1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo luật hình sự việt nam

63 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tội Chứa Chấp Hoặc Tiêu Thụ Tài Sản Do Người Khác Phạm Tội Mà Có Theo Luật Hình Sự Việt Nam
Tác giả Lương Tiểu Hậu
Người hướng dẫn TS. Phan Anh Tuấn
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 63
Dung lượng 10,09 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI “BIẾT RÕ TÀI SẢN LÀ DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ” TRONG TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ (14)
    • 1.1. Quy định của pháp luật hình sự về dấu hiệu định tội “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (14)
    • 1.2. Một số vướng mắc về dấu hiệu định tội “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (17)
    • 1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu định tội “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (24)
  • CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ (29)
    • 2.1. Quy định của pháp luật hình sự về giá trị tài sản do người khác phạm tội mà có trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (29)
    • 2.2. Những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định về giá trị tài sản (31)
    • 2.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về giá trị tài sản (38)

Nội dung

DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI “BIẾT RÕ TÀI SẢN LÀ DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ” TRONG TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Quy định của pháp luật hình sự về dấu hiệu định tội “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội được quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi và bổ sung năm 2017.

1 Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm

2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; d) Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; đ) Tái phạm nguy hiểm

3 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 10 năm: a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; b) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng

4 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên; b) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên

5 Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản

Phân tích quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, theo Điều 323 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), có thể xác định các dấu hiệu định tội của tội phạm này, bao gồm hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản mà mình biết rõ là do người khác phạm tội mà có.

Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội có khách thể trực tiếp là trật tự công cộng và trật tự trị an xã hội Hành vi phạm tội này tác động đến tài sản mà người khác đã chiếm đoạt một cách bất hợp pháp.

Tội phạm này thể hiện qua hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản mà người phạm tội biết rõ là do hành vi phạm tội của người khác mà có "Chứa chấp tài sản" bao gồm việc cất giữ, che giấu, bảo quản tài sản, hoặc cho thuê địa điểm để thực hiện các hành vi này Trong khi đó, "tiêu thụ tài sản" liên quan đến các hành vi như mua, bán, thuê, trao đổi, cầm cố, thế chấp, hoặc tặng, nhận tài sản, cũng như hỗ trợ thực hiện các hành vi này.

Tội phạm này có cấu thành hình thức Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội thực hiện một trong các hành vi nêu trên

- Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Người phạm tội có lỗi cố ý khi họ nhận thức rõ rằng tài sản mà họ đang chứa chấp hoặc tiêu thụ là do hành vi phạm tội của người khác mà có Họ không có bất kỳ thỏa thuận hay hứa hẹn nào trước đó với người sở hữu tài sản Nếu có sự hứa hẹn trước về việc chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, thì người đó sẽ bị coi là đồng phạm với người phạm tội.

Người thực hiện tội phạm cần phải "biết rõ" rằng tài sản mà họ đang chứa chấp hoặc tiêu thụ có nguồn gốc từ "tài sản do người khác phạm tội mà có" Việc nhận thức rõ ràng về nguồn gốc tài sản này là yếu tố quan trọng trong việc xác định trách nhiệm pháp lý của họ.

Theo Khoản 1, 2 Điều 2 Thông tư liên tịch số 09, tài sản được coi là "do người khác phạm tội mà có" khi có chứng cứ chứng minh rằng tài sản đó có được trực tiếp từ hành vi phạm tội hoặc thông qua việc mua bán, đổi chác tài sản do người phạm tội thực hiện Nếu người phạm tội không biết hoặc không rơi vào trường hợp buộc phải biết nguồn gốc tài sản là do người khác phạm tội, thì hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản này sẽ không cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Động cơ và mục đích phạm tội không phải là yếu tố quyết định để xác định tội danh.

Để cấu thành Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, người thực hiện hành vi phải "Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có" Điều này có nghĩa là để truy cứu trách nhiệm hình sự, cần phải chứng minh rằng người này có nhận thức rõ ràng về nguồn gốc tài sản Nếu họ không biết hoặc không có đủ điều kiện để biết tài sản đó do hành vi phạm tội của người khác mà có, thì sẽ không cấu thành tội này.

