đáng tin cậy như Từ điển Cây thuốc Việt Nam của Võ Văn Chi (2012), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi (2005), và Danh lục các loài thực vật Việt Nam do Trung tâm NCTN&MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV biên soạn (2001 – 2005).

* Phương pháp thu thập mẫu: Đối với loài cây chưa xác định được tên ở ngoài thực địa và loài cần giám định lại tên

Trong quá trình thu thập mẫu ở thực địa, mỗi cây thuốc được thu từ 3 đến 10 mẫu, bao gồm lá, hoa, quả, thân và rễ Mỗi mẫu sẽ được gắn nhãn rõ ràng với các thông tin như ký hiệu mẫu, địa điểm thu thập, thời gian và tên người thu mẫu, đảm bảo rằng các mẫu cùng loại cây sẽ có cùng số hiệu để dễ dàng quản lý.

Dụng cụ thu mẫu bao gồm bản gỗ ép mẫu, túi đựng mẫu, bao tải dứa, kéo cắt cây, giấy báo, dây buộc, etyket, bút chữ A, sổ ghi chép và máy ảnh (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997).

Hình 3.1: Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài

Để đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Nùng và Dao tại khu vực nghiên cứu, tôi áp dụng phương pháp đánh giá của Nguyễn Nghĩa Thìn (2007) Phương pháp này giúp xác định và phân tích sự phong phú của các loại cây thuốc trong cộng đồng, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về giá trị và tiềm năng của nguồn tài nguyên này.

- Đa dạng về bậc phân loại: ngành, lớp, họ, chi, loài

- Đa dạng về dạng sống: dây leo, gỗ trung bình, gỗ nhỏ, thảo, bụi

- Đa dạng về môi trường sống: rừng, đồi, vườn, ven suối

- Đa dạng về bộ phận sử dụng làm thuốc: thân, rễ, lá, hoa, quả, hạt, vỏ, cả cây

- Đa dạng về các nhóm bệnh chữa trị: bệnh về khớp, tim, dạ dày, gan, giải độc, xương,…

Đánh giá mức độ nguy cấp của các loài cây thuốc là cần thiết để xác định những cây thuốc cần được bảo tồn tại khu vực nghiên cứu Việc này dựa trên các tài liệu như Sách đỏ Việt Nam về thực vật rừng (Bộ KH&CN, 2007), Nghị định 06/2019/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam (2019), và Danh sách đỏ cây thuốc Việt Nam trong Cẩm nang cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam (Nguyễn Tập, 2007).

Các mức đánh giá về độ nguy cấp được liệt kê trong Sách Đỏ Việt Nam bao gồm:

 Cực kỳ nguy cấp (CE): Critically Endangered

 Nhóm nguy cấp (EN): Endangered

 Sẽ nguy cấp (VU): Vulnerable

 Sắp bị đe dọa (NT): Near Threatened

 Nhóm thiếu dữ liệu thống kê (K): Insufficiently known

Ngoài ra, theo Nghị định 06/2019 của Chính phủ thì các loài động, thực vật rừng sẽ được chia thành các nhóm chính sau:

Nhóm I bao gồm các loài động thực vật rừng đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng, và mọi hành vi khai thác cũng như sử dụng chúng cho mục đích thương mại đều bị nghiêm cấm Trong đó, Nhóm IA tập trung vào các loài thực vật, trong khi Nhóm IB bao gồm các loài động vật rừng.

Nhóm II bao gồm các loài động thực vật rừng chưa bị đe dọa tuyệt chủng nhưng cần được bảo vệ và hạn chế khai thác, sử dụng cho mục đích thương mại Trong đó, Nhóm IIA gồm các loài thực vật, còn Nhóm IIB bao gồm các động vật rừng.

* Phương pháp nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn

- Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu

Nguyên liệu lá, thân, rễ cây thuốc sau khi thu hái được rửa sạch, để ráo nước sau đó đem sấy khô ở 90 0 C đến khối lượng không đổi

Sau khi sấy khô, nguyên liệu được nghiền thành bột mịn bằng máy xay đa năng loại nhỏ Bột này cần được bảo quản ở nơi khô ráo để thuận tiện cho các nghiên cứu tiếp theo.

Nguyên liệu được chiết xuất bằng phương pháp ngâm nóng, với tỷ lệ 10 g bột khô trên 100 ml dung môi methanol Quá trình chiết diễn ra trong 24 giờ tại tần số 200 vòng/phút để đảm bảo các hoạt chất sinh học hòa tan đều Sau khi lọc qua giấy lọc, 80 ml dịch lọc được cô đặc bằng máy cô quay hoặc sấy khô cho đến khi đạt khối lượng khô không đổi Sản phẩm cuối cùng được bảo quản ở nhiệt độ 4 độ C để phục vụ cho các nghiên cứu về khả năng kháng khuẩn.

