Một số khái niệm về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
Trong quản lý nhà nước về y tế, việc xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến khám bệnh và chữa bệnh đòi hỏi phải hiểu rõ các thuật ngữ và khái niệm cơ bản Điều này đặc biệt quan trọng khi xem xét các hành vi vi phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người thực hiện khám bệnh, chữa bệnh.
Một là, hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
Tại Khoản 6 Điều 2 của Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 4 quy định
“Người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh là người đã được cấp chứng chỉ hành nghề và thực hiện khám bệnh, chữa bệnh
Người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh không chỉ là bác sĩ mà còn bao gồm nhiều đối tượng khác như y sĩ, điều dưỡng viên, hộ sinh viên, kỹ thuật viên, lương y và những người có bài thuốc gia truyền hoặc phương pháp chữa bệnh gia truyền Theo Nghị định số 102/2011/NĐ-CP, lương y là người có kiến thức về y dược học cổ truyền và được công nhận bởi Bộ Y tế hoặc Sở Y tế sau khi có sự đồng ý của Hội đông y Người có bài thuốc gia truyền là những người sở hữu phương pháp chữa bệnh được truyền lại qua nhiều thế hệ trong gia đình.
4 Luật Khám bệnh, chữa bệnh số 40, ngày 23 tháng 11 năm 2009
5 Nghị định số 102 của Chính phủ về Bảo hiểm trách nhiệm trong khám bệnh, chữa bệnh, ngày 14 tháng 11 năm
6 Khoản 8 Điều 2 của Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009.
Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính đối với quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội, xảy ra hàng ngày và mặc dù mức độ nguy hiểm thấp hơn tội phạm, nhưng vẫn gây ra nhiều thiệt hại cho lợi ích chung của xã hội Nếu không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, vi phạm hành chính có thể dẫn đến tình trạng phạm tội Nghiên cứu khái niệm vi phạm hành chính là rất quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, vì định nghĩa chính xác về vi phạm hành chính là cơ sở để xác định các hành vi vi phạm cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước, từ đó đảm bảo tính chính xác và tránh sự tùy tiện trong việc xử lý.
Khoản 9 Điều 2 của Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân Luật này không chỉ đảm bảo trật tự quản lý nhà nước mà còn góp phần giáo dục người vi phạm, cảnh cáo và ngăn ngừa các hành vi vi phạm trong tương lai.
Khái niệm vi phạm hành chính là cơ sở lý luận quan trọng để xác định hành vi vi phạm pháp luật nào thuộc loại vi phạm hành chính, từ đó phân biệt với tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác Việc hiểu rõ về vi phạm hành chính giúp xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quy định xử lý và đấu tranh hiệu quả đối với các hành vi vi phạm pháp luật.
Người dân có thể tự đánh giá và điều chỉnh hành vi của mình dựa trên các dấu hiệu trong khái niệm, đồng thời tự bảo vệ bản thân khi cơ quan nhà nước xử lý sai Đối với các cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, họ có khả năng chỉ rõ và giải thích cho người vi phạm hiểu rõ hành vi nào bị coi là vi phạm và cách thức xử lý tương ứng.
Vi phạm hành chính lần đầu tiên được định nghĩa trong Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 Theo Điều 1 của Pháp lệnh này, vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện, có thể là cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không thuộc phạm vi tội phạm hình sự, và theo quy định pháp luật, những hành vi này phải chịu hình thức xử phạt hành chính.
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 không cung cấp định nghĩa trực tiếp về vi phạm hành chính, mà chỉ quy định gián tiếp thông qua khái niệm xử phạt Cụ thể, xử phạt vi phạm hành chính áp dụng cho cá nhân và tổ chức có hành vi vi phạm quy tắc quản lý nhà nước, dù là cố ý hay vô ý, mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, và theo quy định của pháp luật, phải chịu hình phạt vi phạm hành chính.