Khi một người biết rằng tài sản mà họ chứa chấp hoặc tiêu thụ là do hành vi phạm tội của người khác mà có, họ sẽ bị coi là có lỗi cố ý trực tiếp Điều này có nghĩa là họ nhận thức rõ ràng về tính nguy hiểm của hành vi của mình và mong muốn hậu quả xảy ra Ngược lại, nếu họ nhận thức được sự nguy hiểm nhưng không mong muốn hậu quả xảy ra (lỗi cố ý gián tiếp), hoặc tin rằng hậu quả sẽ không xảy ra (lỗi vô ý do quá tự tin), hoặc không thấy trước được hậu quả mặc dù có thể thấy (lỗi vô ý do cẩu thả), thì họ sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.

BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) thiếu hướng dẫn chi tiết về dấu hiệu định tội của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội, gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội danh này.

Theo Từ điển Tiếng Việt, "biết" được định nghĩa là khả năng nhận ra và khẳng định sự tồn tại của người, vật hoặc điều gì đó, cũng như hiểu rõ thực chất và giá trị để có sự đối xử thích đáng Điều này có thể áp dụng trong việc đánh giá hành vi của những người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản.

Một số vướng mắc về dấu hiệu định tội “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

- Thứ nhất, xác định thời điểm người thực hiện hành vi chứa chấp, tiêu thụ

“Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có”

2 Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, tr 64-65

3 Thái Chí Bình (2012), “Bàn thêm về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”,

Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 24(232), tr.34

4 Khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 09

Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2018/HS-ST do Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Long An xét xử ngày 23/11/2018 có nội dung như sau:

Vào tháng 8/2018, Trần Minh T nhận lời chạy xe cho bạn học Nguyễn Văn M.E để giao hàng tại các địa điểm được thông báo T đã hỏi về quá trình vận chuyển và tiền công, và M.E cung cấp số điện thoại 01266.xxx.109 của người thuê ở AS - Thành phố.

Tại Hồ Chí Minh, T đã liên lạc để thuê xe và được một thanh niên thỏa thuận mức phí 400.000 đồng cho mỗi chuyến Thanh niên này sẽ thông báo cho T khi có xe sẵn để T đến lấy và giao hàng T đã đồng ý với điều khoản này.

Khoảng 04 giờ 30 phút, ngày 20/9/2018, T điện thoại nhờ Nguyễn Văn Đ chở đến bến xe HN T đi xe buýt đến bến xe AS Đến nơi, T điện thoại cho người thanh niên thuê chạy xe Người này bảo T liên lạc số điện thoại 01652.xxx.141, người tên M sẽ dẫn T đi nhận xe Sau khi liên lạc, M đến chở T đến bãi xe cách Bến xe AS khoảng 200 mét, M đưa thẻ giữ xe và 400.000 đồng tiền công vận chuyển, bảo T vào bãi lấy xe mô tô loại Winner màu đen, biển số 93E1-xxx.03, chìa khóa cắm sẵn trong ổ khóa T nhận xe điều khiển về huyện H, đến ngã ba

Lực lượng Công an đã bắt quả tang T điều khiển xe ngược hướng về cầu KT tại đoạn giao nhau giữa đường 838 và đường T19 thuộc ấp 5, xã MTB, cùng với tang vật liên quan.

* Phần nhận định của Bản án:

Khoảng 09 giờ 45 phút, ngày 20/9/2018, Trần Minh T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner, màu đen, biển số 93E1-xxx.03, do người khác phạm tội mà có, từ ngã tư AS, Thành phố Hồ Chí Minh về xã MQT, huyện H, tỉnh Long An tiêu thụ, trên đường vận chuyển đến địa phận ấp 5 xã MTB, huyện

H thì bị lực lượng Công an huyện H kiểm tra, bắt quả tang; Giá trị xe được xác định là 38.000.000 đồng

Sau khi nhận thông tin từ lực lượng Công an, T đã biết rằng xe máy Honda Winner màu đen, biển số 93E1-xxx.03 mà mình đang vận chuyển là tài sản do người khác phạm tội mà có Qua quá trình đấu tranh, T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại phiên tòa, bị cáo T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang được lập vào thời điểm đó.

Vào lúc 09 giờ 45 phút ngày 20/9/2018, tại phiên tòa, lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cùng với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra.

Bị cáo T có đủ năng lực nhận thức hành vi "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện Do đó, có đủ căn cứ để kết luận rằng bị cáo T đã phạm tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có", theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015.

