1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Bảo hộ quyền sở hữu của nđt nước ngoài tại việt nam theo quy định của pháp luật việt nam hiện hành, những hạn chế và giải pháp khắc phục (luận văn thạc sỹ luật)

73 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Của Nhà Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Theo Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Hiện Hành, Những Hạn Chế Và Giải Pháp Khắc Phục
Tác giả Đỗ Thị Như Diễm
Người hướng dẫn THS. Trần Thị Bảo Nga
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Quốc Tế
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2013
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 73
Dung lượng 1,16 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: Tổng quan về quyền sở hữu của NĐT nước ngoài tại Việt Nam (11)
    • 1.1. Khái quát về NĐT nước ngoài và quyền sở hữu của NĐT nước ngoài (11)
      • 1.1.1. Khái niệm NĐT nước ngoài (11)
      • 1.1.2. Quyền sở hữu của NĐT nước ngoài (15)
        • 1.1.2.1. Khái niệm sở hữu và quyền sở hữu (15)
        • 1.1.2.2. Đặc trưng quyền sở hữu của NĐT nước ngoài (17)
    • 1.2. Sự cần thiết phải bảo hộ quyền sở hữu của NĐT nước ngoài (18)
      • 1.2.1. Các căn cứ pháp lý xây dựng quy chế bảo hộ quyền sở hữu của NĐT nước ngoài14 1. Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) (19)
        • 1.2.1.2. Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) (20)
      • 1.2.2. Chính sách của Nhà nước ta đối với NĐT nước ngoài và vai trò của việc thu hút đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam… (23)
        • 1.2.2.1. Chính sách của Nhà nước ta đối với NĐT nước ngoài (24)
        • 1.2.2.2. Vai trò của việc bảo hộ quyền sở hữu của NĐT nước ngoài trong việc (26)
  • Chương 2: Bảo hộ quyền sở hữu của NĐT nước ngoài theo qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành – một số hạn chế và giải pháp khắc phục (30)
    • 2.1. Bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn và các tài sản hợp pháp của NĐT nước ngoài 27 1. Vốn, tài sản đã đầu tư (32)
      • 2.1.2. Chuyển vốn, tài sản ra nước ngoài (35)
      • 2.1.3. Chuyển nhượng dự án đầu tư (39)
    • 2.2. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của NĐT nước ngoài (43)
      • 2.2.1. Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (44)
      • 2.2.2. Những hạn chế của Luật trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của NĐT nước ngoài 41 2.3. Bảo hộ đối với quyền sở hữu bất động sản (46)
      • 2.3.1. Về quyền sử dụng đất (52)
        • 2.3.1.1. Về hình thức sử dụng đất (52)
        • 2.3.1.2. Giao đất, cho thuê đất (55)
        • 2.3.1.3. Vấn đề thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (58)
        • 2.3.1.4. Thu hồi đất (58)
      • 2.3.2. Bảo hộ quyền sở hữu của NĐT nước ngoài đối với nhà ở sinh hoạt (61)
        • 2.3.2.1. Về điều kiện NĐT nước ngoài được mua nhà ở tại Việt Nam (62)
        • 2.3.2.2. Về loại nhà và số lượng nhà ở (62)
        • 2.3.2.3. Về thời hạn sở hữu nhà ở (63)
  • KẾT LUẬN (29)

Nội dung

Tổng quan về quyền sở hữu của NĐT nước ngoài tại Việt Nam

Khái quát về NĐT nước ngoài và quyền sở hữu của NĐT nước ngoài

họ Tuy nhiên cho đến hiện nay, khái niệm NĐT nước ngoài vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi

1.1.1 Khái niệm NĐT nước ngoài Để tìm hiểu khái niệm NĐT nước ngoài, trước hết ta cần hiểu khái niệm NĐT Theo qui định tại khoản 4 điều 3 LĐT 2005 thì : “NĐT là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam” Khái niệm này được tiếp cận dưới 2 góc độ: Thứ nhất, dưới góc độ chủ thể:

Nhà đầu tư (NĐT) bao gồm các tổ chức và cá nhân đã được xác định Về mặt hành vi, NĐT cần thực hiện các hoạt động đầu tư, bao gồm tất cả các giai đoạn của một dự án Có hai loại đối tượng thực hiện hoạt động đầu tư: thứ nhất là NĐT đã đầu tư vốn vào dự án, và thứ hai là pháp nhân mới được thành lập để thực hiện dự án đầu tư, đặc biệt trong trường hợp cần thiết thành lập pháp nhân mới.

