MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội không tố giác tội phạm
1.1.1 Khái niệm của Tội không tố giác tội phạm
Tội không tố giác tội phạm là một trong những hành vi bị tội phạm hóa sớm trong Luật Hình sự Việt Nam, thuộc Chương Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp Hành vi này được quy định cả trong Phần Những quy định chung và Phần Các tội phạm của luật Để hiểu rõ về tội không tố giác tội phạm, trước tiên cần làm rõ khái niệm tố giác tội phạm.
Theo từ điển Tiếng Việt tố giác là “báo cáo cho cơ quan chính quyền biết về một hành vi phạm pháp của người nào đó” 1
Theo Khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC, tố giác về tội phạm được định nghĩa là thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính và địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan hoặc cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết.
Khoản 1 Điều 144 BLTTHS năm 2015 quy định: “Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền”
Theo Từ điển Luật học, không tố giác tội phạm được định nghĩa là hành vi không thông báo cho cơ quan có thẩm quyền về một tội phạm mà mình biết rõ, bao gồm các tội phạm đang trong quá trình chuẩn bị, thực hiện hoặc đã xảy ra, trong khi bản thân có khả năng để thông báo.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các bộ luật trước, BLHS năm 2015 quy định không tố giác tội phạm tại Điều 19 như sau:
Người biết về tội phạm đang được chuẩn bị, thực hiện hoặc đã thực hiện mà không báo cáo sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Tội không tố giác tội phạm, theo quy định tại Điều 390 của Bộ luật hình sự.
1 Nguyễn Văn Xô (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh niên, tr 751
2 Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa - Tư pháp, tr 426
2 Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm theo quy định tại Khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
3 Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu TNHS theo quy định tại Khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa
Tội không tố giác tội phạm được quy định tại Điều 390 BLHS năm 2015:
1 Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Khoản 2 hoặc Khoản 3 Điều 14 của Bộ luật này đang được chuẩn bị hoặc một trong các tội phạm quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm
2 Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn TNHS hoặc miễn hình phạt.”
Tội không tố giác tội phạm được định nghĩa theo Điều 19, Điều 390 và Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện Dù không tham gia vào việc thực hiện tội phạm, người này biết rõ về tội phạm đang được chuẩn bị, thực hiện hoặc đã thực hiện, nhưng cố ý không thông báo cho cơ quan có thẩm quyền Hành vi này xâm phạm đến tính đúng đắn của hoạt động tố tụng và thi hành án.
Tội phạm được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội, và để xác định tội không tố giác tội phạm theo Luật Hình sự Việt Nam, cần phải xem xét các yếu tố cấu thành theo quy định của pháp luật Cơ quan có thẩm quyền sẽ xác định các dấu hiệu pháp lý liên quan để đưa ra kết luận chính xác.
1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý của Tội không tố giác tội phạm
1.1.2.1 Khách thể của Tội không tố giác tội phạm
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và có thể bị xâm hại Không phải mọi quan hệ xã hội đều được bảo vệ, mà chỉ những hành vi xâm hại hoặc đe dọa đến các quan hệ xã hội quan trọng có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội mới bị xử lý theo Bộ luật Hình sự Theo Khoản 3 Điều 2 của Hiến pháp năm 2013, quyền lực Nhà nước được tổ chức thống nhất, với sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp Do đó, tư pháp đóng vai trò cốt yếu trong hệ thống quyền lực Nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò quan trọng của tư pháp trong việc bảo vệ trật tự xã hội, với quan điểm rằng "tư pháp có tốt thì xã hội mới tốt" Việc phát hiện và xử lý các hành vi cản trở hoạt động của cơ quan tư pháp không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà còn là nghĩa vụ của mọi công dân, như quy định tại Khoản 3 Điều 4 BLHS năm 2015 Không tố giác tội phạm được coi là hành vi vi phạm pháp luật, tạo thành một tội phạm độc lập trong Chương Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp Hành động tố giác không chỉ giúp ngăn chặn các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà còn cung cấp thông tin cần thiết cho cơ quan chức năng trong công tác điều tra, truy tố và xét xử, từ đó bảo vệ công lý và giáo dục người phạm tội.
Tội xâm phạm hoạt động tư pháp, được quy định tại Điều 367 Bộ luật Hình sự năm 2015, liên quan đến việc không tố giác tội phạm, ảnh hưởng đến sự đúng đắn của hoạt động tố tụng và thi hành án Đối tượng tác động của tội phạm này chính là người phạm tội, người mà hành vi không tố giác hướng đến.