Nguyễn Văn M.E đã rời khỏi địa phương và không có địa chỉ cư trú xác định, không thể làm việc Người giao và nhận xe mà bị cáo T khai không rõ nhân thân, lai lịch và nơi ở, nên không thể triệu tập để làm việc Những lần vận chuyển xe khác do bị cáo T khai cũng không xác định được bị hại và không thu thập được vật chứng Ngoài lời khai của bị cáo T, không có tài liệu hay chứng cứ nào khác để xác minh, do đó không được đề cập trong vụ án này Để tránh bỏ lọt tội phạm, kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H tiếp tục xác minh và xử lý theo quy định của pháp luật.

* Phần Quyết định của bản án

1 Căn cứ: khoản 1 Điều 323, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 32, Điều 35, các Điều 46, 47 và 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Các Điều 106, 135, 136,

Các điều 299 và 326 của Bộ luật Tố tụng Hình sự cùng với Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định rõ về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí cũng như lệ phí Tòa án.

2 Tuyên bố: Bị cáo Trần Minh T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”

3 Xử phạt tiền đối với bị cáo Trần Minh T 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng)

* Nhận xét, đánh giá và vướng mắc đặt ra từ vụ án:

Khi đánh giá lỗi "Biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có", cần căn cứ vào thời điểm người thực hiện hành vi chứa chấp, tiêu thụ nhận biết, không phải thời điểm điều tra hay xét xử Hiện nay, một số cơ quan tố tụng dựa vào sự "thừa nhận" của người chứa chấp, tiêu thụ để quyết định khởi tố, truy tố, điều này là sai lầm Nếu người này không thừa nhận biết rõ tài sản là do phạm tội mà có, cần phân tích hành vi của họ dựa trên các yếu tố như tuổi đời, trình độ học vấn, mối quan hệ với người phạm tội và hoàn cảnh thực hiện hành vi Việc chứng minh lỗi phải xuất phát từ hành vi của họ, không phải từ nhận thức của họ Thực tiễn cho thấy có trường hợp cơ quan tố tụng đã xác định sai thời điểm, dẫn đến việc định tội danh không phù hợp với nguyên tắc suy đoán vô tội.

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Vụ án này cho thấy sự bất hợp lý khi cơ quan tố tụng huyện H, tỉnh Long An chỉ dựa vào lời khai của Trần Minh T để khởi tố, truy tố và xét xử T về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà không xem xét một cách khách quan các tình tiết thực tế Đặc biệt, T chỉ nhận thức được rằng chiếc xe máy Honda Winner, biển số 93E1-xxx.03 là tài sản do người khác phạm tội mà có sau khi bị bắt, trong khi trước đó T chỉ thực hiện giao kèo vận chuyển xe để nhận thù lao Điều này cho thấy quan hệ giữa T và M.E thực chất chỉ là một quan hệ pháp luật dân sự, vì T không biết nguồn gốc tài sản Do đó, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T về tội này là chưa chính xác và không phản ánh đúng nhận thức của T về hành vi của mình.

Vụ án này đặt ra vấn đề cần hướng dẫn rõ ràng về thời điểm xác định hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản, khi người thực hiện biết rõ tài sản đó có nguồn gốc từ hành vi phạm tội của người khác.

- Thứ hai, về nội dung của dấu hiệu “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có”

Bản án hình sự phúc thẩm số 232/2020/HS-PT ngày 18/5/2020 của Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh 5

Vào khoảng 04h00' ngày 01/9/2019, T nhận được điện thoại của một người thanh niên (chưa rõ lai lịch) nói T đến khu vực cầu vượt LX thuộc phường

F, quận TĐ nhận xe gắn máy do trộm cắp mà có đem về Long An giao qua biên giới, T sẽ được trả công 1.000.000 đồng, T đồng ý

T đã đi xe khách từ Tây Ninh đến cầu vượt LX và thuê xe ôm vào hẻm phía sau bãi container trên Quốc lộ 1A, khu phố 3, phường F, quận TĐ để nhận xe mô tô Yamaha Exciter không biển số từ một thanh niên Do xe không có biển số, T đã gửi xe vào bãi xe siêu thị Coop-Xtra tại số 934 Quốc lộ 1, khu phố 4, phường G, quận TĐ Vào lúc 14h00' ngày 02/9/2019, T thuê C là xe ôm chở đến siêu thị để lấy xe, nhưng khi vừa dẫn xe ra ngoài thì bị Công an phường G, quận TĐ phát hiện và kiểm tra, đưa về trụ sở làm việc.

Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu định tội “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Trong Mục 1.2 của Luận văn, việc phân tích thực tiễn áp dụng dấu hiệu định tội “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội đã chỉ ra một số vướng mắc cụ thể trong các vụ án.

Để xác định thời điểm người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, cần hướng dẫn rõ ràng về việc nhận thức rằng tài sản đó là do hành vi phạm tội của người khác mà có.

Để áp dụng dấu hiệu “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có”, cần xác định liệu người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản có nắm rõ thông tin về các yếu tố cấu thành tội phạm hay không Nếu người đó không biết đầy đủ thông tin này, thì việc áp dụng tình tiết “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” để truy cứu trách nhiệm về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội sẽ gặp khó khăn.

* Nguyên nhân của các vướng mắc nêu trên xuất phát từ các lý do sau:

Quy định của Bộ luật hình sự về dấu hiệu pháp lý “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản phạm tội mang tính chất phức tạp, bao gồm các khái niệm “Biết rõ” và “Do người khác phạm tội mà có” Hai khái niệm này có tính khái quát cao và đa nghĩa, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng pháp luật.

- Thứ hai, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật không còn hiệu lực và chưa đầy đủ các nội dung liên quan đến các vướng mắc

Khoản 4 Điều 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực” Hiện nay, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã chấm dứt hiệu lực và bị thay thế bởi BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành như Thông tư liên tịch số 09 cũng cần phải được thay thế cho phù hợp với các quy định mới cũng như thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội phạm

Mặc khác những vướng mắc có tính chi tiết như trên chưa được hướng dẫn nào của TANDTC

Để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về dấu hiệu định tội “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tác giả kiến nghị cần có những biện pháp cụ thể và rõ ràng Việc này sẽ giúp tăng cường tính minh bạch trong việc xác định trách nhiệm pháp lý và nâng cao hiệu quả trong công tác điều tra, truy tố các hành vi liên quan.

Thứ nhất, bổ sung hướng dẫn về việc dấu hiệu “Biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có”

Thông tư mới hướng dẫn áp dụng thống nhất về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội quy định rằng chỉ cần chứng minh ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản, tức là họ biết rõ tài sản đó là do người khác phạm tội mà có Điều này có nghĩa là không cần phải chứng minh người này biết rõ về hành vi phạm tội của người khác để có được tài sản đó.

Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-

Văn bản hướng dẫn mới Điều 1: Giải thích từ ngữ

Biết rõ tài sản có nguồn gốc từ hành vi phạm tội nghĩa là có cơ sở chứng minh rằng tài sản đó được nhận trực tiếp từ người thực hiện tội phạm hoặc từ việc mua bán, trao đổi tài sản có nguồn gốc này.

Biết rõ tài sản có nguồn gốc từ hành vi phạm tội của người khác có nghĩa là có chứng cứ cho thấy tài sản đó được nhận trực tiếp từ người thực hiện tội phạm, hoặc là tài sản được mua bán, đổi chác bằng tài sản có được từ hành vi phạm tội đó.

Ý thức chủ quan trong việc chứa chấp và tiêu thụ tài sản chỉ yêu cầu người thực hiện hành vi phải biết rằng tài sản đó do người khác phạm tội mà có, mà không cần phải biết rõ các tình tiết liên quan đến tội phạm như danh tính người thực hiện hay độ tuổi của họ Do đó, nếu có đủ chứng cứ chứng minh rằng người chứa chấp hoặc tiêu thụ biết rõ nguồn gốc tài sản do hành vi phạm tội của người khác, thì sẽ có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ về tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Không được coi là "biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có" trong trường hợp người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản chỉ nhận thức được nguồn gốc phạm tội của tài sản đó sau khi đã thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ.

Hướng dẫn này nhằm làm rõ dấu hiệu "Biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có" trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội (Điều 323 BLHS), cụ thể hóa các khái niệm "Biết rõ" và "Do người khác phạm tội mà có" Đề xuất này không làm giảm tính chất xâm phạm trật tự công cộng của tội danh này.