Theo Nghị định 2005, NĐT nước ngoài được định nghĩa tại khoản 5 điều 3 là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam Khái niệm này được phân tích từ hai khía cạnh: chủ thể và hành vi đầu tư Để hiểu rõ hơn về NĐT nước ngoài, cần tham khảo các văn bản pháp lý liên quan.

Nghị định 69/2007/NĐ-CP, ban hành ngày 20 tháng 4 năm 2007, quy định về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài bao gồm "tổ chức nước ngoài", tức là tổ chức được thành lập theo pháp luật nước ngoài và hoạt động tại nước ngoài hoặc tại Việt Nam, và "cá nhân nước ngoài", là người mang quốc tịch nước ngoài và cư trú tại nước ngoài hoặc tại Việt Nam.

Tại Quy chế hoạt động của NĐT nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định 121/2008/QĐ-BTC ngày 24 tháng 12 năm 2008 của

Bộ trưởng Bộ Tài chính đã xác định rằng nhà đầu tư nước ngoài bao gồm cả các tổ chức được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam với 100% vốn góp nước ngoài, cũng như các chi nhánh của những tổ chức này.

Theo Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg ban hành ngày 15 tháng 4 năm 2009, NĐT nước ngoài được định nghĩa bao gồm cả các tổ chức hoạt động tại Việt Nam với tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài trên 49% Quy định này nhằm tạo điều kiện cho sự tham gia của NĐT nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Nghị định 102/2010/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 2010, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, nhấn mạnh rằng, trừ các trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc quy định khác của pháp luật chuyên ngành, các quy định trong nghị định này sẽ được áp dụng.

1 “Sự tương thích giữa Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp”, Nguồn: http://vn.360plus.yahoo.com/hoada131/article?midQ&fid=-1 ngày 22/8/2009

Doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam có thể sở hữu tối đa 49% vốn điều lệ, và phải tuân thủ các điều kiện đầu tư, kinh doanh tương tự như nhà đầu tư trong nước.

Khái niệm nhà đầu tư nước ngoài (NĐT nước ngoài) trong các văn bản pháp luật hiện nay thiếu sự thống nhất, gây khó khăn trong việc áp dụng Luật Đầu tư 2005 chỉ xác định NĐT nước ngoài là những cá nhân hoặc tổ chức đã bỏ vốn đầu tư, mà không đề cập đến các pháp nhân mới thành lập để thực hiện dự án Nhiều văn bản dưới luật cũng không hướng dẫn đúng theo tinh thần của Luật Đầu tư 2005, dẫn đến sự phức tạp trong việc xác định tư cách pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khiến người thực thi pháp luật không rõ doanh nghiệp đó được coi là NĐT trong nước hay NĐT nước ngoài.

Khái niệm nhà đầu tư nước ngoài (NĐT nước ngoài) có nên bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập tại Việt Nam hay không đang là một vấn đề gây tranh cãi Nhiều ý kiến cho rằng, việc đưa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào khái niệm NĐT nước ngoài là không hợp lý.

Dù tỷ lệ sở hữu của bên nước ngoài có bao nhiêu, doanh nghiệp thành lập tại Việt Nam vẫn được coi là doanh nghiệp trong nước Tuy nhiên, nếu xem doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là nhà đầu tư trong nước, mục đích bảo hộ của nhà nước theo cam kết WTO sẽ không đạt được, dẫn đến tình trạng “đầu tư chéo” Do đó, có ý kiến cho rằng khái niệm nhà đầu tư nước ngoài nên bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với tỷ lệ vốn nước ngoài trên 49% Quy định này phản ánh đúng tinh thần của các hạn chế WTO, nhưng lại mâu thuẫn khi áp dụng tiêu chí kép để xác định nhà đầu tư nước ngoài dựa trên quốc tịch và vốn đầu tư.

