Theo quy định tại khoản 1, Điều 5; khoản 8, Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kháng nghị đối với những hành vi và quyết định của
KHÁNG NGHỊ VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Đối tƣợng và căn cứ kháng nghị
Kháng nghị về THADS là văn bản phản đối của VKSND đối với hoạt động thi hành án của cơ quan THADS, các cá nhân và tổ chức liên quan, nhằm đảm bảo tuân thủ thẩm quyền, trình tự và thủ tục thi hành án Đây là một phần quan trọng trong chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND.
Theo khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) thực hiện quyền kiểm sát hoạt động tư pháp Căn cứ theo Điều 12 Luật Tổ chức VKSND, VKSND có trách nhiệm kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS), các cơ quan, tổ chức, và cá nhân liên quan trong quá trình thi hành án Trong quá trình này, VKSND có quyền kháng nghị các hành vi và quyết định của Thủ trưởng, Chấp hành viên (CHV) CQTHADS nếu có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức Ngoài ra, theo Điều 28 Luật Tổ chức VKSND, VKS có quyền kháng nghị quyết định của Thủ trưởng, CHV CQTHADS và yêu cầu điều chỉnh, sửa đổi hoặc hủy bỏ các quyết định vi phạm pháp luật trong thi hành án.
Theo Điều 34 Quyết định số 810/QĐ-VKSTC-V11, VKSND có quyền kháng nghị đối với các quyết định và hành vi của Thủ trưởng, CHV CQTHADS cùng cấp và cấp dưới, cũng như Thừa phát lại khi phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng Những vi phạm này có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự (THADS).
Theo hướng dẫn số 08/HD-VKSTC ngày 12.1.2021, VKS cần nhanh chóng ban hành kháng nghị và yêu cầu khắc phục vi phạm trong công tác kiểm sát THADS năm 2021 Đặc biệt, VKS phải kịp thời xử lý và báo cáo VKSND cấp trên về các trường hợp kháng nghị không được chấp nhận hoặc chỉ được chấp nhận một phần Đồng thời, VKS cũng cần chú trọng theo dõi, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện kháng nghị cũng như các kết luận kiểm sát trực tiếp.
Theo Điều 2 Quy chế, công tác kiểm sát thi hành án dân sự (THADS) bao gồm việc đảm bảo tuân thủ pháp luật của Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS), và các cá nhân, tổ chức liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, cùng với các quyết định giải quyết phá sản và bản án dân sự của Tòa án nước ngoài đã được công nhận tại Việt Nam Công tác này cũng liên quan đến việc xử lý hình phạt tiền, tịch thu tài sản, và các quyết định dân sự trong bản án hình sự Thêm vào đó, phán quyết của Trọng tài thương mại và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS cũng nằm trong phạm vi kiểm sát Quy định bổ sung về kháng nghị của Viện kiểm sát trong THADS được nêu rõ tại Quyết định số 94/QĐ-VKSTC ngày 22.3.2021, hướng dẫn quy trình và kỹ năng kiểm sát tại CQTHADS và xử lý khiếu nại, tố cáo liên quan.
Phạm vi kháng nghị của Viện Kiểm sát (VKS) trong thi hành án dân sự (THADS) được quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật Thi hành án dân sự (LTHADS), bao gồm các hoạt động như cấp, chuyển giao, giải thích, sửa chữa và bổ sung bản án, quyết định của Tòa án; yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân (CHV) và cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS) cùng cấp, cấp dưới ra quyết định về THA và gửi các quyết định liên quan; đảm bảo thi hành đúng bản án, quyết định; tự kiểm tra việc THA và thông báo kết quả kiểm tra cho VKSND; yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng liên quan; thực hiện kiểm sát hoạt động THADS của CQTHADS và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan; ban hành kết luận kiểm sát; xem xét miễn, giảm nghĩa vụ THA đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước và phát biểu quan điểm của VKSND.
Theo quy định hiện hành, đối tượng kháng nghị trong thi hành án dân sự bao gồm các quyết định và hành vi của Thủ trưởng, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự Việc kháng nghị của Viện kiểm sát dựa trên các quy định của Luật thi hành án dân sự, các văn bản hướng dẫn và Quyết định số 810/QĐ-VKSTC-V11.
