NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ
Khái niệm và đặc điểm của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự 8 1.2 Khái quát lịch sử quy định về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1 Khái niệm Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Trước khi định nghĩa về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, cần làm rõ các khái niệm liên quan như “vay”, “cho vay”, “hợp đồng vay tài sản”, “lãi”, “lãi nặng” và “Giao dịch dân sự”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, vay là hoạt động nhận tiền hoặc tài sản từ người khác với cam kết hoàn trả tương đương hoặc kèm lãi suất Trong khi đó, cho vay được định nghĩa là việc bên cho vay cung cấp tiền cho bên vay trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó bên vay phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi suất Từ điển Tưởng giải và liên tưởng tiếng Việt cũng mô tả cho vay là việc tạm thời cho người khác sử dụng một khoản tiền hoặc tài sản, với điều kiện sẽ hoàn lại theo thỏa thuận.
Theo định nghĩa trong từ điển Luật học, cho vay là hành động mà bên cho vay chuyển giao một khoản tiền hoặc tài sản cho bên vay để sử dụng trong khoảng thời gian đã thỏa thuận Hình thức cho vay có thể có lãi hoặc không, và người vay chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Theo Khoản 16 Điều 4 của Luật các tổ chức tín dụng, cho vay được định nghĩa là hình thức cấp tín dụng, trong đó bên cho vay cung cấp cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng cho mục đích cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định Hình thức này yêu cầu khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi theo thỏa thuận đã được thống nhất.
Theo quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015, “vay” và “cho vay” được hiểu là một giao dịch dân sự dưới hình thức hợp đồng vay tài sản Hợp đồng này là sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay, và bên vay có trách nhiệm hoàn trả tài sản tương tự về số lượng và chất lượng khi đến hạn Việc trả lãi chỉ xảy ra nếu có thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
3 Phạm Lê Biên (chủ biên) (2016), Từ điển Tiếng việt thông dụng, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr 152
4 Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, tr.371
5 Nguyễn Văn Đạm (2004), Từ điển tưởng giải và liên tưởng tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, tr.149
6 Từ điển luật học (2006), Nxb Từ điển Bách Khoa, tr.143
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự 7
Giao dịch dân sự là sự kiện pháp lý phát sinh từ hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa phương, trong đó hợp đồng vay tài sản là một hình thức giao dịch đa phương Hợp đồng này nhằm tạo ra, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự, thể hiện ý chí và mục đích của các bên tham gia Hậu quả pháp lý của hợp đồng vay tài sản bắt đầu có hiệu lực ngay khi các bên ký kết Mỗi bên trong hợp đồng có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham gia, và ý chí của một bên cần được bên kia đáp ứng, tạo nên sự thống nhất ý chí và hình thành hợp đồng.
Hợp đồng vay tài sản là một thỏa thuận giữa bên vay và bên cho vay, trong đó cả hai bên phải có năng lực pháp luật và hành vi đầy đủ Bên cho vay có nghĩa vụ giao tài sản cho bên vay, trong khi bên vay phải hoàn trả tài sản tương đương về số lượng và chất lượng Đối tượng của hợp đồng vay chủ yếu là tiền hoặc tài sản, nhưng không bao gồm quyền tài sản và vật đặc định Hợp đồng vay có thể chia thành hai loại: có kỳ hạn và không có kỳ hạn, cũng như có bảo đảm và không có bảo đảm, tùy thuộc vào điều kiện vay.
8 Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình luật dân sự Việt Nam (Tập 1), Nxb Công an nhân dân, tr 136
9 Khoản 2, Điều 466 BLDS 2015 sản bảo đảm), hợp đồng vay tài sản có trả lãi và hợp đồng vay tài sản không trả lãi (căn cứ vào lãi suất)
Hợp đồng vay tài sản trong giao dịch dân sự được chia thành hai loại: hợp đồng cho vay tài sản là tiền giữa tổ chức tín dụng và khách hàng (hợp đồng tín dụng) và hợp đồng vay tài sản là tiền giữa cá nhân, pháp nhân không phải tổ chức tín dụng (hợp đồng vay tài sản không phải hợp đồng tín dụng) Theo Điều 201 BLHS năm 2015, tội cho vay lãi nặng chỉ áp dụng cho hợp đồng vay không phải là hợp đồng tín dụng, trong khi lãi suất để tính số tiền thu lợi bất chính được quy định trong BLDS Đối với hợp đồng vay tài sản là hợp đồng tín dụng, các quy định sẽ được điều chỉnh bởi Luật Ngân hàng và các văn bản hướng dẫn liên quan, không thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS.