Nhóm chuyên gia từ Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và Công ty Luật Baker and McKenzie đã đưa ra ý kiến về việc rà soát Luật 111/2010/QH12, nhấn mạnh sự cần thiết phải làm rõ các khái niệm trong luật để đảm bảo tính khả thi và minh bạch trong quá trình thực thi Họ cho rằng việc này không chỉ giúp cải thiện môi trường đầu tư mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn Thông tin chi tiết có thể tham khảo tại http://www.vidgroup.com.vn/c-tin-tuc/b-tin-dau-tu/ra-soat-luat-111au-tu-roi-vi-khong-ro-khai-niem/, cập nhật ngày 05/09/2011.

Đầu tư chéo là hình thức mà nhà đầu tư nước ngoài (NĐT nước ngoài) thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, cho phép họ hoạt động trong các ngành nghề không bị hạn chế Sau đó, doanh nghiệp này có thể đầu tư vào các ngành nghề có điều kiện, nhờ vào việc doanh nghiệp được xem là pháp nhân Việt Nam Điều này giúp NĐT nước ngoài tránh được những hạn chế theo cam kết WTO Quá trình này được áp dụng hai lần cho cùng một NĐT: lần đầu khi thành lập doanh nghiệp và lần thứ hai khi doanh nghiệp đó đầu tư vào doanh nghiệp khác tại Việt Nam.

Khái niệm nhà đầu tư nước ngoài (NĐT) tại Việt Nam vẫn còn nhiều vướng mắc, đặc biệt trong việc xác định tư cách của Việt kiều khi đầu tư vào quê hương Theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Việt kiều được đối xử như công dân trong nước trong các thủ tục đầu tư Tuy nhiên, sau khi Luật Đầu tư 2005 ra đời, tư cách pháp lý của họ trở nên không rõ ràng, gây khó khăn trong việc phân loại họ là NĐT trong nước hay NĐT nước ngoài Tương tự, doanh nghiệp do Việt Kiều thành lập cũng gặp phải vấn đề trong việc xác định liệu đó là doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Theo tác giả, khái niệm nhà đầu tư nước ngoài (NĐT) cần được mở rộng để bao gồm cả tổ chức và cá nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, cũng như các tổ chức hoạt động tại Việt Nam với tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài trên 49% Hơn nữa, việc công nhận người Việt Nam định cư ở nước ngoài là NĐT trong nước sẽ khuyến khích họ tham gia đầu tư xây dựng đất nước, phù hợp với chính sách và quan điểm của Đảng và Nhà nước.

Sự cần thiết phải bảo hộ quyền sở hữu của NĐT nước ngoài

Bảo vệ quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài là cần thiết, không chỉ để tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật quốc tế về đầu tư, mà còn thể hiện cam kết của Đảng và Nhà nước trong việc thu hút đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế và xã hội tại Việt Nam.

9 Xem “Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu của NĐT nước ngoài tại Việt Nam”, chú thích số 8, tr 51

1.2.1 Các căn cứ pháp lý xây dựng quy chế bảo hộ quyền sở hữu của NĐT nước ngoài

Trong lĩnh vực pháp luật đầu tư quốc tế, việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài đã được chú trọng từ sớm, thể hiện qua nhiều hiến chương và hiệp ước quốc tế Hiến chương Havana 1948 của Tổ chức Thương mại quốc tế lần đầu tiên đề cập đến khái niệm “đối xử bình đẳng” Cùng năm, Hiệp ước kinh tế Bogota được thông qua tại Hội nghị quốc tế lần thứ 9 ở Hoa Kỳ, nhằm đưa ra các biện pháp bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài Vào ngày 12 tháng 10 năm 1967, Hội đồng OECD đã thông qua Dự thảo Công ước về Bảo vệ tài sản nước ngoài, và tinh thần của Dự thảo này tiếp tục được phản ánh trong các hiệp định đầu tư song phương cũng như các văn bản đa phương sau này.