Qua kiểm sát việc THA của CQTHADS, CHV về đối tượng, căn cứ kháng nghị, tác giả nhận thấy những t n tại, bất cập như sau:
Thứ nhất, quyết định và hành vi của Thủ trưởng CQTHADS, CHV trong THADS vẫn còn nhiều sai sót, không đúng pháp luật khi thực hiện việc THADS
Các sai sót của Thủ trưởng, CHV CQTHADS phổ biến là:
Một, chậm ra quyết định THA, xác minh điều kiện THA
Theo Điều 36 LTHADS, Thủ trưởng CQTHADS phải ra quyết định thi hành án (THA) trong vòng 05 ngày làm việc kể từ khi nhận được yêu cầu THA Ngoài ra, Thủ trưởng CQTHADS còn có quyền chủ động ra quyết định THA trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ khi nhận được bản án hoặc quyết định liên quan đến phần bản án mà CQTHADS có trách nhiệm thi hành.
Theo quy định pháp luật, Thủ trưởng CQTHADS có trách nhiệm ra quyết định thi hành án (THA), tuy nhiên, trong một số trường hợp, họ đã không thực hiện đúng quy định này Qua việc kiểm sát hồ sơ THA và các nguồn thông tin khác như khiếu nại, tố cáo, Viện Kiểm sát (VKS) đã phát hiện và đưa ra kiến nghị yêu cầu Thủ trưởng CQTHADS thực hiện đầy đủ các quy định liên quan.
VKSND thị xã La Gi đã ban hành kiến nghị số 381/KN-VKS vào ngày 29.8.2018, trong đó xác định vai trò của Chi cục THADS thị xã trong việc thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến thi hành án.
La Gi đã chậm trễ và không thực hiện quyết định phân công Chấp hành viên (CHV) cho ba vụ việc, trong đó có vụ thi hành cấp dưỡng nuôi con của Phan Hữu Phúc tại khu phố 5, Tân An Mặc dù Chi cục THADS đã ra quyết định thi hành án số 645/QĐ-CCTHA vào ngày 25.5.2015, nhưng phải đến ngày 28.11.2017 mới phân công CHV Phạm H ng Ánh, trong khi trước đó CHV H Thị Khánh Huệ đã đảm nhiệm vụ này Tương tự, trong hồ sơ của Nguyễn Văn Lập và Nguyễn Thị Hà tại khu phố 5, Phước Hội, quyết định thi hành án số 232/QĐ-CCTHA được ban hành vào ngày 11.12.2015 nhưng không có quyết định phân công CHV Sự chậm trễ và thiếu sót trong việc ra quyết định phân công như trên đã vi phạm khoản 2 Điều 36 LTHADS.
Ví dụ 2: Kiến nghị số 193/KSTHADS-KN ngày 25.5.2016 của VKSND thị xã La Gi 2
Trong vụ việc này, VKSND thị xã La Gi đã phát hiện sai phạm và kiến nghị:
Từ tháng 12 năm 2015 đến tháng 5 năm 2016, Chi cục Thi hành án dân sự thị xã La Gi đã ban hành 40 quyết định thi hành án, trong đó có 2 quyết định theo đơn và 38 quyết định chủ động Thời gian để ra quyết định thi hành án dao động từ 9 đến 22 ngày Hành vi này của Chi cục đã vi phạm quy định tại Điều 36 Luật Thi hành án dân sự.
Chi cục Thi hành án dân sự thị xã La Gi đã vi phạm quy định tại Điều 36 Luật Thi hành án dân sự (LTHADS) liên quan đến thời hạn và phân công cán bộ thực hiện tổ chức thi hành án trong hai vụ việc nêu trên.
Hai, chậm tiến hành xác minh điều kiện THA
Theo Điều 44 Luật Thi Hành Án Dân Sự, nếu người phải thi hành án không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ trong vòng 10 ngày kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện, thì Chấp hành viên sẽ tiến hành xác minh.
Trong trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, việc xác minh phải được thực hiện ngay lập tức Đối với người phải thi hành án (THA) chưa có điều kiện THA, cơ quan thi hành án (CQTHADS) cần xác minh ít nhất 06 tháng một lần Nếu người phải THA đang chấp hành hình phạt tù với thời gian còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ cư trú mới, thời hạn xác minh sẽ là 01 năm một lần Sau hai lần xác minh mà người phải THA vẫn chưa có điều kiện, CQTHADS phải thông báo bằng văn bản cho người được THA về kết quả xác minh Việc xác minh sẽ được tiến hành lại khi có thông tin mới về điều kiện THA.