3 Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - tập 1, Nxb Công an nhân dân, tr 86
4 Hồ Chí Minh toàn tập - tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, tr 381
5 Hồ Chí Minh toàn tập - tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, tr 232
Nguyễn Tiến Sơn (2017) trong bài viết “Phân tích một số tội xâm phạm hoạt động tư pháp” đăng trên Tạp chí Kiểm sát đã chỉ ra rằng các tội xâm phạm hoạt động tư pháp không chỉ ảnh hưởng đến quá trình phát hiện, điều tra và chứng minh tội phạm mà còn vi phạm nguyên tắc xử lý theo Điều 3 BLHS năm 2015, yêu cầu mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời và xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật.
1.1.2.2 Mặt khách quan của Tội không tố giác tội phạm
Phân biệt Tội không tố giác tội phạm với một số tội phạm khác trong Luật Hình sự Việt Nam
1.2.1 Phân biệt Tội không tố giác tội phạm (Điều 390 BLHS năm 2015) với tội che dấu tội phạm (Điều 389 BLHS năm 2015)
Hoạt động tố tụng và thi hành án được bảo vệ bởi các tội danh như Tội không tố giác tội phạm và Tội che giấu tội phạm, cả hai đều thuộc Chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp Mặc dù liên quan đến các tội phạm khác, hai tội này là độc lập và không cấu thành đồng phạm, với hình thức lỗi cố ý nhưng không có thỏa thuận trước Cả hai tội này áp dụng cho chủ thể từ 16 tuổi trở lên và không yêu cầu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc Tuy nhiên, giữa Tội không tố giác tội phạm và Tội che giấu tội phạm vẫn tồn tại những điểm khác biệt đáng chú ý.
Tội che giấu tội phạm có đối tượng tác động rộng hơn so với Tội không tố giác tội phạm Trong khi Tội không tố giác chỉ liên quan đến người phạm tội đã, đang hoặc sẽ thực hiện hành vi phạm tội mà không bị tố giác, thì Tội che giấu tội phạm có thể tác động đến cả người phạm tội và các dấu vết, tang vật liên quan đến hành vi phạm tội.
Thứ hai, về mặt khách quan:
Hành vi khách quan của tội không tố giác tội phạm thể hiện qua sự không hành động, trong khi hành vi che giấu tội phạm lại là hành động cụ thể nhằm cản trở việc phát hiện và xử lý tội phạm Các hình thức che giấu này rất đa dạng, bao gồm việc giấu giếm tội phạm, xóa bỏ dấu vết và che giấu tang vật, tất cả đều nhằm mục đích ngăn cản quá trình điều tra và truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người phạm tội.
Thời điểm phạm tội không tố giác tội phạm có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào của hành vi phạm tội, từ khi tội phạm đang chuẩn bị, đang thực hiện cho đến khi đã hoàn thành Trong khi đó, tội che giấu tội phạm chỉ xảy ra sau khi người biết về hành vi phạm tội đã được thực hiện.
Thứ ba, về chủ thể:
Chủ thể bị loại trừ trách nhiệm hình sự trong tội không tố giác tội phạm có sự khác biệt so với tội che giấu tội phạm Theo quy định tại Khoản 3 Điều 19 Bộ luật Hình sự năm 2015, ngoài các thành viên trong gia đình như ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội, còn có thêm một chủ thể đặc biệt là người bào chữa.
Thứ tư, về mặt chủ quan:
Người phạm tội không tố giác tội phạm khi họ "biết rõ" về hành vi phạm tội đang diễn ra hoặc đã xảy ra nhưng vẫn giữ im lặng Tuy nhiên, theo quy định của nhà làm luật, mức độ nhận thức của người phạm tội trong việc che giấu tội phạm chỉ được xác định là "biết".
Thứ năm, về hình phạt:
Hình phạt cho Tội không tố giác tội phạm nhẹ hơn so với Tội che giấu tội phạm, với mức tối đa là 03 năm tù cho tội không tố giác, trong khi tội che giấu có mức phạt cao nhất lên đến 07 năm tù Sự khác biệt này xuất phát từ mức độ nguy hiểm cho xã hội; hành vi che giấu tội phạm không chỉ là hành động thụ động mà còn bao gồm nhiều hành vi tích cực, chủ động, tạo điều kiện giúp đỡ người phạm tội.
1.2.2 Phân biệt Tội không tố giác tội phạm và trường hợp đồng phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với vai trò người giúp sức
Tội không tố giác tội phạm và tội đồng phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội đều liên quan đến hành vi phạm tội trước đó Hành vi phạm tội trước đó dẫn đến việc không tố giác và tạo điều kiện cho người giúp sức thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản Cả hai trường hợp này đều thể hiện lỗi cố ý, nhưng giữa chúng vẫn có sự khác biệt đáng chú ý.
