1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tội phạm hóa hành vi buôn bán người tại việt nam và vấn đề thực thi các quy định có liên quan đến nghị định thư về phòng chống tội phạm buôn bán người năm 2000

59 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tội Phạm Hóa Hành Vi Buôn Bán Người Tại Việt Nam Và Vấn Đề Thực Thi Các Quy Định Có Liên Quan Đến Nghị Định Thư Về Phòng Chống Tội Phạm Buôn Bán Người Năm 2000
Tác giả Ngô Tùng Lâm
Người hướng dẫn TS. Hoàng Thị Tuệ Phương
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hình Sự
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2013
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 59
Dung lượng 1,04 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I: HÀNH VI BUÔN BÁN NGƯỜI THEO NGHỊ ĐỊNH THƯ NĂM (8)
    • 1.1 Buôn bán người – tội phạm phổ biến trên phạm vi toàn cầu (8)
    • 1.2 Sự ra đời và mối quan hệ giữa Nghị Định Thư về ngăn ngừa, trấn áp, trừng trị việc buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000 và Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (0)
    • 1.3 Hành vi buôn bán người theo Nghị Định Thư về ngăn ngừa, trấn áp, trừng trị việc buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000 (13)
      • 1.3.1 Định nghĩa về hành vi buôn bán người theo Nghị Định Thư năm 2000 (13)
      • 1.3.2 Các dấu hiệu pháp lý cụ thể của hành vi buôn bán người theo NĐT năm 2000 (16)
        • 1.3.2.1 Về hành vi (16)
        • 1.3.2.2 Thủ đoạn, phương thức (20)
        • 1.3.2.3 Về mục đích bóc lột (25)
      • 1.3.3 Phân biệt hành vi buôn bán người và hành vi đưa người di cư bất hợp pháp (30)
    • 1.4 Kết luận (32)
  • CHƯƠNG II: TỘI PHẠM HÓA HÀNH VI BUÔN BÁN NGƯỜI (35)
    • 2.1 Khái quát hành vi buôn bán người tại Việt Nam (35)
    • 2.2 Tội phạm hóa hành vi buôn bán người trong luật hình sự Việt Nam. ................... 34 .1 Dấu hiệu pháp lý của Tội mua bán người (Điều 119) và Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120) trong sự đối chiếu với quy định của NĐT năm 2000 (38)
      • 2.2.1.1 Về hành vi (41)
      • 2.2.1.2 Về thủ đoạn, phương thức (0)
      • 2.2.1.3 Về mục đích phạm tội (47)
    • 2.3 Kết luận (50)
  • CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ (52)
  • KẾT LUẬN (53)

Nội dung

HÀNH VI BUÔN BÁN NGƯỜI THEO NGHỊ ĐỊNH THƯ NĂM

Buôn bán người – tội phạm phổ biến trên phạm vi toàn cầu

Buôn bán người là một tội phạm toàn cầu, ảnh hưởng đến hầu hết các quốc gia, với ước tính khoảng 27 triệu người đang sống trong tình trạng "nô lệ" do nạn buôn người Khoảng 800.000 đến 900.000 người bị buôn bán qua biên giới mỗi năm Lĩnh vực tội phạm này phát triển mạnh mẽ, mang lại lợi nhuận khoảng 12 tỷ đô la Mỹ mỗi năm, chỉ đứng sau buôn bán thuốc phiện và vũ khí Nạn nhân không chỉ bị xâm hại sức khỏe mà còn bị chà đạp danh dự, nhân phẩm và tính mạng Buôn bán người đã trở thành một vấn đề pháp lý hình sự quốc tế và là cuộc khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng trên toàn thế giới.

Do đó, đấu tranh để xóa bỏ việc buôn bán người là việc làm cấp thiết

Theo các báo cáo của Văn phòng Liên Hợp Quốc về tội phạm và ma túy, tội phạm buôn bán người đã được ghi nhận trên toàn cầu trong các năm 2006 và 2009 Dữ liệu năm 2009 được thu thập từ 155 quốc gia và vùng lãnh thổ, phản ánh tình hình nghiêm trọng của tội phạm này.

Buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, là một vấn nạn toàn cầu đang gia tăng đáng lo ngại, bất chấp những nỗ lực quốc tế và quốc gia Hiện nay, việc chống buôn bán người không chỉ là vấn đề của một quốc gia hay khu vực mà cần sự phối hợp tích cực từ toàn thế giới.

1.2 Sự ra đời và mối quan hệ giữa Nghị Định Thƣ về ngăn ngừa, trấn áp, trừng trị việc buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000 và Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 Ý thức được tầm quan trọng của việc chống lại tội phạm buôn bán người, công đồng quốc tế ngay từ rất sớm đã có những công cụ pháp lý chống lại nó 3 Tuy nhiên, tội phạm buôn bán người chứa đựng những vấn đề phức tạp [22- tr 5] gây ra nhiều khó khăn trong việc xác định các dấu hiệu về bản chất của hành vi một cách chính xác 4 Vì thế, công việc trên đòi hỏi phải có sự chung tay góp sức của cộng đồng quốc tế ở phạm vi rộng lớn hơn 5 Vào tháng 10 năm 2000, sau mười một phiên thảo luận của ủy ban

3 Đó chính là sự ra đời của hàng loạt các công ước, nghị định thư trong đó phải kể đến:

- Hai Công ước quốc tế về ngăn chặn việc buôn bán nô lệ da trắng năm 1904, và năm 1910 (được sửa đổi bổ sung theo NĐT năm 1948)

- Công ước quốc tế về ngăn chặn việc buôn bán phụ nữ và trẻ em năm 1021 (được sủa đổi theo NĐT năm 1947)

- Công ước về ngăn ngừa việc buôn bán phụ nữ năm 1933

- Công ước về nô lệ năm 1926 (sửa đổi, bố sung theo NĐT năm 1953)

- Công ước về trấn áp việc buôn bán người và bóc lột mại dâm người khác năm 1949

- Công ước bổ sung về xóa bỏ chế đô nô lệ, việc buôn bán nô lệ và các thể chế thực thể khác tương tự nô lệ năm

- Công ước về quyền trẻ em năm 1989

- Công ước Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000

Nghị định thư năm 2000 về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, đã được bổ sung vào Công ước Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia Văn bản này nhằm tăng cường nỗ lực quốc tế trong việc bảo vệ những nhóm dễ bị tổn thương và đấu tranh hiệu quả chống lại tội phạm buôn bán người.

Trước khi Nghị định 2000 ra đời, khái niệm "buôn bán người" đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào yêu cầu của từng tổ chức hay cơ quan Một số định nghĩa dựa trên quyền con người, trong khi những định nghĩa khác lại coi đó là một hoạt động tội phạm, bao gồm nhập cư trái phép, bóc lột sức lao động, hoặc thậm chí là một hình thức nô lệ hiện đại.

Có năm văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng liên quan đến buôn bán người, bao gồm: Công ước về nô lệ năm 1926, được thông qua bởi Hội Quốc Liên trước khi Liên Hợp Quốc ra đời; Công ước trấn áp việc buôn bán người và bóc lột mại dâm năm 1949, được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua khi có 59 thành viên; Nghị Định Thư năm 1953 sửa đổi Công ước về nô lệ năm 1926 với 60 thành viên; Công ước bổ sung về xóa bỏ chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ năm 1956, với 80 thành viên; và Nghị định thư không bắt buộc bổ sung công ước về quyền trẻ em.

Ad-hoc, 6 với sự tham gia của hơn 120 quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế,

Công ước năm 2000 và Nghị định thư bổ sung về ngăn ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, đã được thông qua và đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống tội phạm buôn bán người Công ước năm 2000 được xem là văn kiện pháp lý đầu tiên và bắt buộc của Liên Hợp Quốc trong lĩnh vực này, trong khi Nghị định thư năm 2000 là văn bản pháp lý quốc tế quan trọng nhất, thể hiện sự tiến bộ về chính trị và pháp lý trong việc xóa bỏ tội phạm buôn bán người Hai văn bản này cần được hiểu và áp dụng liên kết chặt chẽ với nhau, đặc biệt trong việc bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức buôn bán và khai thác.