Trình tự kháng nghị
Theo Điều 4 Quy chế, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 28 LTCVKSND; các Điều 12, 38, 62, 64, 160, 161 LTHADS
Trình tự kháng nghị của VKS về THA bao g m các bước sau:
Thứ nhất, phát hiện và xác định vi phạm trong THADS
Việc phát hiện và xác định vi phạm trong thi hành án dân sự (THADS) của Viện Kiểm sát (VKS) có thể được thực hiện thông qua việc kiểm sát trực tiếp tại cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS) và các tổ chức liên quan Ngoài ra, VKS cũng có thể kiểm tra các quyết định về thi hành án mà CQTHADS gửi đến, hoặc thông qua việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến THADS.
Theo quy định tại Điều 12, Điều 38 LTHADS, Điều 28 LTCVKSND và Điều 30 Quy chế, các quyết định về thi hành án (THA) của cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS) phải được gửi cho Viện kiểm sát nhân dân (VKS) cùng cấp VKS có quyền yêu cầu các cơ quan và cấp dưới liên quan gửi quyết định và tài liệu liên quan để thực hiện công tác kiểm sát Sau khi nhận quyết định THA, VKS sẽ ghi vào sổ thụ lý và phân công người nghiên cứu Người nghiên cứu có trách nhiệm đối chiếu quyết định với quy định pháp luật, kiểm tra thẩm quyền, thời hạn và thủ tục ban hành Nếu phát hiện vi phạm pháp luật trong các quyết định THA, người nghiên cứu phải ghi rõ vào phiếu kiểm sát và đề xuất phương án xử lý Để phát hiện vi phạm trong THADS, kiểm sát viên (KSV) cần nghiên cứu kỹ nội dung bản án và quyết định cần thi hành, đảm bảo sự phù hợp giữa các quyết định THA và quy định pháp luật về THADS.
Trong quá trình thực hiện hoạt động thi hành án (THA), cần xem xét có hay không các vi phạm pháp luật xảy ra Điều này bao gồm việc xác định nội dung và mức độ vi phạm, hình thức khắc phục hậu quả, cũng như các biện pháp xử lý vi phạm và trách nhiệm của những người liên quan.
Khi kiểm sát hồ sơ thi hành án (THA) và phát hiện vi phạm pháp luật, Kiểm sát viên (KSV) cần lập Phiếu kiểm sát theo mẫu quy định, ghi rõ các vi phạm và quan điểm về biện pháp khắc phục Sau đó, KSV thông báo cho Chấp hành viên (CHV) phụ trách THA về nội dung Phiếu kiểm sát, đồng thời ghi nhận ý kiến của CHV hoặc công chức thụ lý Cuối cùng, KSV báo cáo kết quả kiểm sát hồ sơ và đề xuất xử lý vi phạm để chuẩn bị cho việc xây dựng kết luận.
Hiện nay, việc phát hiện và xác định vi phạm trong thi hành án dân sự (THADS) gặp nhiều bất cập, đặc biệt là trong việc xác định hành vi và quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền liên quan đến vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân Theo quy định, khi Viện Kiểm sát (VKS) phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong THADS, VKS có trách nhiệm kháng nghị Tuy nhiên, vấn đề cần làm rõ là tiêu chí để phân loại vi phạm thành nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng nhằm xác định khi nào VKS nên kháng nghị hoặc kiến nghị.
Theo Điều 5 LTCVKSND, khi có hành vi hoặc quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động tư pháp, VKSND có trách nhiệm kháng nghị Đối với vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng, VKSND sẽ kiến nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục và xử lý nghiêm minh người vi phạm Nếu phát hiện sơ hở trong quản lý, VKSND cũng kiến nghị các biện pháp phòng ngừa vi phạm Các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phải xem xét và trả lời kiến nghị của VKSND theo quy định pháp luật.
Theo Điều 12 khoản 2 LTHADS, VKSND có nhiệm vụ kiểm sát THADS và quyền kiến nghị xem xét các hành vi, quyết định vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng của CQTHADS cùng cấp hoặc cấp dưới, yêu cầu khắc phục vi phạm và xử lý người vi phạm Đồng thời, VKSND cũng kiến nghị các cơ quan, tổ chức liên quan khắc phục sơ hở trong quản lý, nhằm ngăn chặn nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật Theo Điều 35 khoản 2 Quy chế, VKSND sẽ kiến nghị khi phát hiện vi phạm pháp luật ở mức độ ít nghiêm trọng, tình trạng vi phạm lặp lại, hoặc vi phạm nghiêm trọng đã hết thời hạn kháng nghị.