Để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội, cần tăng cường trình độ chuyên môn cho các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua tập huấn, tổng kết thực tiễn và trao đổi nghiệp vụ Việc bồi dưỡng nhân sự là rất quan trọng để đảm bảo phát hiện, xử lý và định tội danh chính xác đối với những hành vi này, từ đó góp phần hiệu quả vào công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm.

Chương 1 của Luận văn đã phân tích quy định pháp luật và thực tiễn xét xử liên quan đến dấu hiệu “Biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có” trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, từ đó đưa ra một số kết luận quan trọng.

1 Về mặt chủ quan, việc người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản chỉ bị coi là phạm tội khi “Biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có” Dấu hiệu này thể hiện ý thức của người phạm tội đối với việc thực hiện hành vi phạm tội, tuy biết rõ tài sản có nguồn gốc từ hành vi phạm tội của người khác nhưng vẫn thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó nhằm đạt được những mục đích nhất định

GIÁ TRỊ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Quy định của pháp luật hình sự về giá trị tài sản do người khác phạm tội mà có trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội được quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi và bổ sung năm 2017.

1 Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm

2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; d) Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; đ) Tái phạm nguy hiểm

3 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 10 năm: a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; b) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng

4 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên; b) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên

5 Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản

Phân tích quy định về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Điều 323 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho thấy đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản do người khác phạm tội mà có Tài sản này có thể bao gồm tài sản chiếm đoạt, tham ô, hoặc nhận hối lộ, cũng như tài sản được mua bán, đổi chác bằng tài sản có được từ hành vi phạm tội Định nghĩa "tài sản" bao hàm nhiều hình thức như vật, tiền, giấy tờ có giá, bất động sản, động sản, và các quyền tài sản khác, thể hiện sự đa dạng và phức tạp của loại tài sản này trong bối cảnh pháp luật.

Trong trường hợp tài sản có nguồn gốc từ tội phạm như ma túy, tiền chất ma túy, pháo nổ, vũ khí, hoặc hàng cấm khác, người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ các tài sản này sẽ bị xử lý theo tội danh tương ứng mà không bị truy cứu về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Điều này có nghĩa là chỉ một số loại tài sản nhất định mới được coi là đối tượng của các tội phạm này, và hàng cấm không được xem là tài sản theo quy định của Bộ luật Hình sự Do đó, trách nhiệm hình sự của người chứa chấp hoặc tiêu thụ hàng cấm sẽ được xác định dựa trên tính chất của đối tượng và các tội danh liên quan trong Bộ luật Hình sự.

7 Khoản 1, 3 Điều 1 Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30/11/2011

8 Khoản 10 Điều 2 Thông tư liên tịch số 09

Theo Điều 323 BLHS, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không xác định "giá trị tài sản" là dấu hiệu định tội, mà chỉ là yếu tố để xác định khung hình phạt tăng nặng Cụ thể, tài sản hoặc vật phạm pháp có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng sẽ được xem xét để phân hóa mức phạt.

2 Điều 323 BLHS); “Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới

1.000.000.000 đồng” (điểm a khoản 3 Điều 323 BLHS); “Tài sản, vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên” (điểm a khoản 4 Điều 323 BLHS).

Những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định về giá trị tài sản

do người khác phạm tội mà có

Thực tiễn áp dụng quy định về “Giá trị tài sản do người khác phạm tội mà có” trong Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội cho thấy một số vướng mắc, được thể hiện qua các bản án cụ thể Những khó khăn này cần được xem xét để cải thiện quy trình pháp lý liên quan.

Bản án hình sự phúc thẩm số 90/2020/HSPT ngày 23/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa 9

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 20/12/2019, Nguyễn Trường Th cùng Trần Thanh V rủ nhau đi trộm cắp dầu xe ô tô để để bán lấy tiền tiêu xài V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 79L2-X chở Th, mang theo mang theo một giỏ đựng đồ nghề gồm 05 can nhựa loại 30 lít, 2 cờ lê cỡ 17, 18 và một đoạn ống nhựa, đi theo đường Hương lộ 39 thuộc xã D tìm xe để hút dầu thì phát hiện xe ô tô tải biển kiểm soát 79C-1 của anh Nguyễn Ngọc H (trú tại thôn B, xã D, D) đậu bên đường, không có người trông coi Th ở ngoài cảnh giới, V mang đồ nghề vào trong xe tải hút trộm dầu Cả hai trộm cắp được 05 can dầu rồi cùng nhau mang dầu cất giấu tại một bụi cây cách nơi đậu xe khoảng 200m thì bị người dân phát hiện, bắt quả tang Th giao cho Công an xã D, riêng V điều khiển xe mô tô chạy thoát Ngày 23/12/2019, Trần Thanh V đến Công an huyện D đầu thú

Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã ban hành Bản án hình sự phúc thẩm số 90/2020/HSPT vào ngày 23 tháng 9 năm 2020 Thông tin chi tiết về bản án có thể được tìm thấy tại trang web chính thức của Tòa án Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2020 để xem nội dung đầy đủ.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 71 ngày 20/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện D kết luận 150 lít dầu Diezel có giá trị 2.625.000 đồng

Từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2019, Trần Thanh V và Nguyễn Trường Th đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tại huyện D, ngoài lần phạm tội đã được xác định trong quá trình điều tra.

Vào khoảng 1 giờ ngày 29/10/2019, Trần Thanh V điều khiển xe mô tô mang theo dụng cụ trộm dầu, đi tìm tài sản trộm cắp trên đường Hương lộ 39 Khi đến khu vực trường N, V phát hiện xe ô tô tải biển kiểm soát 79C-2 của anh Nguyễn Hữu C đang đỗ mà không có người trông coi V đã mở đáy thùng dầu, lấy trộm 120 lít dầu và cho vào 4 can nhựa Sau đó, V đem số dầu trộm được đến trại Tr, thuộc thôn H, xã D, bán cho Nguyễn Đức T với số tiền 1.480.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 01 giờ ngày 30/10/2019, Trần Thanh V và Nguyễn

Trường Th và V điều khiển xe mô tô mang theo dụng cụ trộm dầu xe dọc Quốc lộ 1A Khi đến Công ty sắt thép M, V lẻn vào sân đỗ xe tải và lấy trộm 90 lít dầu từ xe ô tô tải biển kiểm soát 79C-3, trong khi Th đứng ngoài cảnh giới Sau khi V đưa số dầu này cho Th, anh ta tiếp tục lấy thêm 90 lít nữa thì bị anh Nguyễn Đông H phát hiện và tri hô, buộc V phải bỏ lại số dầu và chạy trốn.

90 lít dầu đựng trong can nhựa, cùng với Nguyễn Trường Th bỏ chạy, đến trại Tr bán cho Nguyễn Đức T được 1.110.000 đồng

Vụ thứ ba: Khoảng 01 giờ ngày 12/11/2019, Trần Thanh V và Nguyễn

Trường Th điều khiển xe mô tô mang theo dụng cụ trộm cắp, di chuyển trên đường Hương lộ 39 với mục đích tìm kiếm tài sản trộm cắp Khi đến quán tạp hóa của ông Nguyễn Văn, kế hoạch của hắn đã được thực hiện.

Vào ngày xảy ra vụ trộm, V và Th phát hiện trong quán có nhiều can đựng dầu xe Th đứng ngoài cảnh giới trong khi V lẻn vào lấy 06 can dầu, tổng cộng 180 lít, rồi cả hai mang số dầu này giấu tại bụi cây cách đó 300m Sáng hôm sau, V và Th bán 06 can dầu cho ông Th với giá 2.100.000 đồng, mà ông Th không biết rằng tài sản này là do trộm cắp mà có.

Vụ thứ tư: Khoảng 01 giờ ngày 18/11/2019, Trần Thanh V và Nguyễn

Trường Th và đồng phạm V đã điều khiển xe mô tô mang theo dụng cụ để trộm dầu máy xe trên tỉnh lộ 2 Khi đến Bưu điện xã D, huyện D, họ phát hiện xe ô tô tải của anh Đỗ Hữu Minh Q đang đỗ không có người trông coi V đã mở đáy thùng xe, lấy trộm 120 lít dầu và cho vào 04 can nhựa trước khi Th điều khiển xe mô tô rời khỏi hiện trường Sau khi thực hiện hành vi trộm cắp, V đã gọi điện cho Th để chở cả hai đi bán dầu cho Nguyễn Đức T với số tiền 1.480.000 đồng.