- Bước 3: Chuẩn bị giống vi khuẩn

Sử dụng 2 chủng vi khuẩn gồm 1 chủng gram dương là S.a

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Đa dạng các bậc taxon

4.1.1.1 Đa dạng về bậc ngành

Kết quả điều tra cho thấy cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của đồng bào dân tộc Nùng và Dao tại khu vực nghiên cứu đã được ghi nhận rõ ràng.

Tại khu vực này, có 103 loài thực vật thuộc ba ngành chính: Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta), Ngành Thông (Pinophyta) và Ngành Dây gắm (Gnetophyta) được người dân sử dụng làm thuốc, thuộc 91 chi và 59 họ Những loài cây này thường mọc phổ biến xung quanh làng, ở đồi và trong rừng, do đó người dân dễ dàng tiếp cận và lựa chọn chúng cho mục đích chữa bệnh hơn so với các loài thực vật khác Kết quả chi tiết được tổng hợp từ phụ lục 3 và thể hiện trong bảng dưới đây.

Bảng 4.1 Số loài cây thuốc đã phát hiện ở khu vực nghiên cứu

Ngành Ngọc lan (Magoliophyta) nổi bật với số lượng loài sử dụng làm thuốc vượt trội hơn so với hai ngành khác, với 57 họ (chiếm 96,61% tổng số họ) và 89 chi (chiếm 97,80% tổng số chi) Tổng cộng, ngành này có 101 loài được ghi nhận.

Trong số các loài thực vật, có 28 loài chiếm 98,06% tổng số loài, tiếp theo là ngành Dây gắm (Gnetophyta) và ngành Thông, mỗi ngành có 1 loài, tương ứng với 1,69% tổng số họ, 1 họ chiếm 1,10% tổng số chi, và 1 chi chiếm 0,97% tổng số chi.

Sự phân bố không đồng đều của các taxon không chỉ xuất hiện giữa các ngành mà còn thể hiện rõ qua sự chiếm ưu thế của các lớp trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta).

Bảng 4.2 Số lượng họ, chi, loài thuộc hai lớp trong ngành Ngọc lan

% Lớp Hai lá mầm- Magnoliopsida 43 75,44 72 80,90 81 80,20 Lớp Một lá mầm - Liliopsida 14 24,56 17 19,10 20 19,80 Ngành Ngọc lan - Magnoliophyta 57 100 89 100 101 100

Tỉ lệ lớp Ngọc lan/lớp Hành 3,07 4,24 4,05

Kết quả nghiên cứu cho thấy lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida) chiếm ưu thế trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) với 43 họ, tương đương 75,44% tổng số họ Số chi của lớp này là 72, chiếm 80,90%, và có 81 loài, tương đương 80,20% Một ví dụ tiêu biểu trong lớp Ngọc lan là cây giảo cổ lam - Gynostemma pentaphyllum.

Thunb.) Makino là một loại thảo dược hiệu quả trong việc điều trị huyết áp cao và mỡ máu, trong khi Dây đau xương - Tinospora sinensis (Lour.) Merr được sử dụng để giảm đau lưng và đau nhức xương khớp.

Lớp Một lá mầm (Liliopsida) chiếm tỉ trọng thấp hơn với 20 loài, 17 chi và 14 họ Có thể kể đến một số loài thuộc lớp Hành là: cây Huyết dụ -

Cordyline fruticosa (L.) Goepp được sử dụng để chữa bệnh kinh nguyệt, mát thận, phụ khoa, xấu máu; cây ráy - Alocasia macrorhizos (L.) G Don được sử dụng để chữa bệnh gút

Tỉ lệ giữa lớp Hai lá mầm và lớp Một lá mầm là 3,07, cho thấy trung bình cứ 3 đến 4 họ thuộc lớp Hai lá mầm thì sẽ có 1 họ thuộc lớp Một lá mầm Tương tự, tỉ lệ các bậc chi và bậc loài lần lượt là 4,24 và 4,05.

29 là: trung bình cứ 4 chi và 4 loài thuộc lớp Ngọc lan sẽ có 1 chi và 1 họ thuộc lớp Hành

Các loài cây thuộc ngành Ngọc lan, đặc biệt là những loài trong lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida), chiếm tỷ lệ lớn và đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu cho thuốc chữa bệnh được sử dụng bởi cộng đồng dân tộc trong khu vực nghiên cứu.