Vào ngày 6 tháng 12 năm 1998, Liên Hợp Quốc đã thành lập một ủy ban liên chính phủ ad hoc nhằm phát triển khung pháp lý mới để chống lại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.

Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, nhận thức về mối đe dọa của tội phạm xuyên quốc gia đối với an ninh quốc gia và quốc tế đã thúc đẩy Liên Hợp Quốc tăng cường hợp tác quốc tế để chống lại loại tội phạm này Năm 1994, Hội nghị Bộ trưởng thế giới về tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia tại Naples đã tập trung vào việc cải thiện hợp tác song phương và đa phương, đồng thời xem xét khả năng ra đời một hoặc nhiều công ước Vấn đề buôn bán người, đặc biệt là buôn bán trẻ em, đã nổi lên trong chương trình nghị sự xây dựng Công ước năm 1997 Argentina đã thúc đẩy các vấn đề buôn bán vào chương trình tư pháp hình sự của Ủy ban Liên hợp quốc, mở rộng từ buôn bán phụ nữ và trẻ em sang 'buôn bán người' Vào tháng 12 năm 1998, một ủy ban liên chính phủ đã được thành lập để xây dựng công ước quốc tế chống lại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các vấn đề liên quan đến buôn bán phụ nữ, trẻ em và di cư trái phép Đến tháng 10 năm 2000, Ủy ban Ad-Hoc đã hoàn thành nhiệm vụ với bản thảo cuối cùng của Công ước chống tội phạm có tổ chức và hai Nghị định thư bổ sung, phản ánh mối quan tâm quốc gia về chủ quyền và an ninh liên quan đến buôn bán người và di cư trái phép.

Khoản 4, Điều 37 của Công ước quy định rằng mọi nghị định thư phải được hiểu cùng với nội dung của Công ước, đồng thời xem xét mục đích của từng nghị định thư Điều 1 của Nghị định thư năm 2000 liên quan đến mối quan hệ với Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.

1 Nghị định thư này bổ sung Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia Nó sẽ được giải thích cùng với Công ước

2 Các điều khoản của Công ước được áp dụng cho Nghị định thư này với những sửa đổi cần thiết, trừ trường hợp trong nghị định thư này có quy định khác

3 Những hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 5 của Nghị định thư này sẽ được coi là những hành vi phạm tội được quy định trong Công ước

Sửa đổi cần thiết theo Khoản 2 Điều 1 NĐT năm 2000 là những điều chỉnh phù hợp với thực tế Các quy định trong CƯ năm 2000, khi áp dụng vào NĐT năm 2000, có thể được sửa đổi hoặc giải thích để đảm bảo tính đồng nhất về nội dung và hiệu lực Hành vi buôn bán người theo Điều 3(a) được xác định là tội phạm có tổ chức và xuyên quốc gia, nhưng NĐT năm 2000 không cung cấp quy định giải thích về các yếu tố này, trong khi CƯ năm 2000 đã nêu rõ các dấu hiệu xác định Do đó, quy định về tính chất xuyên quốc gia và tổ chức của tội phạm trong CƯ năm 2000 sẽ được áp dụng cho hành vi buôn bán người.

 Nghĩa vụ tội phạm hóa

Hành vi buôn bán người theo Nghị Định Thư về ngăn ngừa, trấn áp, trừng trị việc buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000

Thuật ngữ "buôn bán người" được định nghĩa trong Nghị định thư năm 2000 cho thấy nạn nhân có thể là bất kỳ ai, không chỉ phụ nữ và trẻ em mà còn cả nam giới Sự mở rộng này là hợp lý, bởi thực tế ghi nhận nhiều trường hợp nam giới bị buôn bán Tuy nhiên, Nghị định thư vẫn nhấn mạnh việc ngăn ngừa và trừng phạt hành vi buôn bán phụ nữ và trẻ em, vì đây là những đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất Theo báo cáo của Văn phòng Ma túy và Tội phạm Liên hợp quốc năm 2006, phụ nữ chiếm 77%, trẻ em 14%, và nam giới 9% Đến năm 2009, tỷ lệ này đã thay đổi với phụ nữ chiếm 66%, trẻ em 22%, và nam giới dưới 12% Như vậy, phụ nữ và trẻ em vẫn chiếm hơn hai phần ba số người bị buôn bán.