Trong hầu hết các hợp đồng vay tài sản, bên vay cần thanh toán thêm một khoản tiền lãi ngoài số tiền gốc cho bên cho vay Khoản tiền lãi này được tính dựa trên tỷ lệ phần trăm của số tiền gốc, được gọi là lãi suất.
Lãi suất hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau Theo Từ điển luật học, lãi suất cho vay là tỷ lệ phần trăm tính trên số vốn mà bên vay phải trả kèm theo gốc tiền vay trong một khoảng thời gian xác định Nó là nội dung bắt buộc phải thỏa thuận khi ký kết hợp đồng tín dụng Lãi suất cũng được hiểu là tỷ lệ phần trăm của tài sản tăng thêm trên số tài sản vay, do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật Ngoài ra, lãi suất còn là phần trăm nhất định mà người vay phải trả thêm vào số tài sản đã vay theo đơn vị thời gian, nếu có thỏa thuận hoặc quy định pháp luật về việc trả lãi.
Nghị định 01/2019/NQ-HĐTP, ban hành ngày 11 tháng 01 năm 2019, của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến lãi suất và xử lý vi phạm Nghị định này quy định rõ ràng về cách tính lãi suất, các hình thức phạt vi phạm và trách nhiệm của các bên liên quan trong việc thực thi các quy định về tài chính Nội dung của nghị định nhằm đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong các giao dịch tài chính, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia.
11 Từ điển luật học (2006), Nxb Từ điển Bách Khoa, tr.452
12 Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (2017) “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, tr.702
Theo Nguyễn Ngọc Chung (2018), lãi suất trong hợp đồng vay tài sản được quy định bởi pháp luật Việt Nam có những nguyên tắc và điều kiện cụ thể Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách thức áp dụng lãi suất trong các giao dịch vay mượn, đồng thời nêu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan Từ đó, bài viết góp phần làm rõ những quy định pháp lý liên quan đến lãi suất, giúp các bên tham gia hợp đồng vay tài sản hiểu rõ hơn về quyền lợi và trách nhiệm của mình.
Theo Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015, tội phạm được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do cá nhân hoặc pháp nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, cũng như các lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, và quyền lợi hợp pháp của tổ chức, công dân Những hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng không gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội sẽ không được coi là tội phạm và sẽ bị xử lý bằng các biện pháp khác Điều 201 của Bộ luật này quy định về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Người cho vay trong giao dịch dân sự với lãi suất vượt quá 05 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự, nếu thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng, hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc kết án về hành vi này mà chưa được xóa án tích, sẽ bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
1 Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm
2 Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đến 100.000.000, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự được định nghĩa là hành vi của bên cho vay trong hợp đồng vay tài sản, khi lãi suất cho vay vượt quá mức lãi suất mà pháp luật cho phép Mục đích của hành vi này là nhằm thu lợi bất chính từ các bên tham gia giao dịch.
Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
1.3.1 Các dấu hiệu pháp lý của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Dấu hiệu định tội là những đặc trưng quan trọng phản ánh mức độ nguy hiểm của tội phạm, giúp phân biệt giữa các loại tội phạm khác nhau Chúng được quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản của từng tội cụ thể theo Bộ luật Hình sự Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là một tội phạm có cấu thành vật chất, bao gồm các dấu hiệu đặc thù liên quan.
- Khách thể của tội phạm
Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được luật bảo vệ và bị xâm hại Đây là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, vì mọi hành vi phạm tội đều gây thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại cho các quan hệ xã hội này Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước về hoạt động tín dụng, cụ thể là trật tự trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, đồng thời xâm phạm đến lợi ích tài chính của công dân.
Có quan điểm cho rằng, Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác như cho thuê tài sản, bao gồm cả động sản và bất động sản Thực tế cho thấy, hành vi cho vay không chỉ đơn thuần là cho vay tiền mà còn liên quan đến nhiều hình thức giao dịch khác.
22 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam, tr.98
Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, việc cho thuê và mượn tài sản với mức giá cao có thể được coi là hành vi bóc lột, tuy nhiên, trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, quy định về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự chỉ đề cập đến hành vi cho vay mà không bao gồm hành vi cho thuê Mặc dù xét về bản chất, cho vay và cho thuê đều liên quan đến việc sử dụng tài sản, nhưng chúng khác nhau ở đối tượng giao dịch, cụ thể là tiền Hơn nữa, việc cho thuê tài sản không bị điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự về lãi suất, mà chỉ có hành vi cho vay mới bị chi phối bởi quy định này.
- Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm các biểu hiện và hành vi nguy hiểm cho xã hội, có thể xảy ra qua hành động hoặc không hành động Các dấu hiệu này bao gồm hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả Ngoài ra, các điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm, như công cụ và phương tiện, cũng thuộc về mặt khách quan Hành vi khách quan được coi là dấu hiệu cơ bản trong việc xác định tội phạm.
Hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự được quy định tại khoản 1 Điều 201 BLHS năm 2015, bao gồm việc cho vay với lãi suất gấp 5 lần trở lên so với mức lãi suất cao nhất theo quy định của BLDS Để hành vi này trở thành tội phạm, cần có điều kiện về số tiền thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã có án tích chưa được xóa Đặc trưng của tội này là mức lãi suất do các bên thỏa thuận trong hợp đồng vay tài sản BLHS yêu cầu dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội cho vay lãi nặng là "cho vay với lãi suất gấp 5 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất theo Bộ luật dân sự" Để làm rõ dấu hiệu này, cần xem xét quy định của BLDS về lãi suất.
24 Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm (tập VI), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr.210
25 Trường Đại học luật Hà Nội (2020), tlđd (23), tr.102
Theo quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015 thì lãi suất trong hợp đồng vay được xác định như sau:
“1 Lãi suất vay do các bên thỏa thuận
Theo quy định, lãi suất thỏa thuận giữa các bên không được vượt quá 20%/năm cho khoản vay, trừ khi có luật khác quy định Dựa trên tình hình thực tế và đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền điều chỉnh mức lãi suất này và sẽ báo cáo Quốc hội trong kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực
2 Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”
Bộ luật dân sự năm 2015 quy định rằng các bên có quyền tự thỏa thuận về lãi suất, nhưng không được vượt quá 20%/năm Theo Điều 468 BLDS và Điều 201 BLHS, giao dịch vay tiền với lãi suất từ 20%/năm trở xuống là hợp pháp, trong khi lãi suất từ 21% đến dưới 100%/năm là bất hợp pháp và không có hiệu lực pháp luật Trong trường hợp này, bên cho vay phải hoàn trả lãi suất vượt quá đã nhận Nếu lãi suất thỏa thuận gấp 5 lần mức tối đa (tức 100%/năm trở lên), hành vi này có thể bị coi là cho vay nặng lãi Tuy nhiên, Điều 468 BLDS cũng cho phép điều chỉnh mức lãi suất theo quy định của pháp luật và theo đề xuất của Chính phủ.
Theo Điều 131 BLDS 2015, lãi suất cho vay cao nhất được quy định là 20%/năm, tuy nhiên, mức lãi suất này có thể thay đổi theo các quy định mới của Nhà nước hoặc quyết định của Quốc Hội dựa trên đề xuất của Chính Phủ Do đó, trước khi khởi tố, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải yêu cầu giám định từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để xác định lãi suất áp dụng.
Theo quy định của Nhà nước, lãi suất cho vay được xác định tại thời điểm giao dịch và thời điểm trả lãi Nếu lãi suất dưới 20%/năm, áp dụng theo Điều 468 Bộ Luật Dân Sự Ngược lại, nếu lãi suất vượt quá 20%/năm, cần tuân thủ các quy định và mức điều chỉnh mới của Nhà nước để xác định xem lãi suất trong hợp đồng vay có đạt từ 05 lần trở lên hay không.
Lãi suất trong các giao dịch dân sự được các bên thỏa thuận không được vượt quá mức lãi suất cao nhất do Nhà nước quy định tại cùng thời điểm Việc xác định chính xác mức lãi suất này là cần thiết, bởi thực tế, các đối tượng cho vay lãi nặng thường áp dụng nhiều cách tính lãi khác nhau Để hành vi cho vay với lãi suất gấp 5 lần trở lên so với mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự cấu thành tội cho vay lãi nặng, cần phải thỏa mãn điều kiện về số tiền thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên, hoặc dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về tội này mà chưa được xóa án tích và còn vi phạm.
Thứ nhất, Người cho vay phải thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên
- “Thu lợi bất chính” là số tiền lãi thu được sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm theo quy định của BLDS
Trong trường hợp cho vay lãi nặng với nhiều người, khoản tiền thu lợi bất chính được xác định là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được từ tất cả những người vay Số tiền thu lợi bất chính này là số tiền thực tế mà người cho vay nhận được, không chỉ dựa vào hợp đồng hay thỏa thuận.