Vào ngày 13 tháng 10 năm 2017, Tòa án nhân dân huyện N đã ban hành quyết định số 43/2017/QĐST-DS, công nhận sự thỏa thuận giữa ông Nguyễn Văn H và bà Phạm Thị Đ Theo đó, hai bên có nghĩa vụ trả cho ông Mai Văn H và bà Trương Thị N số tiền 190.000.000 đồng.
Qua công tác kiểm sát, VKSND huyện N phát hiện một số vi phạm của Chi cục THADS huyện N, có một số một số vi phạm:
Chi cục THADS huyện N đã ra quyết định thi hành án buộc ông Nguyễn Văn H và bà Phạm Thị Đ có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Mai Văn H số tiền 190.000.000 đồng Tuy nhiên, quyết định này không đúng do trong văn bản ủy quyền ngày 14.12.2017 chỉ có ông Mai Văn H được ủy quyền.
Bà Lê Thị S được ủy quyền, trong khi bà Trương Thị N không có đơn yêu cầu thi hành án và cũng không ủy quyền cho bà S Dù vậy, Chi cục Thi hành án dân sự huyện N vẫn ban hành quyết định buộc ông Nguyễn Văn H và bà Phạm Thị Đ phải trả cho ông Mai Văn H số tiền 190.000.000 đồng.
Chi cục THADS huyện N đã ra quyết định cưỡng chế và kê biên tài sản, cụ thể là quyền sử dụng đất đã được đăng ký của ông Nguyễn Văn H và bà Phạm Thị Đ Tuy nhiên, Chi cục không yêu cầu Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện N cung cấp thông tin về tài sản trước khi thực hiện kê biên.
VKSND huyện N đã ra kháng nghị yêu cầu thu hồi quyết định cưỡng chế và kê biên tài sản của Chi cục THAD huyện N do phát hiện các sai phạm.
Với việc ban hành quyết định kháng nghị của VKSND huyện N có hai quan điểm:
Chi cục THADS huyện N quyết định cưỡng chế, kê biên tài sản là quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn H và bà Phạm Thị Đ không vi phạm pháp luật nghiêm trọng và không xâm phạm quyền của đương sự, do đó, quyết định kháng nghị của VKS là không đúng Việc Chi cục THADS thực hiện thi hành án trong trường hợp không có yêu cầu từ đương sự và kê biên quyền sử dụng đất mà không yêu cầu Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cung cấp thông tin trước đó không dẫn đến vi phạm pháp luật nghiêm trọng và chưa gây ra hậu quả.
VKSND huyện Bù Gia Mập đã thực hiện việc kiểm sát trực tiếp đối với công tác thi hành án treo và cải tạo không giam giữ tại UBND xã Phú Văn Điều này nhằm đảm bảo việc thực hiện đúng quy định của pháp luật, cụ thể là theo Điều 31 của Luật Thi hành án dân sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng, quyết định thi hành án (THA) và cưỡng chế kê biên tài sản của ông Nguyễn Văn H và bà Phạm Thị Đ của Chi cục THADS huyện N vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền của đương sự Do đó, việc Viện Kiểm sát (VKS) ra quyết định kháng nghị là hoàn toàn đúng Lý do cho quan điểm này là nội dung quyết định THA phải phù hợp với bản án của Tòa án, đồng thời việc cưỡng chế kê biên tài sản cần phải bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự và tuân thủ đúng thủ tục theo quy định của pháp luật.
GIẢI QUYẾT KHÁNG NGHỊ VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Trả lời kháng nghị của Viện kiểm sát
Kháng nghị về thi hành án dân sự (THADS) là chức năng quan trọng của Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND), nhằm đảm bảo việc thi hành đầy đủ, kịp thời và đúng pháp luật các bản án, quyết định của Tòa án, dù đã có hiệu lực hay chưa Điều này không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước mà còn góp phần vào sự ổn định của hệ thống tư pháp Quy định về việc trả lời kháng nghị của cơ quan thi hành án dân sự được nêu rõ tại Điều 161 Luật thi hành án dân sự (LTHADS).