1.3.1 Định nghĩa về hành vi buôn bán người theo Nghị Định Thư năm 2000

NĐT năm 2000 đã đưa ra định nghĩa về buôn bán người tại Điều 3(a) như sau:[10]

In this Protocol, key terms are defined, with "human trafficking" referring to the recruitment, transportation, transfer, harboring, and receipt of individuals for the purpose of exploitation, often through coercion or threats Notably, despite prior documents addressing trafficking, this Protocol is the first international agreement to provide a comprehensive legal definition of the issue.

Hành vi bóc lột bao gồm việc sử dụng vũ lực, ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, hoặc lạm dụng quyền lực để kiểm soát người khác Điều này có thể diễn ra qua việc đưa hoặc nhận tiền để đạt được sự đồng ý của nạn nhân Các hình thức bóc lột này bao gồm bóc lột mại dâm, lao động cưỡng bức, nô lệ, khổ sai, và việc lấy các bộ phận cơ thể.

Nghị định năm 2000 đã định nghĩa tội phạm buôn bán người dựa trên ba yếu tố chính: hành vi, phương thức thực hiện và mục đích bóc lột.

Hành vi liên quan đến tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc tiếp nhận người được liệt kê rõ ràng tại khoản (a) Đồng thời, khoản (b) nhấn mạnh rằng sự đồng ý của nạn nhân không phải là căn cứ loại trừ trách nhiệm của người thực hiện hành vi, mà cần xem xét các thủ đoạn đã được sử dụng trong quá trình đó.

Thủ đoạn và phương thức của hành vi này bao gồm việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, cũng như lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương Ngoài ra, việc đưa, nhận tiền hay lợi ích khác nhằm đạt được sự đồng ý của một người để kiểm soát người khác cũng là những hình thức phổ biến.

Về mục đích bóc lột: trong đó tối thiểu là bóc lột mại dâm hoặc các hình thức bóc

Trafficking in persons refers to the recruitment, transportation, transfer, harboring, or receipt of individuals through means such as force, coercion, abduction, fraud, or abuse of power, aiming for exploitation This exploitation encompasses various forms, including sexual exploitation, forced labor, slavery, servitude, and organ removal.

Việc một nạn nhân của buôn bán người chấp nhận sự bóc lột có chủ ý sẽ không được xem là hợp lý nếu bất kỳ phương thức nào được nêu trong khoản (a) của Điều này đã được áp dụng.

Trang 11 đề cập đến các vấn đề nghiêm trọng như lột tình dục, lao động cưỡng bức, dịch vụ cưỡng bức và các hình thức nô lệ khác Những hành vi này không chỉ vi phạm nhân quyền mà còn gây ra những tổn thương sâu sắc cho nạn nhân, bao gồm cả việc lấy đi các bộ phận cơ thể.

Trường hợp đặc biệt: buôn bán trẻ em

Khoản (d), Điều 3 NĐT năm 2000 quy định: "Trẻ em" là bất kỳ người nào dưới

Khi trẻ em bị buôn bán, chỉ cần chứng minh hai yếu tố là hành vi và mục đích bóc lột để xác định hành vi buôn bán người, mà không cần xem xét đến phương thức hay thủ đoạn Trường hợp lấy nội tạng trẻ em với sự đồng ý hợp pháp của cha mẹ hoặc người giám hộ vì lý do y học không được coi là bóc lột và do đó không phải là hành vi buôn bán người Việc quy định hành vi buôn bán trẻ em chỉ dựa trên hai yếu tố này nhằm ngăn chặn buôn bán trẻ em và bảo vệ nạn nhân Nghị định năm 2000 đã chịu ảnh hưởng từ các văn bản pháp lý quốc tế như Công ước về quyền trẻ em năm 1989 và Công ước năm 1999 về xóa bỏ lao động trẻ em tồi tệ, nhấn mạnh rằng trẻ em dưới 18 tuổi cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, cả về mặt thể chất lẫn pháp lý.