Dưới đây là một số hình ảnh một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu:

A Gối hạc (Leea rubra Blume) B Vẩy ốc (Ficus pumila)

C Cây tai chuột D Thạch xương bồ

(Dischidia acuminate) (Acorus gramineus Soland)

Hình 4.1: Hình ảnh một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu

4.1.1.2 Phân bố số lượng loài trong từng họ

Số lượng họ cây thuốc thu được ở khu vực nghiên cứu bao gồm 59 họ

Sự phân bố các họ trong các lớp như sau:

Bảng 4.3 Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ

Ngành thực vật 1 loài 2 loài 3 loài

Tỷ lệ số họ/tổng số họ % 67,80 16,95 3,39 5,08 3,39 1,69 0,00 0,00 1,69 0,00

Tỷ lệ số loài/tổng số loài% 38,83 19,42 5,83 11,65 9,71 5,83 0,00 0,00 8,74 0,00

Theo bảng 4.3, sự phân bố số lượng loài cây trong các họ chủ yếu tập trung ở hai lớp của ngành Ngọc Lan, với 38 họ chỉ có 1 loài cây và 10 họ có 2 loài cây, chiếm 16,95% tổng số họ và 5,83% tổng số loài Số lượng các họ có từ 3 loài cây trở lên khá ít, chỉ có 1 họ với 9 loài, chiếm 8,74% tổng số loài cây thuốc đã thu thập Lớp Hai lá mầm chiếm 5,83% số loài và 1,69% số họ trong tổng số điều tra Hai họ Đậu (Fabaceae) và Cà phê (Rubiaceae) có 5 loài, chiếm 3,39% tổng số họ, trong khi 3 họ có 4 loài chiếm 5,08% tổng số họ và 11,65% tổng số loài điều tra.

Trong lớp Một lá mầm, có 2 họ với 3 loài chiếm 3,39% tổng số họ và 5,83% tổng số loài được điều tra, bao gồm họ Gừng và họ Hòa thảo Ngoài ra, có 10 họ với 2 loài, chiếm 16,95% tổng số họ và 19,42% tổng số loài điều tra.

Trong nghiên cứu về thực vật, có 8 họ thuộc lớp Hai lá mầm, trong đó 40 họ có một loài chiếm 67,80% tổng số họ và 38,83% tổng số loài được điều tra Ngoài ra, có 10 họ thuộc lớp Một lá mầm, 28 họ thuộc lớp Hai lá mầm ngành Ngọc Lan, 1 họ thuộc lớp Thông (Pinopsida) và 1 họ lớp Dây gắm (Gnetopsida) thuộc ngành Gắm.

Sự đa dạng họ của các loài tại khu vực nghiên cứu được thu thập và tổng hợp trong bảng sau:

Bảng 4.4 Các họ đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu

7 Họ Ngũ Da Bì - Araliaceae 4 3,88 3 3,29

Tổng số được phát hiện: 103 91

Tại xã Phú Xuyên, trong số 7 họ cây được xác định, phần lớn cũng xuất hiện trong các họ thực vật giàu loài của Việt Nam Khu vực nghiên cứu có 3 họ cây thuốc nằm trong top 10 họ giàu loài nhất của hệ thực vật Việt Nam, bao gồm họ Đậu (Fabaceae), họ Cúc (Asteraceae) và họ Thầu dầu.

Họ Euphorbiaceae cùng với bốn họ khác không nằm trong top 10 họ lớn nhất Việt Nam, bao gồm họ Ngũ da bì, họ Cà phê, họ Rau dền và họ Bông bụp, cho thấy nguồn cây thuốc tại xã Phú Xuyên rất phong phú Tuy nhiên, sự phong phú này vẫn có những nét đặc trưng khác biệt so với tính đa dạng chung của thực vật Việt Nam.

Kết quả điều tra đã thu được những loài cây thuốc nằm trong những họ có nhiều loài nhất ở Việt Nam

(Bảng 10 họ giàu loài nhất theo danh lục thực vật Việt Nam phụ lục 4 trang 3)

Số lượng thống kê và so sánh được thể hiện ở Bảng 4.5:

Bảng 4.5 So sánh các họ có nhiều loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1) với số loài của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2)

7 Araliaceae - Họ Ngũ da bì 4 158 2,53

Tổng số được phát hiện: 103

Chú thích: (2) theo Danh lục các loài thực vật Việt Nam (Trung tâm NCTN & MT – Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện ST&TNSV, 2009)

Bảng 4.5 cho thấy có 7 họ thực vật với nhiều loài được cộng đồng dân tộc trong khu vực nghiên cứu sử dụng làm thuốc phòng và chữa bệnh Tỷ lệ loài trong cùng một họ được sử dụng làm thuốc tại khu vực này có sự chênh lệch so với tổng số loài trong cùng họ tại Việt Nam.

Đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc

Sự đa dạng về dạng sống của loài thực vật làm thuốc tại khu vực nghiên cứu được thể hiện trong Bảng 4.6 như sau:

Bảng 4.6 Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu

STT Dạng sống Số lượng Tỉ lệ %

Dữ liệu cho thấy, cộng đồng dân tộc Nùng và Dao tại KNNC sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc dựa trên kinh nghiệm truyền thống, tập trung vào 5 dạng sống, chủ yếu là cây thân thảo, cây bụi và dây leo.

Thân thảo là nhóm thực vật chiếm số lượng loài lớn nhất với 41/103 loài, tương đương 39,806% tổng số loài, chủ yếu thuộc họ Cúc (Asteraceae) dùng để chữa sốt, viêm khớp, giải độc gan; họ Hòa thảo (Poaceae) chữa viêm thận, đái rắt; và họ Rau dền (Amaranthaceae) chữa đau thận, viêm nhiễm phụ khoa Nhóm cây bụi đứng thứ hai với 37/103 loài, chiếm 35,92%, bao gồm các họ như Bông bụp (Malvaceae), Cà phê (Rubiaceae) và Đậu (Fabaceae), trong đó có loài Đinh lăng lá to - Polyscias grandifolia.

Volkens được cộng đồng dân tộc Dao sử dụng để trị mất ngủ, trong khi Dâm bụt hoa trắng (Hibiscus syriacus L.) được dân tộc Nùng dùng làm thuốc chữa bệnh tiểu dắt Cây Giao (Euphorbia tirucalli L.) được cả hai dân tộc Nùng và Dao áp dụng để điều trị bệnh xoang và lợi sữa Đặc biệt, dạng sống cây Dây leo chiếm 12,62% với 13/103 loài, chủ yếu là các loài thuộc họ tiết Dê (Menispermaceae), họ Thiên Lý (Asclepiadaceae) và họ Bầu bí (Cucurbitaceae) Một số loài tiêu biểu như cây Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum) được dùng để chữa bệnh huyết áp cao và mỡ máu, trong khi cây Hoàng đằng (Fibraurea recisa Pierre) được sử dụng để chữa bệnh viêm đường tiết niệu và đau khớp.

Nghiên cứu của Nguyễn Minh Hiếu và cộng sự (2018) cho thấy sự tương đồng về đa dạng dạng sống của các cây thuốc tại xã Phú Xuyên và xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên Đặc biệt, nghiên cứu đã đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc, khẳng định giá trị của chúng trong việc phát triển y học cổ truyền.

Vấn đề sử dụng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh của hai dân tộc Nùng và Dao tại khu vực nghiên cứu rất đa dạng và phong phú.

Trong khu vực nghiên cứu, các dạng sống chủ yếu của thực vật được sử dụng làm thuốc bao gồm thân thảo, dây leo và cây bụi Những loại thực vật này mọc phổ biến xung quanh nhà và làng bản, dễ trồng và dễ thu hái, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng chúng trong y học dân gian.

Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc

Để bảo tồn các loài cây thuốc trong khu vực nghiên cứu, tôi đã thực hiện đánh giá sự đa dạng về môi trường sống của chúng Việc phân loại các loại môi trường sống dựa trên địa hình, đất đai, khí hậu và vị trí phát triển của cây thuốc Các dạng môi trường sống này bao gồm nhiều yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cây thuốc.

- Làng xóm, làng bản, vườn (Vu)

- Rừng (trồng, tái sinh, tự nhiên) (R)

Bảng 4.7 Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực nghiên cứu

Stt Môi trường sống Số loài Tỷ lệ %

1 Rừng (trồng, tái sinh, tự nhiên) (R) 84 81,55

2 Làng xóm, làng bản, vườn (Vu) 36 34,95

Ghi chú: Tỉ lệ % trong Bảng hơn 100% do một số loài có thể sống ở nhiều môi trường khác nhau

Kết quả Bảng 4.7 cho thấy, có 3 môi trường sống chính của cây thuốc ở KVNC là: sống ở vườn (Vu), sống ở rừng (R) và sống ở ven sông ven suối (Vs)

Môi trường rừng là nơi sinh sống chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các loài được khảo sát Người dân nơi đây đã gắn bó với núi rừng từ lâu đời, và họ sở hữu một hiểu biết phong phú về các loài cây trong rừng.