Với quy định tại Điều 161 LTHADS, tác giả nhận thấy như sau:
Sau khi nhận quyết định kháng nghị, CQTHADS cần gửi phản hồi bằng văn bản cho VKS, đồng thời tiếp thu và thực hiện các biện pháp khắc phục vi phạm theo nội dung kháng nghị Việc này không chỉ giúp CQTHADS và CHV rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mà còn tăng cường tính minh bạch Tuy nhiên, một số Thủ trưởng CQTHADS lại không có văn bản trả lời kháng nghị và không cung cấp lý do cho sự thiếu sót này.
Các kháng nghị của Viện Kiểm sát (VKS) chủ yếu nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả trong việc thực thi quy định pháp luật về kiểm sát và thi hành án dân sự (THADS) Tuy nhiên, các kháng nghị này thường chỉ tập trung vào việc tuân thủ pháp luật của cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS) và chấp hành viên (CHV), mà chưa chú trọng đến sự phối hợp với các cơ quan liên quan như Công an trong cưỡng chế, chính quyền địa phương trong xác minh và cưỡng chế tài sản, cũng như Tòa án trong việc chuyển giao bản án và quyết định Hơn nữa, cần có sự chỉ đạo từ Ban chỉ đạo THADS trong việc giải quyết những vụ việc phức tạp, khó thi hành, nhằm phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Một số kháng nghị của VKS chưa nêu rõ trách nhiệm của Thủ trưởng và CHV CQTHADS trong việc khắc phục vi phạm, chỉ đưa ra trách nhiệm chung mà không đáp ứng yêu cầu kháng nghị về THADS Cụ thể, các kháng nghị này không cung cấp số liệu, không viện dẫn điều luật cụ thể, áp dụng điều luật không chính xác và cập nhật thông tin văn bản pháp luật không kịp thời Yêu cầu của kháng nghị là phải chỉ ra rõ ràng các vi phạm pháp luật dựa trên căn cứ pháp luật, nội dung kháng nghị cần ngắn gọn, súc tích và biện pháp khắc phục phải khả thi.
Từ thực tiễn về kháng nghị, trả lời kháng nghị của VKS như trên, tác giả nhận thấy còn t n tại một số bất cập như sau:
Theo Điều 161 LTHADS, Thủ trưởng CQTHADS có trách nhiệm trả lời kháng nghị của VKSND liên quan đến quyết định và hành vi thi hành án của mình hoặc của CHV thuộc quyền quản lý trong thời hạn quy định Tuy nhiên, Điều 161 không quy định rõ cách xử lý nếu Thủ trưởng CQTHADS không trả lời kháng nghị, dẫn đến việc VKS không có hướng giải quyết cho tình huống này.
Theo quy định tại Điều 165 LTHADS, Thủ trưởng CQTHADS có thể bị xử lý nếu cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc ra quyết định trái pháp luật Các cán bộ thi hành án (CHV) cũng phải chịu trách nhiệm nếu không thực hiện đúng bản án, trì hoãn thi hành án, hoặc áp dụng biện pháp cưỡng chế trái pháp luật, đồng thời có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự nếu vi phạm quy chế đạo đức Trong trường hợp gây thiệt hại, họ cũng phải bồi thường theo quy định của pháp luật Tuy nhiên, quy định này không đề cập đến việc xử lý Thủ trưởng CQTHADS nếu không trả lời kháng nghị của VKSND.
Thứ hai, Thủ trưởng CQTHADS trả lời kháng nghị của VKS nhưng không chấp nhận nội dung kháng nghị, chấp nhận một phần nội dung kháng nghị
Theo Điều 161 LTHADS, nếu Thủ trưởng CQTHADS chấp nhận kháng nghị của VKSND, sẽ thực hiện theo kháng nghị đó Ngược lại, nếu không đồng ý, việc giải quyết sẽ tuân theo quy định tại Điều 161 LTHADS Hiện tại, chưa có quy định nào cho trường hợp Thủ trưởng CQTHADS trả lời kháng nghị của VKS mà không chấp nhận nội dung hoặc chỉ chấp nhận một phần Điều này cũng không được đề cập trong Quyết định số 810/QĐ-VKSTC-V11 và Quyết định số 94/QĐ-VKSTC ngày 22.3.2021 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về quy trình và kỹ năng kiểm sát tại CQTHADS.