Quy định hiện hành nhấn mạnh rằng không có thủ đoạn sai trái nào được phép áp dụng khi đối tượng bị buôn bán là trẻ em dưới 18 tuổi Trong quá trình xây dựng Nghị định năm 2000, đã có một định nghĩa cụ thể về buôn bán trẻ em, tập trung vào hành vi và mục đích bóc lột, xác định buôn bán trẻ em là hành vi vi phạm nghiêm trọng cần được ngăn chặn.

15 c) Việc mua, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hay nhận một đứa trẻ nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là

"buôn bán người" ngay cả khi việc này được thực hiện không cần dùng đến bất kỳ một cách thức nào được nói đến trong khoản (a) Điều này

Trang 12 đề cập đến việc tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc tiếp nhận trẻ em, cũng như việc sử dụng tiền hoặc lợi ích vật chất để đạt được sự đồng ý của một người nhằm kiểm soát trẻ em với mục đích làm nô lệ, cưỡng bức lao động hoặc dụ dỗ trẻ em vào hoạt động mại dâm, sản xuất nội dung khiêu dâm Mặc dù khái niệm này không được thông qua, nhưng nó đã ảnh hưởng đến việc hình thành mô hình hành vi buôn bán trẻ em trong Nghị định thư năm 2000.

1.3.2 Các dấu hiệu pháp lý cụ thể của hành vi buôn bán người theo NĐT năm 2000

"Buôn bán người" được định nghĩa là quá trình tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và tiếp nhận người Nghị định năm 2000 đã quy định rõ những hành vi này mà không cung cấp thêm bất kỳ giải thích nào.

Tuyển mộ là giai đoạn đầu tiên dẫn đến sự bóc lột, đặc biệt là bóc lột lao động, với phần lớn nạn nhân bị buôn bán có nguồn gốc từ quá trình này Những phương pháp tuyển mộ phổ biến bao gồm việc tuyển dụng tại các quán bar, quán cà phê, câu lạc bộ, và qua các mối quan hệ gia đình hoặc bạn bè Tội phạm cũng sử dụng quảng cáo việc làm hoặc học tập ở nước ngoài, các cơ quan cung cấp việc làm, hôn nhân giả dối, và thậm chí mua trẻ em từ người giám hộ Để đạt được mục tiêu, các thủ đoạn như dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo, bắt cóc, lừa gạt, và ép buộc thường được sử dụng, chủ yếu lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của nạn nhân Ví dụ, nhiều gia đình Bangladesh đã bị sốc khi phát hiện con gái họ không được gửi đến các nước vùng Vịnh như đã hứa.

Trang cho biết rằng nhiều trẻ em, thông qua các cơ quan tuyển dụng, đã bị gửi đến nhà thổ ở Ấn Độ và Pakistan Các bé trai thường bị sử dụng làm tay đua lạc đà Sự tuyệt vọng do nghèo đói đã khiến nhiều bậc phụ huynh chấp nhận bán con cái mình để đổi lấy tiền Tình trạng này không chỉ xảy ra ở Ấn Độ mà còn phổ biến ở Nê-pan, Cộng hòa Benin, Thái Lan và nhiều quốc gia nghèo khác.

Kết luận

Định nghĩa về buôn bán người trong Nghị định thư năm 2000 là định nghĩa quốc tế đầu tiên về hành vi này, đóng vai trò là công cụ pháp lý quan trọng trong cuộc chiến chống tội phạm buôn bán người Được xây dựng từ 11 phiên họp của ủy ban Ad-hoc với sự tham gia của hơn một trăm thành viên, định nghĩa này đã khái quát hành vi và phản ánh bản chất, tính chất nguy hiểm của buôn bán người Những nội dung khác trong Nghị định thư năm 2000 cũng đã góp phần tạo nên bước tiến quan trọng trong nỗ lực chống lại tội phạm này.

Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, định nghĩa này vẫn còn có một số hạn chế Do

Việc xác định phạm vi của các thuật ngữ trong NĐT năm 2000 gặp khó khăn do không được quy định chính thức, dẫn đến những thách thức trong áp dụng thực tiễn Sự phân biệt giữa lao động cưỡng bức và nô lệ, cũng như các hình thức bóc lột tình dục, thường không rõ ràng, gây ra sự không đồng nhất trong quy định pháp luật giữa các quốc gia thành viên Ví dụ, Kneebone và Debeljak chỉ ra rằng nhiều quốc gia tập trung vào yếu tố hành vi liên quan đến di chuyển và giao dịch thương mại, mà không chú trọng đến hành vi tội phạm buôn bán người như được nêu trong Nghị định thư.

Mặc dù định nghĩa về buôn bán người trong Nghị định thư năm 2000 đóng vai trò quan trọng, vẫn còn những khoảng trống cần được bổ sung bởi pháp luật quốc gia Các quốc gia thành viên cần tội phạm hóa hành vi buôn bán người, đồng thời xây dựng quy định phù hợp với thực tế tội phạm Ví dụ, Điều 134 của Bộ luật hình sự Lào (sửa đổi năm 2006) định nghĩa buôn bán người là hành vi tìm kiếm, che giấu, vận chuyển hoặc chiếm đoạt người bằng thủ đoạn lừa dối, đe dọa, ép buộc nhằm mục đích bóc lột lao động hoặc tình dục.

23 Tác giả tạm dịch, nguồn tiếng Anh tại: ASEAN Responses to TIP Study Supplement 2007, tr 10

Trang 30 đề cập đến tài liệu khiêu dâm và các mục đích trái với văn hóa quốc gia, liên quan đến việc khai thác cơ thể nhằm thu lợi bất hợp pháp Đối với hành vi buôn bán trẻ em, các yếu tố như lừa dối, man trá, đe dọa và ép buộc không được quy định rõ ràng Khi nạn nhân là phụ nữ hoặc trẻ em, Luật Phát triển và bảo vệ Phụ nữ có thể áp dụng, trong đó quy định rằng gán nợ (debt-bondage) là một trong những mục đích của tội phạm này.

TỘI PHẠM HÓA HÀNH VI BUÔN BÁN NGƯỜI

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:37

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Lâm Anh, Thùy Dương - "Nô lệ thời hiện đại" - Những câu chuyện có thật ngoài sức tưởng tượng Báo An ninh Thế giới,(http://antg.cand.com.vn/vi vn/hosointepol/2011/7/75675.cand) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nô lệ thời hiện đại
10. Cơ sở dữ liệu trực tuyến về quyền con người, http://hr.law.vnu.edu.vn/cac_cong_uoc_chinh_ve_nhan_quyen?page=1 11. Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989 Link
2. Báo cáo của Bộ Công an về tình hình tội phạm mua bán người, năm 2004 Khác
3. Báo cáo tham luận tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động phòng chống Buôn Bán Phụ Nữ Trẻ Em, giai đoạn II (2007-2010) Khác
6. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên Phòng - Thực trạng tình hình và kết qủa phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em trên địa bàn biên giới. Công tác tiếp nhận, hỗ trợ ban đầu cho phụ nữ, trẻ em, là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về và những khuyến nghị, năm 2007 Khác
7. Bộ Tư Pháp - Hệ thống pháp luật hiện hành lien quan đến phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em và một vài kiến nghị về hướng hoàn thiện, năm 2007 Khác
8. Chương trình hành động phòng chống tội phạm mua bán người giai đoạn 2011 – 2015, Ban hành kèm theo Quyết định số 1427/QĐ-TTg ngày 18 tháng 8 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ Khác
9. Chương trình Hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến năm 2010, Ban hành kèm theo Quyết định số 130/2004/QĐ-TTg ngày 14/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Giảng Viên Khoa Luật Hình Sự - Tội phạm hóa hành vi buôn bán người tại việt nam và vấn đề thực thi các quy định có liên quan đến nghị định thư về phòng chống tội phạm buôn bán người năm 2000
i ảng Viên Khoa Luật Hình Sự (Trang 1)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w