Tỷ lệ số loài sống ở rừng chiếm 81,55% với 84/103 loài, trong đó có nhiều loài cây dược liệu như Gắm (Gnetum montanum Markgr) chữa viêm đại tràng và Ráy (Alocasia macrorhizos (L.) G Don) chữa bệnh gút Việc sử dụng cây thuốc đã cải thiện đời sống cộng đồng dân tộc, tuy nhiên, sự phụ thuộc vào rừng có thể dẫn đến giảm đa dạng sinh thái và cạn kiệt nguồn tài nguyên cây thuốc Người dân đã nhận thức được giá trị của cây thuốc, với 34,95% số loài (36/103) được trồng tại vườn nhà như Nghệ (Curcuma longa L.) và Mã đề (Plantago major L.) Chỉ có 1/103 loài sống ven sông, với tỷ lệ 0,97%, là loài Sung đất (Ficus var badiostrigosa Corn) dùng để tắm đẻ.

Môi trường rừng chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số loài được điều tra, tuy nhiên, số lượng cây thuốc trồng tại vườn nhà vẫn còn hạn chế.

Trong rừng, có khoảng 37 nguồn cây thuốc chủ yếu, nhưng người dân địa phương cho biết việc tìm kiếm cây thuốc ngày càng khó khăn, thường phải vào sâu trong rừng mới có thể tìm thấy Một số loài quý hiếm như Paris chinensis Franch (Thất diệp) được sử dụng để trị ho và hen suyễn, trong khi Fibraurea recisa Pierre (Hoàng đằng) giúp chữa viêm đường tiết niệu và đau khớp Tỷ lệ cây thuốc sống trong rừng cao hơn so với cây thuốc trồng trong vườn, nhiều loài mọc hoang đã được người dân mang về trồng Tuy nhiên, không có loài cây thuốc nào được xác định là đặc hữu của Việt Nam trong số cây thuốc được điều tra tại địa phương.

Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh thái Nguyên

Kết quả điều tra đã xác định các loài cây thuốc thuộc diện cần bảo vệ ở khu vực xã Phú Xuyên được ghi tại Bảng 4.8

Bảng 4.8 Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận

TT Tên phổ thông Thuộc họ

2 Khôi - Ardisia silvestris Pitard Đơn nem -

4 Thất diệp - Paris chinensis Franch

6 Sâm cau - Peliosanthes teta Andr

Hạnh môn đông -Convallariaceae VU

Để xác định các loài cây thuộc diện bảo tồn, cần tra cứu tên Việt Nam và tên khoa học của chúng trong danh mục của Sách đỏ Việt Nam (SĐVN) và Nghị định 06/CP Trong khu vực nghiên cứu, có 6 loài cây thuốc quý hiếm, thuộc 6 chi và 6 họ của ngành Ngọc lan (Magnoliophyta), trong đó có 4 loài được ghi nhận trong Sách đỏ Việt Nam Các loài này đang bị đe dọa tuyệt chủng và cần được bảo vệ.

(2007) và trong Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam, 2 loài trong Nghị định 06 Dựa vào bảng trên đã thống kê được:

Cấp VU - Sâm cau (Peliosanthes teta Andr.) là một loài thực vật quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam năm 2007, thuộc họ Mạnh môn đông Loài này nổi bật với công dụng chữa bệnh sinh lý nam, góp phần quan trọng trong y học cổ truyền.

Cấp VU – Sắp nguy cấp trong danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam 2006 có

Four notable medicinal plants include Gynostemma pentaphyllum, known for its effectiveness in treating high blood pressure; Ardisia silvestris, which is used to alleviate gastroesophageal reflux; Paris chinensis, recognized for its benefits in treating coughs and asthma; and Acanthopanax trifoliatus, which is effective in managing arthritis.

Theo sách đỏ Việt Nam năm 2007, có 3 loài thực vật được xếp vào cấp EN (nguy cấp), bao gồm: Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum) thuộc họ Bầu bí, có tác dụng hạ huyết áp; Khôi (Ardisia silvestris) thuộc họ Đơn nem, có khả năng chữa trào ngược dạ dày; và Ngũ da b (Acanthopanax trifoliatus) thuộc họ Ngũ da bì.

Araliaceae tác dụng chữa viêm khớp

- Nghị định 06/NĐ - CP có 2 loài:

+ Thất diệp - Paris chinensis Franch thuộc họ Trọng lâu – Trilliaceae có tác dụng trị ho, hen suyễn

+ Hoàng đằng - Fibraurea recisa Pierre thuộc họ Tiết dê, có tác dụng chữa viêm đường tiết niệu, đau khớp

Trong quá trình nghiên cứu tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, tôi phát hiện 6 loài cây thuốc đang bị đe dọa tuyệt chủng tại Việt Nam Do đó, việc nâng cao ý thức bảo vệ của cộng đồng là rất cần thiết để bảo tồn nguồn gen quý hiếm này, phục vụ cho công tác chữa bệnh bền vững cho người dân địa phương.