Ví dụ 11: VKSND kháng nghị Quyết định THA của Chi cục THADS cùng cấp 14
Ngày 14.02.2020 Tòa án nhân dân huyện Tân Sơn, t nh Phú Thọ chuyển giao
02 quyết định đ nh ch giải quyết vụ án dân sự số: 07/2020/QĐST-DS ngày
14 http://vienkiemsattinhphutho.gov.vn/tin-tuc/VKSND-Huyen-Tan-Son/30080/vksnd-huyen-tan-son-khang- nghi-quyet-dinh-tha-cua-chi-cuc-thads-cung-cap, truy cập lúc 22h ngày 2.7.2021
12.02.2020 và số: 08/2020/QĐST-DS ngày 13.02.2020 cho Chi cục THADS huyện Tân Sơn, t nh Phú Thọ để ra quyết định THA
Ngày 18.02.2020 VKSND huyện Tân Sơn, t nh Phú Thọ nhận được 02 quyết định THA chủ động số: 122, 123 ngày 17 tháng 02 năm 2020 của Chi cục THADS huyện Tân Sơn, sau khi kiểm sát 02 quyết định THA chủ động trên, VKSND huyện Tân Sơn nhận thấy việc ra quyết định THA trên là không đúng quy định của pháp luật Vì hai quyết định đ nh ch giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân huyện Tân Sơn, t nh Phú Thọ chưa có hiệu lực pháp luật, đang trong thời gian có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, nhưng Chi cục THADS huyện Tân sơn đã ra quyết định THA
Ngày 19.02.2020 VKSND huyện Tân Sơn, t nh Phú Thọ đã ban hành kháng nghị 02 quyết định THA chủ động trên của Chi cục THADS huyện Tân Sơn
Thứ ba, kháng nghị của VKS có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nhưng CQTHADS, cơ quan quản lý THA không chấp nhận nội dung kháng nghị
Theo Điều 167 LTHADS, Bộ Tư pháp có trách nhiệm quản lý Nhà nước về THADS, bao gồm việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ, và tổng kết công tác THADS Tuy nhiên, trong một số vụ án, mặc dù VKS có kháng nghị hợp pháp, nhưng CQTHADS không chấp nhận, dẫn đến kháng nghị không có hiệu lực Nếu CQTHADS hoặc CHV có sai sót gây hậu quả, sẽ được xử lý theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước Đây là một trong những bất cập trong quy trình kháng nghị và trả lời kháng nghị về THADS.
Ví dụ 12: Người dân “nhọc nhằn” đi đòi thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật 15
Anh Nguyễn Thế Phong, cư trú tại Bến Vân Đồn, Quận 4, TP.HCM, đã nhiều lần yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS) thực hiện bản án dân sự phúc thẩm số 101/2019/DS-PT của TAND TP.HCM Chi cục THADS Quận 4, TP.HCM đã gửi ba công văn đến Tòa án nhân dân TP.HCM để đề nghị giải thích bản án phúc thẩm này, nhưng không nhận được phản hồi rõ ràng từ Tòa án.
15 https://kiemsat.vn/tp-hcm-nguoi-dan-nhoc-nhan-di-doi-thi-hanh-ban-an-da-co-hieu-luc-phap-luat-61605.html, truy cập lúc 20h ngày 8.7.2021
TP.HCM phúc đáp nhưng Chi cục THADS Quận 4, TP.HCM vẫn chưa thực hiện việc thi hành bản án
Bản án dân sự phúc thẩm số 101/2019/DS-PT ngày 29.01.2019 của TAND TP.HCM quyết định giao căn nhà 147 Bến Vân Đồn cho anh Nguyễn Thế Phong và căn nhà 139 Bến Vân Đồn cho chị Lưu Thị Hương Nga Chị Nga cùng các đồng thừa kế của bà Võ Thị Chiêm có trách nhiệm trả cho anh Phong số tiền chênh lệch 5,138 tỷ đồng và lãi chậm trả Tuy nhiên, việc thi hành bản án gặp khó khăn do chị Nga không hợp tác, dẫn đến chậm trễ trong quá trình thi hành án, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan.