Số tiền thu lợi bất chính không chỉ là lãi suất vượt mức quy định của Nhà nước, mà còn bao gồm các khoản thu trái pháp luật khác mà các đối tượng cho vay lãi nặng tự áp đặt Những khoản này có thể là phí giao dịch, như chi phí thu tiền hàng tháng hoặc hàng ngày, và các khoản phạt tự đặt ra đối với người vay.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 201 BLHS, một trong những điều kiện để cấu thành tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là việc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này Dấu hiệu "đã bị xử phạt hành chính" được coi là yếu tố quan trọng trong việc xác định tính chất vi phạm và mức độ nghiêm trọng của hành vi cho vay lãi nặng.
Quy định về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự của một số nước trên thế giới
Hiện nay, Việt Nam đang tích cực thực hiện chính sách hội nhập quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực pháp luật hình sự Các nhà nghiên cứu pháp luật hình sự cần chủ động tìm hiểu và nghiên cứu hệ thống pháp luật hình sự của các quốc gia khác, nhằm nhận diện những điểm tương đồng và khác biệt Qua đó, họ có thể học hỏi kinh nghiệm lập pháp và tiếp thu những tiến bộ trong pháp luật hình sự từ các nước trên thế giới.
1.4.1 Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Bộ luật hình sự của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được ban hành vào ngày 01/7/1979 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1980 Luật này đã trải qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung vào các năm 1997, 1999, 2001, 2002 và 2005.
Theo Bộ luật Hình sự Trung Hoa, hành vi cho vay lãi nặng được quy định tại Điều 175, thuộc chương III về các tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Cụ thể, người nào nhận tín dụng bất hợp pháp từ tổ chức tiền tệ và cho vay lại với lãi suất cao sẽ bị phạt tù đến 3 năm hoặc cải tạo lao động, cùng với mức phạt tiền từ 1 đến 5 lần số tiền thu lợi bất chính Nếu số lượng cho vay lớn, hình phạt có thể tăng lên từ 3 đến 7 năm tù giam và phạt tiền tương tự Đối với các đơn vị vi phạm, hình phạt tiền sẽ được áp dụng, trong khi người phụ trách có thể bị phạt tù đến 3 năm hoặc cải tạo lao động.
Tội cho vay lãi nặng theo Điều 175 BLHS Trung Hoa vi phạm trật tự quản lý tiền tệ của nhà nước và gây thiệt hại cho nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Hành vi phạm tội này bao gồm việc nhận tín dụng bất hợp pháp từ các tổ chức tiền tệ và cho vay với lãi suất cao Chủ thể của tội này có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, và hành vi phạm tội được thực hiện với lỗi cố ý.
Theo Bộ luật Hình sự Trung Hoa, hình phạt cho tội cho vay lãi nặng đối với cá nhân có thể lên đến 7 năm tù giam và phạt tiền từ 1 đến 5 lần số tiền lợi bất chính Đối với pháp nhân, hình phạt chủ yếu là phạt tiền, trong khi người trực tiếp phụ trách có thể bị phạt tù tối đa 3 năm hoặc cải tạo lao động So sánh với quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự Việt Nam, có thể thấy sự tương đồng trong cách xử lý tội phạm cho vay lãi nặng.
Cả Bộ luật Hình sự Việt Nam và Bộ luật Hình sự Trung Hoa đều phân loại Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự vào chương các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
31 Bộ luật hình sự Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa (2007), Nxb Tư pháp Hà Nội
Điều 175 BLHS Trung Hoa chỉ áp dụng cho hành vi cho vay lãi nặng với số tiền nhận bất hợp pháp từ tổ chức tiền tệ, không xem xét đến nguồn gốc hợp pháp của tiền vay Trong khi đó, Điều 201 BLHS Việt Nam không phân biệt nguồn gốc tiền cho vay, cho phép cả tiền hợp pháp và bất hợp pháp đều cấu thành tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự Nguồn gốc số tiền chỉ được xem xét khi xử lý vật chứng.
Trong khi Điều 201 Bộ luật Hình sự Việt Nam chỉ quy định cá nhân là chủ thể của tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, thì Điều 175 Bộ luật Hình sự Trung Hoa lại mở rộng chủ thể này bao gồm cả cá nhân và đơn vị Ngoài ra, Bộ luật Hình sự Trung Hoa còn quy định trách nhiệm đối với người trực tiếp phụ trách hoặc người chịu trách nhiệm trực tiếp liên quan đến hành vi vi phạm này.