Theo kết quả nghiên cứu công trình của Nguyễn Minh Hiếu và cs

Nghiên cứu năm 2018 tại xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên đã chỉ ra rằng số lượng và sự đa dạng của các loài cây thuốc cần bảo vệ tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên vượt trội hơn so với xã Liên Minh Cụ thể, trong khi xã Liên Minh chỉ ghi nhận 2 loài cây thuốc cần bảo tồn, xã Phú Xuyên đã phát hiện tới 6 loài.

Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên, Huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên

4.3.1 Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu sốở xã Phú Xuyên

Nghiên cứu về các bộ phận sử dụng của cây thuốc không chỉ làm nổi bật tính đa dạng và phong phú trong khả năng chữa bệnh của chúng, mà còn đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo tồn Việc tìm hiểu các bộ phận này giúp đánh giá tính bền vững của việc khai thác và sử dụng tài nguyên cây thuốc trong cộng đồng dân tộc thiểu số Kết quả thống kê từ kinh nghiệm của các dân tộc sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về các bộ phận được sử dụng làm thuốc.

Trong 40 khu vực nghiên cứu, tôi nhận thấy rằng người dân tộc tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên có kinh nghiệm phong phú và đặc sắc trong việc sử dụng các loại cây cỏ làm thuốc chữa bệnh Để làm rõ tính đa dạng và phong phú trong việc sử dụng các bộ phận khác nhau của cây để chữa bệnh, kết quả đã được tổng hợp trong Bảng 4.9.

Bảng 4.9 Đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc

STT Bộ phận sử dụng

Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %

Tổng số loài phát hiện của mỗi dt 97 10

(Ghi chú: Tỉ lệ % trong Bảng hơn 100% do một số loài có thể sử dụng nhiều bộ phận khác nhau làm thuốc): Dân tộc: 1 – Nùng, 2 – Dao

(Bảng loài cây cụ thể theo từng bộ phận sử dụng của từng dân tộc trích phụ lục 4 trang 1)

Kết quả từ Bảng 4.9 chỉ ra rằng cộng đồng dân tộc Nùng và Dao đã sử dụng 9 bộ phận khác nhau của cây thuốc để chữa trị bệnh cho người dân Trong số đó, cả cây và lá là hai bộ phận được sử dụng phổ biến nhất.

Bộ phận sử dụng của các loài cây là rất quan trọng, đặc biệt là đối với dân tộc Dao, với 67/97 loài, chiếm 69,07% tổng số loài được khảo sát Dân tộc Nùng cũng biết sử dụng cây, với 6/10 loài (60,0%) Một số loài cây có giá trị nổi bật bao gồm Móc (còng giòng) – Caryota urens L và cây Kim giao (2.Miền đìa chai) – Nageia fleuryi (Hickel) de Laub, được biết đến với khả năng chữa trị các bệnh ngộ độc thức ăn và xoang.

Bộ phận lá của dân tộc Dao được sử dụng nhiều nhất với 40/97 loài, chiếm 44,33% tổng số loài điều tra, trong khi dân tộc Nùng chỉ sử dụng 3/10 loài, tương đương 30,00% Một số loài tiêu biểu trong nhóm này bao gồm cây Sổ (2 Sổ bà).

Dillenniaceae được dân tộc Dao sử dụng để tắm đan giật, cây Đu đủ rừng

(2.Nhiềm đèng kem)- Trevesia palmata (Roxb ex Lindl.) Visan được sử dụng để chữa bênh đau lưng,…

Cộng đồng dân tộc Dao đã biết sử dụng 28 trong số 97 loài thực vật, chiếm 28,87%, trong khi cộng đồng Nùng sử dụng 2 trong 10 loài thuốc, chiếm 20% Một số loài tiêu biểu bao gồm cây Mắc ca (Macadamia integrifolia) được dùng để chữa tim đập thất thường và bảo vệ sức khỏe tim mạch, cùng với cây Khế (Averrhoa carambola L) được sử dụng để điều trị dị ứng, và cây sơn.

Sự phân bố không đồng đều của các bộ phận sử dụng làm thuốc xuất phát từ nhiều yếu tố như đặc tính thời vụ, quan niệm chữa bệnh, loại bệnh cần điều trị và sự hạn chế về số lượng các loài cây thuốc hiện có.

4.3.2 Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng cộng đồng dân tộc Dao và Nùng trong khu vực nghiên cứu đã sử dụng cây thuốc để phòng ngừa và chữa trị 16 nhóm bệnh khác nhau.