Không tố giác tội phạm được coi là hành vi phạm tội độc lập theo quy định của pháp luật hình sự Trong trường hợp đồng phạm, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với cùng tội danh như các đồng phạm khác trong vụ án Cụ thể, người giúp sức có thể bị truy cứu về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Tội không tố giác tội phạm không có sự hứa hẹn trước, trong khi đó, trong trường hợp đồng phạm, người giúp sức đã có sự hứa hẹn và phân công vai trò rõ ràng với các đồng phạm khác Do đó, việc chứng minh có hay không sự hứa hẹn trước trong hành vi phạm tội là yếu tố quan trọng để xác định trách nhiệm hình sự.
Khái quát lịch sử hình thành, phát triển của Tội không tố giác tội phạm
Mỗi sự vật hay hiện tượng trong thế giới đều có quá trình phát sinh và phát triển, tức là có lịch sử riêng Do đó, việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của tội không tố giác tội phạm trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam giúp tái hiện một cách trung thực quá trình tiến bộ của quy định pháp luật liên quan đến tội phạm này theo trình tự thời gian.
18 Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Triết học (2004), Giáo trình chủ nghĩa duy vật biện chứng, Nxb Chính trị quốc gia, tr 257
1.3.1 Pháp luật Hình sự về Tội không tố giác tội phạm thời kỳ phong kiến đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Trong suốt lịch sử hàng ngàn năm, nhà nước Việt Nam đã nhận thức sớm về vai trò quan trọng của pháp luật Bộ luật hình thư, được ban hành dưới triều Lý Thái Tông vào năm 1402, là bộ luật thành văn đầu tiên của Việt Nam, nhưng đã bị thất lạc và chỉ còn được biết đến qua các đoạn trích trong Đại Việt sử ký toàn thư Hai bộ luật lớn, Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long, đã kế thừa và phát huy tư tưởng lập pháp của các triều đại trước, trong đó đều đề cập đến tội không tố giác tội phạm.
Trong Bộ luật Hồng Đức 1483, tội không tố giác tội phạm không được quy định thành điều luật riêng, nhưng hành vi này được mô tả trong nhiều điều luật Điều 2 của bộ luật quy định rằng "bất hiếu là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo", thể hiện tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng sâu sắc đến pháp luật phong kiến Việt Nam Theo tư tưởng này, hiếu là nền tảng của mọi vấn đề, bao gồm cả pháp luật, và là cơ sở thiết lập trật tự xã hội Do đó, các nhà làm luật thời kỳ này đã cấm việc tố giác giữa những người thân trong gia đình.
Theo quy định, con cháu, nô tỳ có thể tố cáo tội lỗi của ông bà, cha mẹ, hoặc chủ, nhưng sẽ bị xử tội lưu đày nếu không có chứng cứ rõ ràng Vợ tố cáo chồng cũng phải chịu hình phạt tương tự Tố cáo đối với bậc tôn trưởng hoặc người thân của chồng, dù có sự thật, cũng sẽ bị xử phạt nặng nề Tuy nhiên, trong trường hợp tội ác nghiêm trọng như mưu phản hay giết người, việc tố cáo được phép Nếu cá nhân bị xâm hại và khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình thì được chấp nhận, nhưng nếu vu cáo sẽ bị xử lý nặng hơn.
Trong xã hội phong kiến, bên cạnh chữ hiếu, quyền lực tuyệt đối thuộc về nhà vua, người được coi là Thiên tử Mọi người trong thiên hạ đều phải tôn sùng và tuân theo nhà vua.
19 Nguyễn Anh Tuấn (2010), Nguồn của Luật Hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, tr 95
20 Viện Sử học (2013), Quốc triều hình luật (Luật Hình triều Lê), Nxb Tư pháp, tr 42
21 Viện Sử học (2013), tlđd (20), tr 223
Tư tưởng “trung quân” tồn tại suốt chiều dài lịch sử, “quân” được đặt cao hơn cả
Mối quan hệ "quân - thần" trong xã hội truyền thống được coi trọng hàng đầu, vì vậy nếu có thành viên trong gia đình vi phạm tội mưu phản hoặc đại nghịch, họ phải bị tố cáo theo quy định tại Điều 500 Bộ luật Hồng Đức.