Theo Điều 175 BLHS Trung Hoa, hành vi cho vay lãi nặng bao gồm việc nhận tín dụng bất hợp pháp từ tổ chức tiền tệ thông qua các thủ đoạn gian dối và sử dụng giấy tờ giả để vay với lãi suất nhà nước, sau đó cho vay lại với lãi suất cao BLHS Trung Hoa không quy định cụ thể mức lãi suất hay số tiền thu lợi bất chính cần thiết để cấu thành tội danh này, mà chỉ yêu cầu lợi nhuận tương đối lớn Ngược lại, Điều 201 BLHS Việt Nam quy định rõ ràng hành vi cho vay lãi nặng là khi lãi suất gấp 5 lần mức lãi suất cao nhất trong BLDS, với lợi nhuận từ 30.000.000 đồng trở lên, hoặc khi đã bị xử phạt hành chính hoặc kết án về tội này mà chưa xóa án tích.
- Về lỗi: cả BLHS Việt Nam và BLHS Trung Hoa đều quy định hình thức lỗi là cố ý
Điều 175 Bộ luật Hình sự Trung Hoa quy định hình phạt nghiêm khắc hơn so với Điều 201 Bộ luật Hình sự Việt Nam, với việc kết hợp hai hình phạt chính là phạt tù (lên đến 7 năm) và phạt tiền hoặc cải tạo lao động Trong khi đó, Việt Nam chỉ áp dụng ba hình phạt chính là phạt tiền, cải tạo không giam giữ và phạt tù (tối đa 3 năm) Hình phạt tiền theo luật Trung Hoa được xác định dựa trên số tiền thu lợi bất chính, từ 1 đến 5 lần, trong khi Việt Nam còn quy định hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ và hành nghề nhất định.
Quy định tại Điều 201 BLHS Việt Nam có phạm vi điều chỉnh rộng hơn so với Điều 175 BLHS Trung Hoa, nhưng mức hình phạt tại Điều 175 BLHS Trung Hoa lại cao hơn, phản ánh quan điểm của nhà lập pháp về tính chất nghiêm trọng và nguy hiểm của hành vi phạm tội BLHS Trung Hoa quy định cả cá nhân và pháp nhân là chủ thể của tội cho vay lãi nặng, đồng thời dựa vào số tiền thu lợi bất chính để xác định mức hình phạt tiền, từ 1 đến 5 lần số tiền thu lợi bất chính Đây là kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong việc xem xét chủ thể tội phạm và đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi, cần thiết phải dựa vào số tiền thu lợi bất chính để xác định hình phạt tiền.
1.4.2 Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong Bộ luật hình sự Liên Bang Đức
Bộ luật hình sự Liên bang Đức được chia thành 02 phần với 30 Chương và
- Vị trí và tội danh: Phần chung gồm 5 chương, từ Điều 1 đến Điều 79b, Phần riêng (Phần các tội phạm) gồm 29 chương, từ Điều 80 đến Điều 358
Trong Bộ luật Hình sự Liên bang Đức, hành vi cho vay lãi nặng không được quy định là một tội danh cụ thể, nhưng được đề cập tại Điều 291 về Tội hưởng lợi quá đáng Cụ thể, Điều 291 thuộc Chương XXV – Hành vi tư lợi bị xử phạt, nêu rõ các quy định liên quan đến hành vi này.
Người lợi dụng tình trạng khó khăn, thiếu kinh nghiệm hoặc khả năng nhận thức của người khác để ép buộc họ hứa hẹn hoặc đảm bảo lợi ích tài sản cho bản thân hoặc bên thứ ba, mà những lợi ích này hoàn toàn không tương xứng với công sức hoặc sự môi giới của họ, là hành vi không thể chấp nhận.
1 Về việc cho thuê các văn phòng để ở hoặc cho những dịch vụ có liên quan đến việc cho thuê kèm theo,
2 Về việc cho vay tiền
3 Về dịch vụ khác hoặc
4 Về việc làm môi giới cho một trong các dịch vụ đã được mô tả ở trên thì bị xử phạt với hình phạt tự do đến ba năm hoặc với hình phạt tiền Nếu nhiều người cùng tham gia là những người thực hiện, người môi giới hoặc cùng tham gia theo một cách thức khác và qua đó phát sinh hoàn toàn không tương xứng giữa những tổng thể các mối lợi tài sản với tổng thể những giá trị bỏ ra thì câu 1 có hiệu lực cho bất kỳ người nào lợi dụng tình trạng khó khăn cấp bách hoặc thiếu hiểu biết khác của một người khác để đạt được một mối lợi tài sản rất lớn cho mình hoặc người thứ ba
Trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, hình phạt có thể lên tới tự do từ sáu tháng đến mười năm Để được coi là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của cá nhân phải đáp ứng các tiêu chí nhất định.
1 Qua hành vi đưa người khác đến tình trạng khánh kiệt về kinh tế
2 Thực hiện hành vi có tính chất chuyên nghiệp
3 Để được hứa những món lợi tài sản quá đáng qua giấy ghi nợ