Kết quả chi tiết được ghi tại Bảng 4.10:

Bảng 4.10 Tỷ lệ số loài có công dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể

STT Nhóm bệnh chữa trị

Số loài Tỷ lệ % Số loài Tỷ lệ %

Nhóm bệnh đường tiêu hóa (viêm đại tràng, trĩ, nhiễm trùng đường ruột, loét dạ dày, viêm đường ruột,…)

Nhóm bệnh về xương khớp, hệ vận động (gai cột sống, thấp khớp, phong thấp, đau cơ khớp, gút,…)

3 Nhóm bệnh đường tiết niệu (viêm thận, tan sỏi thận, thận hư, phù thận, suy thận,…) 3 30,00 13 13,40

4 Nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục, sinh lý

(viêm nhiễm phụ khoa, tắc sữa, điều kinh,…) 2 20,00 14 14,43

5 Nhóm bệnh về gan (viêm gan B, đau gan, xơ gan, giải độc gan, mát gan) 1 10,00 9 9,28

6 Nhóm bệnh của trẻ em (tắm trẻ em, cam sài trẻ con, tắm đan giật, cam trẻ con) 0 0,00 6 6,19

7 Nhóm bệnh ngoài da (dị ứng ngoài da, mụn nhọt, đắp nhọt,…) 0 0,00 6 6,19

8 Nhóm bệnh đường hô hấp (ho, hen suyễn, viêm họng) 0 0,00 4 4,12

9 Nhóm bệnh về mắt (sạch mắt) 0 0,00 1 1,03

10 Nhóm bệnh về mũi (xoang, viêm xoang mũi) 1 10,00 3 3,09

11 Nhóm bệnh về tim mạch (suy tim, tim đập thất thường, loan nhịp tim, bảo về tim khỏe) 1 10,00 3 3,09

12 Nhóm bệnh về thần kinh ( huyết áp cao, mỡ máu, máu trắng ) 0 0,00 4 4,12

14 Nhóm bệnh do thời tiết (Trúng gió ) 0 0,00 1 1,03

15 Nhóm bệnh về ung bướu (…Ung thư lá nách, Trị u tán bướu…) 0 0,00 2 2,06

16 Nhóm về ngộ độc ( giải độc ) 1 10,00

Tổng số loài phát hiện của mỗi dt: 10 97

Chú thích: Tỷ lệ % ở bảng lớn hơn 100 do một số loài có thể sử dụng chữa

(Bảng tên chi tiết các loài cây theo bộ nhóm bệnh trích phụ lục 4 trang 2)

Hình 4.2: Tỷ lệ nhóm bệnh chữa trị từ nguồn cây thuốc theo kinh nghiệm sử dụng trong cộng đồng dân tộc

Theo kết quả điều tra, người dân địa phương sử dụng cây thuốc để điều trị 16 nhóm bệnh khác nhau, bao gồm cả những bệnh nan y như gan, thận và tim Đặc biệt, số lượng cây thuốc được sử dụng chủ yếu tập trung vào 4 nhóm bệnh chính.

Cộng đồng dân tộc Nùng sử dụng một số lượng lớn cây thuốc để chữa trị, tập trung chủ yếu vào hai nhóm bệnh Nhóm bệnh đường tiết niệu chiếm 30% tổng số loài cây được sử dụng, với 3 trong số 11 loài Nhóm bệnh liên quan đến phụ nữ, sinh sản, sinh dục và sinh lý đứng thứ hai, chiếm 20% với 2 trong 11 loài cây.

Cộng đồng dân tộc Dao sử dụng một số lượng lớn cây thuốc để chữa trị, tập trung chủ yếu vào ba nhóm bệnh Trong đó, bệnh đường tiêu hóa chiếm 20,62% với 20/110 loài cây, trong khi bệnh về xương khớp và hệ vận động chiếm 24,74% với 24/110 loài cây được sử dụng theo kinh nghiệm dân gian.

Nhóm bệnh phụ nữ, sinh sản, sinh dục và sinh lý trong dân tộc Dao chiếm 14,43% tổng số loài cây được sử dụng theo kinh nghiệm, với 14 trong tổng số 110 loài.

Kinh nghiệm sử dụng cây cỏ làm thuốc của các dân tộc thiểu số Nùng và Dao ở xã Phú Xuyên rất đa dạng và phong phú Dân tộc Dao nổi bật với việc sử dụng nhiều loại cây thuốc, thể hiện qua số lượng loài cây và nhóm bệnh mà họ có khả năng chữa trị cho cộng đồng.