Tại Việt Nam, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài là ưu tiên hàng đầu trong việc thu hút đầu tư và hội nhập quốc tế Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương với các quốc gia và vùng lãnh thổ, cũng như các hiệp định quan trọng như hiệp định khung với EU, hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, và hiệp định đầu tư Nhật Bản - Việt Nam Qua đó, Việt Nam đã thể chế hóa các nguyên tắc pháp luật quốc tế như nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) và nguyên tắc đối xử quốc gia (NT).

1.2.1.1 Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN)

Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) quy định rằng người nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn công dân của nước thứ ba Theo cam kết MFN trong đầu tư, các bên ký kết phải đảm bảo rằng nhà đầu tư (NĐT) của bên này nhận được sự đối xử tối thiểu tương đương với NĐT từ bất kỳ quốc gia nào khác trong toàn bộ quy trình đầu tư, từ thành lập đến thanh lý Điều này cũng được thể hiện trong các hiệp định song phương đã ký kết với các quốc gia khác.

10 Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2010, Nxb Đại học Quốc gia

Thành phố Hồ Chí Minh, tr 77

Trong luận văn thạc sĩ Luật của Nguyễn Đức Vinh (2006), trang 56-57, nhấn mạnh nguyên tắc bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Cụ thể, điều 3 của Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào quy định rằng: “Đầu tư của các nhà đầu tư mỗi bên ký kết trên lãnh thổ bên ký kết kia được hưởng sự đối xử thỏa đáng, công bằng và không kém thuận lợi hơn so với sự đối xử dành cho đầu tư của nhà đầu tư từ bất kỳ nước thứ ba nào.”

Hiệp định quy định các trường hợp ngoại lệ về việc áp dụng sự đối xử không kém thuận lợi hơn đối với nhà đầu tư so với nhà đầu tư của bất kỳ nước thứ ba nào (điều 4).

Tại điều 2, Hiệp định đầu tư Nhật Bản –Việt Nam cũng quy định: “Mỗi Bên

Ký kết trong khu vực sẽ đảm bảo rằng nhà đầu tư của bên ký kết nhận được sự đối xử không kém thuận lợi hơn so với nhà đầu tư của bất kỳ nước thứ ba nào trong cùng một hoàn cảnh đầu tư Nguyên tắc này đã trở thành một phần thiết yếu trong các hiệp định song phương khác.

1.2.1.2 Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT)

Nguyên tắc NT (National Treatment) là một trong những nguyên tắc quan trọng trong hoạt động đầu tư nước ngoài, yêu cầu các quốc gia phải đối xử với nhà đầu tư nước ngoài không kém thuận lợi hơn so với nhà đầu tư trong nước trong những trường hợp tương tự Điều này bao gồm các vấn đề như thành lập, quyền sở hữu, quản lý doanh nghiệp và các quyền khác Nguyên tắc NT được ghi nhận trong nhiều hiệp định song phương về đầu tư giữa Việt Nam và các quốc gia khác Ví dụ, trong Hiệp định đầu tư Nhật Bản - Việt Nam, quy định rằng các bên ký kết sẽ dành cho nhà đầu tư của nhau sự đối xử không kém thuận lợi hơn so với nhà đầu tư trong nước Tương tự, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Hà Lan cũng cam kết cung cấp sự an toàn và bảo hộ vật chất đầy đủ cho các đầu tư nước ngoài, không kém thuận lợi hơn so với đầu tư của công dân nước mình hoặc nước thứ ba.

Việt Nam cam kết bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thông qua các hiệp định song phương, trong đó nhấn mạnh không quốc hữu hóa, không trưng thu, và bồi thường thiệt hại khi trưng thu vì mục đích công cộng Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, hiệp định song phương đầu tiên, khẳng định nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) và nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài Cụ thể, điều 10 của hiệp định quy định rằng không được quốc hữu hóa đầu tư trừ trường hợp vì lợi ích công cộng và phải bồi thường cho những khoản đầu tư bị tước quyền sở hữu Đồng thời, các bên cam kết bảo đảm quyền chuyển tiền và bồi thường cho các tổn thất do chiến tranh, xung đột vũ trang, hoặc các tình huống khẩn cấp khác.