Thứ tư, đối với các vi phạm về việc thi hành phần tài sản nộp vào ngân sách Nhà nước
Chương V của LTHADS quy định về việc thi hành các quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước và tiêu hủy tài sản trong bản án hình sự Theo Điều 124, cơ quan thi hành án (CQTHADS) phải thông báo và giao vật chứng, tài sản tạm giữ cho cơ quan tài chính trong vòng 10 ngày kể từ ngày ra quyết định thi hành án Nếu sau khi thi hành quyết định tịch thu, phát hiện sai lầm và có quyết định hủy bỏ, CQTHADS cần phối hợp với cơ quan tài chính để hoàn trả số tiền đã nộp vào ngân sách Nhà nước theo quy định pháp luật.
Theo Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, khi cơ quan tài chính có thẩm quyền ủy quyền xử lý tài sản bị tịch thu, cơ quan thi hành án (CQTHADS) cùng cấp sẽ tiến hành xử lý và thực hiện thủ tục sung quỹ Nhà nước Sau khi trừ các chi phí xử lý theo quy định pháp luật, quyền sở hữu của Nhà nước đối với tài sản sẽ được xác lập, đồng thời CQTHADS sẽ quản lý và xử lý tài sản theo quy định.
Vấn đề quan trọng trong việc thi hành các khoản nộp ngân sách Nhà nước, như tiền án phí và tài sản tịch thu sung quỹ, là liệu Viện Kiểm sát có cần kháng nghị để yêu cầu Thủ trưởng và cơ quan hữu quan thực hiện việc thu hồi hay không.
Theo Điều 36 LTHADS, Thủ trưởng CQTHADS có trách nhiệm ra quyết định thi hành án liên quan đến hình phạt tiền, truy thu tài sản bất chính và các khoản thu khác cho Nhà nước Trong trường hợp cơ quan, tổ chức vi phạm nhưng số tiền nhỏ, Thủ trưởng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thi hành Nếu không ra quyết định hoặc chậm thi hành, Viện Kiểm sát có quyền xác định đây là vi phạm pháp luật nghiêm trọng theo Điều 5 LTCVKSND để thực hiện kháng nghị hoặc kiến nghị.
Chế tài trong kháng nghị về thi hành án dân sự
Chế tài là phần thiết yếu của quy phạm pháp luật, xác định trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm Chế tài được phân loại thành nhiều loại như hành chính, dân sự, hình sự, tùy thuộc vào khách thể, tính chất, thiệt hại và mục đích Đây là biện pháp mà Nhà nước áp dụng để điều chỉnh quan hệ pháp luật khi các chủ thể không tuân thủ các quy tắc xử sự Chế tài mang lại hậu quả pháp lý bất lợi cho người vi phạm, đồng thời xác định trách nhiệm pháp lý của họ Trong kháng nghị về thi hành án dân sự (THADS), chế tài cũng thuộc loại chế tài chung, với đặc thù là biện pháp mà Nhà nước tác động vào mối quan hệ giữa Viện Kiểm sát và Thủ trưởng, cũng như cơ quan thi hành án trong việc thực hiện kháng nghị.
Theo Điều 20 và Điều 165 của Luật Thi hành án dân sự (LTHADS), Chấp hành viên (CHV) phải tuân thủ pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Nếu Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cố ý không ban hành quyết định thi hành án hoặc ra quyết định trái pháp luật, hoặc nếu CHV không thi hành đúng bản án, trì hoãn thi hành án, áp dụng biện pháp cưỡng chế trái pháp luật, thì sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự Ngoài ra, nếu hành vi vi phạm gây thiệt hại, CHV sẽ phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 65 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, CHV có thể bị cách chức nếu vi phạm quy định pháp luật trong quá trình tổ chức THA, mà chưa đến mức bị buộc thôi việc hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng vẫn cần áp dụng hình thức kỷ luật cách chức do những vi phạm khác.
Theo Điều 72 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, miễn nhiệm, cho từ chức, giáng chức và cách chức đối với Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục THADS; Chi cục trưởng và Phó Chi cục trưởng Chi cục THADS, theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Theo Điều 3 Thông tư liên tịch 17/2015/TTLT-BTP-BQP, các văn bản xác định hành vi trái pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự (THADS) bao gồm quyết định thu hồi, sửa đổi, bổ sung các quyết định trái pháp luật, quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo, và kết luận thanh tra Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong THADS được quy định tại Điều 6 của thông tư này Ngoài ra, Điều 12 Thông tư liên tịch 16/2015/TTLT-BTP-BQP quy định căn cứ theo dõi hoạt động giải quyết bồi thường, thẩm định cấp kinh phí, chi trả tiền bồi thường và xem xét trách nhiệm hoàn trả.