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, cùng với các sửa đổi vào năm 2007 và 2008, tiếp tục duy trì định nghĩa về vi phạm hành chính được quy định trong Pháp lệnh năm 1995 Cụ thể, Khoản 2 Điều 1 của Pháp lệnh này nêu rõ về việc xử phạt các hành vi vi phạm hành chính.
Nguyễn Thị Ngọc Bích (2010) trong luận văn Thạc sĩ Luật học tại Trường Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực thi pháp luật để bảo vệ tài nguyên rừng và môi trường.
9 Tống Thị Hoài Phương, Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, tr 7
Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 quy định rằng các cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm quy định pháp luật về quản lý nhà nước, dù cố ý hay vô ý, sẽ bị xử phạt hành chính Những hành vi này không được coi là tội phạm nhưng vẫn phải chịu hình thức xử lý theo quy định của pháp luật.
Vào ngày 20/6/2012, Quốc hội đã thông qua Luật Xử lý vi phạm hành chính, trong đó đưa ra định nghĩa rõ ràng về vi phạm hành chính Theo luật, vi phạm hành chính được hiểu là hành vi có lỗi của cá nhân hoặc tổ chức vi phạm các quy định pháp luật về quản lý nhà nước, không phải là tội phạm, và phải chịu xử phạt theo quy định của pháp luật.
Từ các khái niệm nêu trên, vi phạm hành chính có những đặc điểm sau:
Vi phạm hành chính chỉ được coi là có lỗi khi chủ thể nhận thức rõ về hành vi và hậu quả của nó Lỗi, bao gồm cả ý thức cố ý và vô ý, là yếu tố bắt buộc trong cấu thành vi phạm hành chính Nếu chủ thể không có khả năng nhận thức do bệnh lý tâm thần hoặc lý do khác, hành vi của họ sẽ không bị coi là có lỗi, và do đó, họ sẽ không bị xử phạt vì vi phạm hành chính.
Hành vi vi phạm quy định pháp luật về quản lý nhà nước, hay còn gọi là vi phạm hành chính, có thể diễn ra dưới dạng hành động hoặc không hành động Những hành vi này thể hiện sự trái pháp luật trong lĩnh vực hành chính.
- Không thực hiện những hành vi mà pháp luật hành chính yêu cầu
- Thực hiện những hành vi mà pháp luật hành chính cấm
- Thực hiện những hành vi vượt quá phạm vi pháp luật hành chính cho phép
Vi phạm hành chính không được coi là tội phạm, điều này là một dấu hiệu quan trọng được kế thừa từ Pháp lệnh năm 1989 và Pháp lệnh năm 2002 Mặc dù việc khẳng định này có vẻ thừa thãi, nhưng nó mang tính nguyên tắc và là cơ sở để Chính phủ quy định các hành vi vi phạm hành chính Theo đó, các hành vi vi phạm hành chính không thể trùng lặp với các hành vi đã được Bộ luật Hình sự xác định là tội phạm.
11 Khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính
12 Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên), Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, NXB Hồng Đức-
Hội Luật gia Việt Nam khẳng định rằng hành vi này không thể bị coi là vi phạm hành chính, vì đây là sự phân biệt dựa trên dấu hiệu pháp lý bắt buộc, không phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của người xử phạt.
Vi phạm hành chính phải được xử phạt theo quy định của pháp luật, có nghĩa là một hành vi chỉ được coi là vi phạm hành chính khi nó được quy định cụ thể trong văn bản pháp luật về xử phạt Điều này nhấn mạnh rằng chỉ khi hành vi được pháp luật xác định rõ ràng, thì mới có thể xem đó là vi phạm hành chính Nếu một hành vi vi phạm các quy định của pháp luật nhưng chưa có điều, khoản cụ thể quy định về xử phạt, thì hành vi đó không được coi là vi phạm hành chính.
Qua các phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm vi phạm hành chính như sau:
Các hành vi vi phạm quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
Vi phạm hành chính liên quan đến quy định về hành nghề và sử dụng chứng chỉ hành nghề trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh là một trong những hành vi vi phạm quan trọng trong y tế Các quy định cụ thể về những vi phạm này được nêu rõ tại Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP, giúp đảm bảo tính pháp lý và chất lượng dịch vụ y tế.