4.3.3 Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc ở xã Phú Xuyên

Qua quá trình sinh sống lâu dài và lịch sử chinh phục thiên nhiên, mỗi cộng đồng dân tộc đã thể hiện sự sáng tạo riêng biệt trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên để chăm sóc sức khỏe Cộng đồng dân tộc Nùng và Dao tại xã Phú Xuyên đã khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc như một tập quán lâu đời để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe Kinh nghiệm sử dụng cây thuốc chữa bệnh được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho thấy sự kế thừa và phát triển trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng Cả hai dân tộc Nùng và Dao đều sử dụng nhiều loại cây thuốc chữa bệnh, thể hiện sự phong phú và đa dạng trong tri thức y học cổ truyền.

Bảng 4.11 Danh sách cây thuốc được cả 2 dân tộc Nùng, Dao tại xã Phú Xuyên sử dụng STT Tên khoa học Tên việt nam Tên dân tộc Công dụng

Goepp Huyết dụ 1,2 Quyền diềm sĩ

2 Mát thận, phụ khoa xấu máu 2

2 Euphorbia tirucalli L Giao (xương khô, xương cá ) 1,2 Giao 1,2 Lợi sữa, xoang

Cà gai leo (cà quạnh, cà gai dây) 1,2 Cà gai leo 2,1 Viêm gan B, đau gan

Theo Bảng 4.11, hai dân tộc sử dụng chung ba loài cây thuộc ba họ thực vật khác nhau Những loài cây thuốc này chủ yếu mọc tự nhiên, phân bố rộng rãi trong rừng, quanh làng xóm, đồi cây bụi, đồi trọc, trảng cỏ và ven suối.

Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng

Dựa trên kết quả nghiên cứu về kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng một số dân tộc trong khu vực, tôi đã lựa chọn cây Mã tiền lông (Strychnos ignatii Berg) và cây Vẩy ốc (Phyllanthus virgatus Forst & Forst F) để đánh giá hoạt tính kháng khuẩn Kết quả của nghiên cứu được trình bày chi tiết trong bảng 4.14 và hình 4.4.

Bảng 4.14 Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Mã tiền lông và cây Vẩy ốc Đơn vị tính: mm

Vỏ ốc (VO) Đối chứng dương - K1 (Amikacin) Đối chứng dương - K2 (Kanamicin) Đối chứng âm (Dung môi)

Dữ liệu cho thấy hai loài khảo sát, Mã tiền lông và Vẩy ốc, đều có khả năng ức chế vi khuẩn gây bệnh Gram dương (S Aureus) và Gram âm (E coli) Cụ thể, loài Mã tiền lông đạt vòng ức chế 23,4 mm với S aureus và 25,1 mm với E coli Trong khi đó, loài Vẩy ốc có vòng ức chế là 10,7 mm với S aureus và 23 mm với E coli Cả hai loài đều thể hiện hoạt tính ức chế cao đối với vi khuẩn Gram âm.

So sánh giữa hai loài cho thấy loài Mã tiền lông có hoạt tính kháng khuẩn mạnh hơn loài Vẩy ốc Mặc dù cả hai loài đều có hoạt tính kháng khuẩn khá mạnh, nhưng khả năng ức chế vi khuẩn Gram dương của chúng vẫn yếu hơn so với kháng sinh Kanamicin Đặc biệt, loài Mã tiền lông chỉ yếu hơn Kanamicin không đáng kể Khi so sánh với đối chứng âm (dung môi), cả hai loài cây đều thể hiện tính kháng khuẩn, trong khi đối chứng âm không có khả năng kháng khuẩn đối với hai vi khuẩn Gram dương gây bệnh.

Aureus) và Gram âm (E coli)

Dựa trên kết quả phân tích hoạt tính kháng khuẩn, cây Mã tiền lông và Vẩy ốc có thể được sử dụng để phòng ngừa và kiểm soát các bệnh nhiễm khuẩn do S aureus (tụ cầu vàng) và E coli Kết quả này cung cấp bằng chứng khoa học xác thực cho kinh nghiệm sử dụng các cây thuốc này trong điều trị.

49 việc phòng chống một số bệnh nhiễm khuẩn của cộng đồng các dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên, huyện Đại Tư, tỉnh Thái Nguyên

Hình 4.3: Hoạt tính ức chế E coli và S aureus của cây Mã tiền lông và cây Vẩy ốc

Chú thích: TVC: Staphylococus aureus; E coli: Escherichia coli; ĐC: Đối chứng âm (Dung môi); K1: Đối chứng dương (Amikacin); K2: Đối chứng dương (Kanamicin); MTL: Mã tiền lông; VO: Vẩy ốc

Ngày đăng: 02/04/2022, 16:43

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w