Theo Điều 99 LTCVKSND, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của VKSND sẽ bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào tính chất và mức độ vi phạm pháp luật, kỷ luật Tương tự, quân nhân, công chức, viên chức và người lao động của VKS quân sự cũng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật và các quy định liên quan của VKSND và Bộ Quốc phòng.
Theo Điều 89 LTCVKSND, KSV sẽ bị cách chức tự động khi bị kết tội bởi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật Ngoài ra, KSV cũng có thể bị cách chức do vi phạm trong quá trình kiểm sát hoạt động tư pháp, vi phạm các quy định pháp luật về hành vi của cán bộ, công chức, hoặc vi phạm phẩm chất đạo đức và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Theo Điều 1, khoản 2 của Quy định xử lý kỷ luật trong ngành Kiểm sát nhân dân (Quyết định số 183/QĐ-VKSTC-T1, ngày 04.4.2016), nếu có vi phạm chưa được quy định, việc xử lý sẽ dựa vào các quy định liên quan của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức, Bộ luật lao động và hướng dẫn thi hành để đảm bảo tính phù hợp.
Theo Điều 21 Quy định về xử lý kỷ luật trong ngành Kiểm sát nhân dân, người vi phạm nghiêm trọng có thể bị xử lý kỷ luật bằng hình thức khiển trách nếu vi phạm quy định về xây dựng hồ sơ kiểm sát THADS hoặc các quy định khác của pháp luật và ngành Nếu có hành vi vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân không báo cáo vi phạm trong quá trình kiểm sát THADS, người đó có thể bị cảnh cáo hoặc hạ bậc lương Đặc biệt, nếu vi phạm gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, hình thức xử lý có thể là giáng chức, cách chức hoặc buộc thôi việc.
Dựa trên các quy định về chế tài trong pháp luật thi hành án dân sự (THADS) và pháp luật của Viện Kiểm sát (VKS), tác giả nhận thấy rằng việc kháng nghị và giải quyết kháng nghị liên quan đến THADS cần được thực hiện một cách chặt chẽ và hiệu quả để bảo đảm tính công bằng và minh bạch trong quá trình thi hành án.
Chế tài trong kháng nghị về thi hành án dân sự (THADS) hiện chưa được pháp luật quy định một cách chi tiết và cụ thể Điều này dẫn đến việc thiếu sự lượng hóa trong các yêu cầu và nội dung kháng nghị Ngoài ra, phạm vi quy định về các hành vi bị xử lý vẫn còn mơ hồ và mang tính mô tả, đặc biệt trong lĩnh vực Kiểm sát.
Chế tài kháng nghị trong thi hành án dân sự được quy định chủ yếu tại Điều 3 Thông tư liên tịch 17/2015/TTLT-BTP-BQP, liên quan đến trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án.
Chế tài trong kháng nghị về thi hành án dân sự (THADS) theo luật Viện Kiểm sát chưa được quy định chi tiết về nội dung, phạm vi và hình thức xử lý Điều này đặt ra câu hỏi về mức độ vi phạm và các vấn đề cụ thể nào sẽ bị xử lý khi thực hiện kháng nghị trong lĩnh vực THADS.
Dựa trên những nhận xét và kinh nghiệm thực tiễn trong việc kiểm sát thi hành án dân sự (THADS), tác giả cho rằng cần có quy định cụ thể về phạm vi, nội dung và các chủ thể chịu chế tài trong kháng nghị liên quan đến THADS.
Thứ nhất, chế tài đối với Thủ trưởng CQTHADS, CHV
Theo Điều 161 LTHADS, Thủ trưởng CQTHADS có trách nhiệm trả lời kháng nghị của VKSND sau khi nhận được Tuy nhiên, thực tế cho thấy CQTHADS không thực hiện việc này, điều này cho thấy sự thiếu sót trong quy định hiện hành Ngoài ra, việc Thủ trưởng CQTHADS trả lời kháng nghị của VKS nhưng không chấp nhận hoặc chỉ chấp nhận một phần nội dung kháng nghị cũng chưa được quy định rõ ràng, dẫn đến những sai sót trong quá trình xử lý kháng nghị.