Theo Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 và Nghị định số 109/2016/NĐ-CP, tác giả phân loại các hành vi vi phạm hành chính tại Điều 38 Nghị định 117/2020/NĐ-CP thành ba nhóm chính: thứ nhất, vi phạm quy định về hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh; thứ hai, vi phạm quy định về sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề; và thứ ba, vi phạm liên quan đến việc sử dụng người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở y tế.
Nhóm hành vi vi phạm quy định về hành nghề khám bệnh, chữa bệnh bao gồm: không đeo biển tên, không sử dụng trang bị bảo hộ theo quy định, từ chối khám bệnh khi vượt quá khả năng chuyên môn mà không báo cáo, làm lộ thông tin bệnh nhân, chỉ định dịch vụ vì vụ lợi, lạm dụng nghề nghiệp, sửa chữa hồ sơ bệnh án, sử dụng mê tín trong khám chữa bệnh, bán thuốc trái phép, nhận hối lộ, và không kịp thời sơ cứu cho bệnh nhân.
Nhóm 1 hành vi vi phạm quy định về hành nghề khám bệnh, chữa bệnh bao gồm những hành vi nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh, như không kịp thời sơ cứu, cấp cứu theo quy định tại điểm e Khoản 7 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP Hành vi từ chối khám bệnh, chữa bệnh tại điểm g Khoản 7 cũng có thể gây nguy hiểm đến tính mạng nếu không thực hiện sơ cứu cho đến khi người bệnh được chuyển đến cơ sở y tế Do đó, mức phạt tiền cho những hành vi này rất cao, từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng Ngược lại, các hành vi vi phạm không ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, như không đeo bảng tên hoặc không sử dụng trang phục phòng hộ, chỉ bị phạt nhẹ hơn, từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng hoặc cảnh cáo.
So với Nghị định số 176/2013/NĐ-CP, Nghị định số 117/2020/NĐ-CP đã kế thừa và điều chỉnh các quy định về hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, đảm bảo phù hợp với thực tiễn Một số hành vi vi phạm như làm lộ thông tin bệnh nhân sẽ không thay đổi, trừ khi có sự đồng ý của người bệnh hoặc trong trường hợp được pháp luật quy định Nghị định mới cũng quy định rõ ràng hơn về việc từ chối khám bệnh, chữa bệnh khi vượt quá khả năng chuyên môn, yêu cầu người hành nghề phải báo cáo với cơ quan có thẩm quyền hoặc giới thiệu bệnh nhân đến cơ sở khám chữa bệnh khác, thay vì chỉ quy định chung như trước đây.
Nhóm vi phạm quy định về sử dụng chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh bao gồm: hành nghề tại nhiều cơ sở cùng lúc, tổng thời gian làm việc ngoài giờ vượt quá quy định, và thực hiện hành nghề không đúng thời gian được phê duyệt Người nước ngoài khám bệnh bằng tiếng Việt mà chưa được công nhận về khả năng ngôn ngữ, hoặc sử dụng ngôn ngữ khác không được đăng ký cũng là vi phạm Ngoài ra, việc chỉ định điều trị, kê đơn thuốc bằng ngôn ngữ không được phép, hoặc không có người phiên dịch đủ trình độ cũng vi phạm quy định Người hành nghề không được đảm nhận trách nhiệm chuyên môn tại nhiều cơ sở hoặc khoa lâm sàng cùng lúc, và phải có mặt tại cơ sở trong thời gian hoạt động Việc khám bệnh khi chưa có chứng chỉ, đang bị thu hồi hoặc đình chỉ cũng là hành vi vi phạm, cùng với việc thực hiện các kỹ thuật vượt quá phạm vi chuyên môn trong chứng chỉ Cuối cùng, việc thuê hoặc mượn chứng chỉ hành nghề cũng là hành vi nghiêm cấm.