Những người biết về âm mưu phản loạn hoặc có hành vi chống đối chính quyền phải báo ngay cho các quan chức gần nhất; nếu không, sẽ bị xử phạt lưu đày Nếu biết có người chỉ trích vua hoặc phát ngôn lạ lùng mà không thông báo, hình phạt sẽ nhẹ hơn Quan chức nhận được thông tin mà không báo cáo hoặc bắt giữ kẻ vi phạm trong thời gian quy định cũng sẽ bị xử phạt tương tự Tuy nhiên, nếu việc truy bắt cần thời gian chuẩn bị, sẽ không bị coi là tội.
Theo quy định này, “mật báo” là hành vi phù hợp với đòi hỏi của xã hội và
Hành vi "không tố cáo" vi phạm lợi ích chung và có thể bị xử lý hình sự Tuy nhiên, khái niệm về Tội không tố giác tội phạm chưa được định nghĩa rõ ràng, dẫn đến sự không đồng nhất trong cách sử dụng thuật ngữ trong các điều luật Cụ thể, hành vi được ghi nhận trong Điều 157 là "không phát giác".
Các quan giám lâm và quan chủ ty có trách nhiệm phát hiện tội phạm, nếu không làm sẽ bị xử lý nghiêm Những người biết hàng xóm phạm tội mà không báo cáo sẽ bị giảm nhẹ tội Đặc biệt, tội đúc tiền và phản nghịch được coi là nghiêm trọng và có quy định xử lý riêng.
Dựa trên các dẫn chứng đã nêu, tác giả nhận xét về quy định liên quan đến Tội không tố giác tội phạm trong Bộ luật Hồng Đức, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khuyến khích công dân tham gia vào việc phát hiện và ngăn chặn tội phạm Quy định này không chỉ nhằm bảo vệ an ninh xã hội mà còn thể hiện trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với cộng đồng.
Hành vi khách quan của Tội không tố giác tội phạm được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, bao gồm hành vi không tố giác, không mật báo và không phát giác về hành vi phạm tội của người khác.
Bộ luật quy định miễn hình phạt cho những người không tố giác thân nhân, thể hiện tính nhân văn và tôn vinh mối quan hệ gia đình sâu sắc trong văn hóa Việt Nam Tuy nhiên, điều đáng chú ý là Bộ luật cũng quy định rằng trong trường hợp "mưu phản, đại nghịch," việc tố cáo là bắt buộc, đặt chữ hiếu bên cạnh sự tồn vong của đất nước.
22 Viện Sử học (2013), tlđd (20), tr 221
23 Viện Sử học (2013), tlđd (20), tr 85
Theo Điều 508 của Bộ luật, việc tố cáo tội phạm phải ghi rõ năm tháng và trình bày sự thật một cách chính xác, không được nêu những vấn đề chưa rõ ràng hoặc không đáng tin cậy Nếu vi phạm quy định này, người tố cáo có thể bị phạt 80 trượng, và quan chức nhận đơn tố cáo trái quy định mà vẫn đưa ra xét xử sẽ bị phạt 30 quan tiền Điều này thể hiện yêu cầu cao về độ chính xác và trung thực trong việc tố giác từ phía nhà làm luật.
Bộ luật Hồng Đức quy định việc khen thưởng cho người tố giác tội phạm tại Điều 305, trong đó nêu rõ rằng nếu dân đinh tự thiến mình thì bị xử tội lưu, và những ai chứa chấp kẻ đó sẽ bị giảm tội một bậc Ngoài ra, các nhà lân cận không tố cáo sẽ bị xử tội nhẹ hơn hai bậc, còn xả quan không phát giác sẽ bị xử tội đồ; người tố cáo đúng sự thật sẽ được thưởng tước một tư Điều này thể hiện sự động viên đối với những người góp phần phát hiện và xử lý tội phạm Đặc biệt, Bộ luật cũng đồng nhất việc không tố giác tội phạm với việc che giấu tội phạm, được cụ thể hóa tại Điều 373, quy định rằng những người cày ruộng đất công mà khai dối sẽ bị xử tội theo luật chiếm ruộng đất công, và quan ty dung túng cũng sẽ bị xử lý tương tự.
So với Quốc triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ (bộ luật Gia Long năm 1812) không loại trừ trách nhiệm hình sự (TNHS) cho những người thân thuộc với người phạm tội không bị tố giác Tuy nhiên, bộ luật này quy định rõ ràng những trường hợp phải chịu TNHS nếu không tố giác tội phạm, như Điều 223 quy định: “Người che giấu tội phạm mưu phản sẽ bị xử chém, còn nếu không tố giác tội này sẽ bị phạt 100 trượng và lưu đày.”