Vụ thứ năm: Khoảng 01 giờ ngày 29/11/2019, Trần Thanh V và Nguyễn

Trường Th và V đã thực hiện hành vi trộm cắp tại xí nghiệp gạch ngói D, nơi có nhiều xe ô tô tải đỗ Th đứng ngoài cảnh giới trong khi V lẻn vào lấy 180 lít dầu từ hai xe ô tô tải biển kiểm soát 79C-5 và 79C-6, cùng với 04 bình ắc quy Sau khi trộm cắp, họ bán 180 lít dầu cho Nguyễn Đức T với giá 2.200.000 đồng và 04 bình ắc quy cho chị Nguyễn Thị L với giá 2.400.000 đồng, không biết rằng tài sản là do trộm cắp mà có.

Vụ thứ sáu: Khoảng 01 giờ ngày 14/12/2019, Trần Thanh V và Nguyễn

Trường Th và V đã điều khiển xe mô tô mang theo dụng cụ trộm dầu máy xe trên tỉnh lộ 2 để tìm kiếm tài sản trộm cắp Khi đến chùa T thuộc xã D, họ phát hiện xe ô tô tải 79C-7 của anh Nguyễn Xuân Đ đỗ không có người trông giữ Th đứng ngoài cảnh giới trong khi V lén lút mở đáy thùng dầu xe và lấy trộm 150 lít dầu Sau đó, cả hai đã bán số dầu này cho Nguyễn Đức T với giá 1.850.000 đồng.

Vụ thứ bảy: Khoảng 01 giờ ngày 19/12/2019, Trần Thanh V và Nguyễn

Trường Th điều khiển xe mô tô mang theo dụng cụ trộm dầu, đã đến bãi khai thác cát H thuộc thôn 1, xã D, huyện D Tại đây, Trường Th và đồng phạm đã sử dụng kềm cắt ống dẫn dầu để lấy 40 lít dầu và tháo gỡ 04 bình ắc quy từ hai xe máy đào của chị Nguyễn Thị Băng T, cư trú tại thôn 2, xã D.

V và Th mang dầu trộm cắp được bán trộm cắp được bán cho Nguyễn Đức

T được 370.000 đồng, mang 04 bình ắc quy bán cho anh Nguyễn Thái H (trú thôn T, xã D, huyện D) được 2.500.000 đồng, anh H không biết tài sản là do trộm cắp mà có

Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2020/HSST ngày 04/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa đã tuyên phạt Nguyễn Đức T 6 tháng tù về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" Quyết định này căn cứ vào khoản 1 Điều 323, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, thời hạn tù sẽ được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

* Nhận xét, đánh giá và vướng mắc đặt ra từ vụ án

Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Đức T đã nhiều lần mua can dầu do Trần Thanh V và Nguyễn Trường Th trộm cắp được, mặc dù biết rõ nguồn gốc tài sản này Hành vi của bị cáo T được tòa án xét xử về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015, cho thấy sự đúng đắn và căn cứ pháp lý trong quyết định của tòa.

Trong vụ án này, các bị cáo V và Th đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với tổng giá trị trên 2 triệu đồng, đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp Mặc dù có một số lần trộm cắp tài sản dưới 2 triệu đồng không đủ dấu hiệu tội phạm, nhưng do tổng giá trị tài sản trộm cắp vượt quá 2 triệu đồng, các bị cáo vẫn bị xử lý hình sự Đồng thời, bị cáo Nguyễn Đức T đã nhiều lần mua lại dầu trộm cắp để sử dụng và bán cho người khác, do đó bị xử lý về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về giá trị tài sản

do người khác phạm tội mà có

Theo phân tích tại Mục 1.2 của Luận văn, thực tiễn áp dụng gặp nhiều vướng mắc, do đó cần nghiên cứu để quy định giá trị tài sản một cách định lượng.

Vũ Thành Long (2013) trong bài viết "Thực tiễn định tội danh 'Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có'" đã phân tích tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội Ông nhấn mạnh sự cần thiết phải phân biệt giữa hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản phạm tội, được coi là tội phạm, và trường hợp chỉ bị xem là vi phạm pháp luật hành chính.