A trưng dụng toàn bộ hoặc một phần các khoản đầu tư đó bởi các lực lượng vũ trang hoặc các cơ quan có thẩm quyền của bên đó hoặc

B phá hủy toàn bộ hoặc một phần các khoản đầu tư đó bởi các lực lượng vũ trang hoặc các cơ quan có thẩm quyền của bên đó mà tình hình không cần thiết phải làm vậy”

Hiệp định đầu tư Nhật Bản - Việt Nam đã khẳng định rõ ràng sự bảo hộ của Nhà nước Việt Nam đối với quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, nhằm tạo ra một môi trường đầu tư an toàn và minh bạch.

Trong trường hợp bên ký kết chịu tổn thất do xung đột vũ trang hoặc tình trạng khẩn cấp như cách mạng, khởi nghĩa, nội chiến, bên ký kết kia sẽ có trách nhiệm phục hồi, đền bù hoặc bồi thường cho các hoạt động đầu tư bị ảnh hưởng Hình thức giải quyết này không được kém thuận lợi hơn so với những gì mà bên đó dành cho nhà đầu tư của mình hoặc nhà đầu tư của bất kỳ nước thứ ba nào, tùy thuộc vào ưu đãi thuận lợi hơn.

Việt Nam đã tham gia vào các thiết chế kinh tế toàn cầu, nổi bật là việc ký kết hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) nhằm tạo ra khu vực đầu tư tự do giữa các nước ASEAN vào năm 2010 và mở rộng cho các nước ngoài ASEAN vào năm 2020.

Thành tựu lớn nhất của Việt Nam là gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư Theo cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam đã thông qua Luật Đầu tư mới vào tháng 11/2005, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài Luật này quy định rõ ràng rằng không có việc quốc hữu hóa hay tịch thu tài sản của nhà đầu tư, trừ khi vì lợi ích công cộng và sẽ được bồi thường đầy đủ và công bằng theo quy định của pháp luật.

Từ các hiệp định song phương và đa phương cùng cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa nhà đầu tư nước ngoài và trong nước đã trở thành chuẩn mực quốc tế Hành vi đối xử bất bình đẳng bị coi là vi phạm nghiêm trọng các chuẩn mực chung toàn cầu Sự bình đẳng này được thể hiện rõ qua việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của nhà đầu tư, đặc biệt là đối với nhà đầu tư nước ngoài, nhằm đảm bảo sự công bằng trong môi trường đầu tư.

Bảo hộ quyền sở hữu của NĐT nước ngoài theo qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành – một số hạn chế và giải pháp khắc phục

Bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn và các tài sản hợp pháp của NĐT nước ngoài 27 1 Vốn, tài sản đã đầu tư

Vốn và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư (NĐT) cần được bảo đảm để tránh tình trạng bị tước đoạt, quốc hữu hóa hay trưng dụng bất hợp lý Điều này bao gồm quyền chuyển nhượng vốn và tài sản đã đầu tư, cũng như việc chuyển lợi nhuận hợp pháp ra nước ngoài Bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn và tài sản của NĐT nước ngoài đồng nghĩa với việc đảm bảo cho họ quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt mà không bị hạn chế bất hợp lý từ nước nhận đầu tư.

2.1.1 Vốn, tài sản đã đầu tư

Khi nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, họ phải bỏ ra vốn và tài sản để thực hiện các hoạt động kinh doanh Theo nguyên tắc "Lex rei sitae", pháp luật Việt Nam sẽ áp dụng để giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản Nhà nước cam kết bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn và tài sản của nhà đầu tư nước ngoài, đảm bảo không xâm hại đến tài sản của họ trong quá trình đầu tư Đây là một biện pháp bảo đảm quan trọng mà các nhà đầu tư luôn chú trọng.