Nhóm 2 quy định về hành vi vi phạm liên quan đến chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh có những hành vi nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng bệnh nhân Cụ thể, hành vi khám bệnh, chữa bệnh mà không có chứng chỉ hành nghề, theo Khoản 7 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP, có thể gây nguy hiểm cho người bệnh Để được cấp chứng chỉ hành nghề, bác sĩ phải hoàn thành ít nhất 18 tháng thực hành và được đánh giá chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp theo quy định của Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 và Thông tư số 07/2014/TT-BYT.
Bộ Y tế đã ban hành quy định về quy tắc ứng xử dành cho công chức, viên chức và người lao động tại các cơ sở y tế Chỉ khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định, cá nhân mới được phép làm hồ sơ xin cấp giấy tờ liên quan.
Điểm a Khoản 1 Điều 24 của Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2009 quy định về chứng chỉ hành nghề Hành vi thuê hoặc mượn chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh được nêu rõ tại điểm d Khoản 7 Điều 38 của Nghị định 117/2020/NĐ-CP.
Hành vi sử dụng chứng chỉ hành nghề không hợp pháp không chỉ vi phạm pháp luật mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng của người bệnh Khi cá nhân thực hiện khám chữa bệnh mà không có chuyên môn phù hợp, hoặc thuê, mượn chứng chỉ của người khác, họ đang đặt người bệnh vào tình huống nguy hiểm Việc cho thuê hoặc mượn chứng chỉ hành nghề theo quy định tại điểm đ Khoản 7 Điều 38 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP cũng không được pháp luật cho phép, dù chưa cấu thành tội phạm Những hành vi này có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, do đó, mức phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng được áp dụng nhằm răn đe và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Bác sĩ Trần Đức Quang, người có chứng chỉ hành nghề chuyên khoa Chẩn đoán hình ảnh, đã bị Thanh tra Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 40 triệu đồng vì vi phạm cho thuê, mượn chứng chỉ hành nghề Ông Quang không làm việc tại Công ty TNHH một thành viên dịch vụ y tế Âu Á, địa chỉ 425 Nguyễn Văn Luông, Phường 12, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh Ngoài việc phạt tiền, ông còn bị tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề trong 6 tháng kể từ ngày 23/9/2020, theo quy định pháp luật.
Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về các hành vi vi phạm liên quan đến việc sử dụng chứng chỉ hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh Những hành vi này không ảnh hưởng đến sức khỏe con người, bao gồm việc một người hành nghề chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật tại hai cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác nhau hoặc làm người phụ trách cho hai khoa lâm sàng trở lên trong cùng một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Một bác sĩ đã bị tước chứng chỉ hành nghề vì cho phòng khám thuê, mượn, vi phạm quy định về trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật Người hành nghề không thể kiêm nhiệm nhiều vị trí trong các cơ sở khám bệnh khác nhau mà không phù hợp với chứng chỉ đã cấp Đặc biệt, việc không có mặt tại cơ sở trong thời gian hoạt động mà không ủy quyền cho người khác là hành vi vi phạm nghiêm trọng Hiện nay, nhiều cơ sở y tế tư nhân cũng đang vi phạm quy định này, dẫn đến nhiều hệ lụy trong quản lý hành nghề y tế.
Ông Từ Huy Cường - Nhà thuốc Hải Châu tại Tân Kỳ Tân Quý, Phường Tân Quý, Quận Tân Phú; Ông Nguyễn Ngọc Thanh - Nhà thuốc Đông Hiền ở 525 Sư Vạn Hạnh, Phường 12, Quận 10; và Bà Trần Thị Vân Trà - Nhà thuốc Trường Chinh tại 443 Trường Chinh, Phường 14, Quận Tân Bình là những trường hợp vi phạm cần được lưu ý.
Nghị định số 117/2020/NĐ-CP đã bổ sung các hành vi xử phạt mới, tạo sự khác biệt so với Nghị định số 176/2013/NĐ-CP, nhằm phù hợp hơn với thực tế tình hình xử phạt hiện nay.