Vướng mắc trong việc xử lý Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội xuất phát từ việc nhà làm luật chưa quy định rõ ràng về định lượng tài sản, dẫn đến khó khăn trong việc phân biệt giữa xử lý hình sự và xử lý vi phạm hành chính Để khắc phục vấn đề này, tác giả đề xuất cần có quy định cụ thể về đối tượng tác động của tội danh này, nhằm tạo ra sự rõ ràng và nhất quán trong việc áp dụng pháp luật.

Theo quan điểm của tác giả, để giải quyết ý kiến trái chiều về việc quy định yếu tố định lượng tối thiểu của tài sản trong tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội, cần thừa nhận phương án dựa vào cấu thành tội phạm Tác giả đồng tình rằng đối với các tội phạm có cấu thành vật chất, tài sản phải có giá trị tương ứng với yếu tố cấu thành cơ bản của tội danh Trong khi đó, đối với các tội có cấu thành hình thức, không cần thiết phải định lượng giá trị tài sản tối thiểu là 2.000.000 đồng; chỉ cần hành vi của người phạm tội đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản phải chịu trách nhiệm hình sự.

Trong bối cảnh có sự chồng chéo giữa Nghị định số 167/2013/NĐ-CP và BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) liên quan đến trách nhiệm pháp lý đối với hành vi tiêu thụ tài sản “Cầm cố” do người khác phạm tội mà có, cần quy định giá trị tối thiểu của tài sản để phân định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi này Việc bổ sung yếu tố định lượng cho tài sản là cần thiết để truy cứu trách nhiệm hình sự phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội Cụ thể, nếu tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc trường hợp đặc biệt, sẽ áp dụng BLHS năm 2015 để truy cứu trách nhiệm hình sự Ngược lại, tài sản dưới 2.000.000 đồng không thuộc trường hợp đặc biệt sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 167/2013/NĐ-CP Do đó, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 323 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định tại Điều 323 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội Điều này nhấn mạnh trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi liên quan đến việc bảo vệ tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp, nhằm đảm bảo công bằng xã hội và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật.

1 Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến

100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ

1 Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết là do người khác phạm tội mà có mà tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng 15 nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ

15 Tác giả đề xuất mức tối thiểu là 2.000.000 đồng vì đối chiếu với một số tội xâm phạm về sở hữu thì BLHS

Theo quy định tại Điều 172, 173 và 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), mức giá trị tài sản tối thiểu bị chiếm đoạt được xác định là 2.000.000 đồng Đặc biệt, đối với những trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã từng bị kết án về các tội liên quan mà chưa được xóa án tích, nếu tiếp tục vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm khắc hơn.

Đề xuất sửa đổi, bổ sung cấu thành cơ bản của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội, theo Điều 323 BLHS năm 2015, xuất phát từ các cơ sở pháp lý và thực tiễn cần thiết để nâng cao hiệu quả phòng ngừa và xử lý tội phạm.

Để phân biệt rõ ràng giữa tội phạm này với hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội, cần nhấn mạnh rằng những hành vi đó chỉ bị coi là vi phạm hành chính.

Quy định về giá trị tài sản do người khác phạm tội mà có thể giúp xác định mức độ nguy hiểm của tội phạm đối với xã hội Theo khoản 2 Điều 8 BLHS, những hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng không gây nguy hiểm đáng kể sẽ không bị coi là tội phạm và sẽ được xử lý bằng các biện pháp khác Đối với tội phạm này, nếu có dấu hiệu "do người khác phạm tội mà có", thì tội phạm nguồn cần đạt đủ định lượng về đối tượng tác động để có thể bị xử lý hình sự.

Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội quy định tại Điều 323 BLHS xâm phạm trật tự công cộng và có tính độc lập tương đối với tội phạm nguồn Việc quy định giá trị tài sản do người khác phạm tội mà có ở mức tối thiểu để định tội vẫn đảm bảo tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội.

Tác giả kiến nghị TAND Tối cao ban hành văn bản hướng dẫn về giá trị tài sản do người khác phạm tội mà có, nhằm đồng bộ với các sửa đổi, bổ sung dấu hiệu định tội của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội.

Trong trường hợp người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội nhiều lần hoặc liên tục, tổng giá trị tài sản do hành vi phạm tội mang lại sẽ được tính là tổng giá trị của tất cả các lần vi phạm Nếu tổng giá trị tài sản, vật phạm pháp này đạt mức quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự, thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:36

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w