Nhà nước có quyền thực hiện các hành vi cưỡng chế như quốc hữu hóa, trưng mua, và trưng dụng tài sản để bảo vệ chủ quyền quốc gia Tuy nhiên, nếu những hành vi này diễn ra mà không có sự bồi thường hợp lý, quyền lợi của các chủ thể sẽ bị xâm phạm Điều này khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài e ngại khi đầu tư vào quốc gia mà quyền sở hữu tài sản không được đảm bảo Nhận thức rõ vai trò quan trọng của đầu tư nước ngoài trong phát triển kinh tế xã hội, Việt Nam đã quy định bảo đảm quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các văn bản pháp luật như Hiến pháp 1992 và các luật liên quan như Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 và Luật Đầu tư 2005.

Sự liên tục trong các quy định pháp luật thể hiện rõ ràng tư tưởng nhất quán của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài, điều này là cần thiết và không thể thiếu.

Theo Điều 25, Hiến pháp 1992, Nhà nước Việt Nam khuyến khích tổ chức và cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và công nghệ vào quốc gia, đảm bảo tuân thủ pháp luật Việt Nam cũng như các quy định và thông lệ quốc tế Điều này bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác Đồng thời, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ không bị quốc hữu hóa.

Theo Điều 21 của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, trong quá trình đầu tư, vốn và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài sẽ không bị trưng dụng hoặc tịch thu qua các biện pháp hành chính Đồng thời, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng sẽ không bị quốc hữu hóa.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cam kết bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp và đảm bảo lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.

Trong trường hợp quy định pháp luật Việt Nam thay đổi và gây thiệt hại cho lợi ích của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh đã được cấp giấy phép, Nhà nước sẽ có các biện pháp hợp lý để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.

24 Điều 6, Luật Đầu tư 2005: “1 Vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của NĐT không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính

2 Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của NĐT thì NĐT được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm công bố việc trưng mua, trưng dụng

Việc thanh toán hoặc bồi thường phải bảo đảm lợi ích hợp pháp của NĐT và không phân biệt đối xử giữa các NĐT

3 Đối với NĐT nước ngoài, việc thanh toán hoặc bồi thường tài sản quy định tại khoản 2 Điều này được thực hiện bằng đồng tiền tự do chuyển đổi và được quyền chuyển ra nước ngoài

4 Thể thức, điều kiện trưng mua, trưng dụng theo quy định của pháp luật”

Việt Nam cần thực hiện các biện pháp khi mở cửa hội nhập, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay với nhiều thách thức về chính trị, an toàn xã hội và biến đổi khí hậu Để chủ động đối phó với những nguy cơ này và bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài, các văn bản pháp luật đã khẳng định không quốc hữu hóa, trưng mua hay trưng dụng tài sản chỉ trong những "trường hợp thật cần thiết" và có bồi thường Luật trưng mua, trưng dụng tài sản ban hành ngày 03 tháng 6 năm 2008 quy định rõ điều kiện và cơ chế bồi thường, nhằm điều chỉnh quan hệ giữa nhà nước và các chủ thể khi thực hiện trưng mua, trưng dụng Luật này không chỉ áp dụng cho các tổ chức trong nước mà còn cho cả cá nhân và tổ chức nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư.

Theo Luật trưng mua, trưng dụng tài sản 2008, Nhà nước chỉ thực hiện trưng mua trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc lợi ích quốc gia, sau khi đã huy động tài sản do Nhà nước quản lý mà chưa đáp ứng yêu cầu Người có tài sản trưng mua sẽ được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường, bảo đảm quyền lợi và không phân biệt đối xử Để bảo vệ quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, cần làm rõ một số vấn đề trong luật này.

Việc không xác định rõ ràng khái niệm “trường hợp thật cần thiết” trong luật đã gây khó khăn cho quá trình thực thi, vì không phải mọi tình huống khi xảy ra điều kiện trưng mua, trưng dụng tài sản đều dẫn đến việc Nhà nước thực hiện hành động này Nguyên tắc cần được đảm bảo là chỉ tiến hành trưng mua, trưng dụng tài sản trong những trường hợp thật sự cần thiết.

Khái niệm "trường hợp thật cần thiết" tại Điều 2 của Luật trưng mua, trưng dụng tài sản 2008 được định nghĩa là tình huống mà các biện pháp huy động khác đã được áp dụng nhưng không mang lại hiệu quả Việc làm rõ khái niệm này không chỉ tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc mà còn giúp ngăn chặn việc áp dụng pháp luật tùy tiện từ các cơ quan cấp dưới, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư nước ngoài.

Trong điều kiện trưng mua, trưng dụng tài sản theo quy định của luật, việc thiếu rõ ràng về điều kiện “khi phải đối phó với nguy cơ hoặc để khắc phục thảm hoạ do thiên tai, dịch bệnh gây ra” là một thiếu sót lớn, gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài Việt Nam nằm trong khu vực dễ xảy ra thiên tai và dịch bệnh, do đó cần xác định rõ mức độ ảnh hưởng của chúng Nếu không có quy định cụ thể, các địa phương có thể trưng mua, trưng dụng tài sản một cách không thống nhất, dẫn đến quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngoài không được đảm bảo Vì vậy, các nhà làm luật cần quy định rõ ràng điều kiện này để bảo vệ lợi ích của các bên liên quan.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:02

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
7. Nguyễn Thường Lạng, “Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu của NĐT nước ngoài tại Việt Nam”, NXB Lý Luận Chính trị, Hà Nội (2005) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu của NĐT nước ngoài tại Việt Nam”, "NXB Lý Luận Chính trị
Nhà XB: NXB Lý Luận Chính trị"
8. Đỗ Thị Minh Phụng, “Quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở của người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài”, Luận văn cử nhân, 2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở của người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài
9. Trần Hữu Quang, “Pháp luật về ưu đãi đầu tư tại các khu kinh tế”, Luận văn thạc sĩ (2010) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật về ưu đãi đầu tư tại các khu kinh tế
10. Trương Nhật Quang, “Chức năng quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài của chính quyền địa phương ở nước ta”, Luận văn thạc sĩ luật học (2006) 11. Trần Thị Mai Quỳnh, “Quyền góp vốn, mua cổ phần của NĐT nước ngoài”,Luậnvăn cử nhân 2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chức năng quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài của chính quyền địa phương ở nước ta”, Luận văn thạc sĩ luật học (2006) 11. Trần Thị Mai Quỳnh, “Quyền góp vốn, mua cổ phần của NĐT nước ngoài
14. Lưu Quốc Thái, “Chế định thu hồi đất và vấn đề đảm bảo quyền tài sản của người sử dụng đất”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 70/2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chế định thu hồi đất và vấn đề đảm bảo quyền tài sản của người sử dụng đất”, "Tạp chí khoa học pháp lý
15. Phạm Văn Võ, Nguyễn Hoàng Thùy Trang, “Các mô hình sở hữu đất đai và những vấn đề pháp lý đặt ra đối với Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 70/2012Website Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các mô hình sở hữu đất đai và những vấn đề pháp lý đặt ra đối với Việt Nam”, "Tạp chí khoa học pháp lý
2. Luật Doanh nghiệp năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 3. Luật Nhà ở 2005 Khác
6. Nghị định số 108/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22 tháng 9 năm 2006: Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư Khác
11. Nghị định của Chính phủ số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Khác
12. Nghị định của Chính phủ số 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 về thu tiền sử dụng đất Khác
13. Thông tư 186/2010/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân nước ngoài có lợi nhuận từ việc đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo quy định của Luật Đầu tư Khác
14. Quyết định 216/2005/QĐ-TTg quy định về đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất Khác
15. Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào Khác
17. Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Hà Lan 18. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa KỳSách, luận văn, tạp chí Khác
3. Giáo trình tư pháp quốc tế 2012, Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh Khác
4. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, năm 2007 5. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 1, Đại học Luật Hà Nội, năm 2010 Khác
6. Các cam kết của Việt Nam với WTO (phần tiếng việt), Nxb Lao động – Xã hội, 2006 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w