Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống
1
/ 18 trang
THÔNG TIN TÀI LIỆU
Thông tin cơ bản
Định dạng
Số trang
18
Dung lượng
281,68 KB
Nội dung
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA NGỮ VĂN BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC: Khuynh hướng văn học loại hình tác giả Văn học trung đại Việt Nam CHỦ ĐỀ 2: Tư tưởng “trung quân quốc” văn học trung đại Việt Nam SINH VIÊN THỰC HIỆN: VŨ HOÀI LINH MSSV: 705601235 LỚP: CLCK70 – STT 17 Hà Nội, tháng 12 năm 2021 I Đặt vấn đề Nhìn lịch sử văn học, nói văn học trung đại "đặt dấu chân đầu tiên", đánh dấu mở đầu văn học viết Việt Nam Trải qua gần mười kỉ, văn học trung đại đồng hành với thực dân tộc, giữ địa vị quan trọng việc hình thành, kết tinh truyền thống quý báu ông cha Đọc tác phẩm văn học trung đại, ta nghe bên âm vang lịng u nước, ý chí tâm đánh đuổi ngoại xâm qua văn thơ Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, ta thấm thía cảm hứng qua thơ viết thái nhân tình thơ Nguyễn Bỉnh khiêm Có thể nói, nội dung văn học trung đại phong phú đa dạng, khu vườn với đủ sắc thái mà người đọc dạo chơi không khỏi trầm trồ Trong 'khu vườn" ấy, ta thấy bật hoa tư tưởng trung quân quốc - nội dung lớn văn học thời kì trung đại Đây vấn đề lớn cần nghiên cứu phân tích sâu II Nội dung tư tưởng trung quân quốc văn học trung đại Việt Nam Những khái niệm liên quan 1.1 Ái quốc Ái quốc tương ứng với khái niệm yêu nước “Yêu nước yêu điều tưởng tượng Nhưng tưởng tượng có định hướng, xuất phát từ ý đồ trị trình độ nhận thức định Nói cách khác, yêu nước kiến tạo tảng điều kiện văn hoá lịch sử định” (Nguyễn Hưng Quốc) Cảm hứng yêu nước liên hệ mật thiết với quan niệm nước thời trung đại: nước gắn liền với triều đại, với đế vương, yêu nước đồng thời trung quân, tôn quân Nói cách khác, đặc trưng cảm hứng yêu nước thời trung đại trung quân quốc Tuy nhiên, quan niệm nước khơng bất biến mà không ngừng mở rộng qua giai đoạn lịch sử: nước vua, triều đại, lãnh thổ; nước vua, văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử; nước vua, triều đại, lãnh thổ, văn hiến, phong tục, kinh tế, quân sự, ngoại giao… Bởi vậy, tìm hiểu tư tưởng “trung quân quốc”, cần liên hệ mở rộng trung quân với yếu tố hình thành quốc gia lại 1.2 Trung quân Cũng cần lí giải kĩ trung quân Trung quân tương ứng với trung với vua Tư tưởng có nguồn gốc sâu xa từ Nho học Khổng Tử Trong Hán ngữ, trước thời Khổng Tử, khái niệm Trung [忠] để đức tính đem hết lịng thành thật xử với người Về sau, Khổng Tử mượn nét nghĩa có trước gia thêm ý nghĩa, biến khái niệm Trung để nói phẩm chất dốc lịng, hết lịng bề tơi với Thiên tử (con trời) Mà Thiên tử trời bổ xuống, bậc "chân long thiên tử, cửu ngũ chí tơn" đại diện cho quốc gia; “trung quân quốc” đời từ Cần nhấn mạnh khái niệm Trung Nho học thời Trung có điều kiện Bề trung với vua “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” (“Vua vua, tơi tơi, cha cha, con”) Khổng Tử không chủ trương quan niệm “ngu trung” mà cho thần tử lựa chọn trung thành với minh quân mà không trung thành với hôn quân Mối quan hệ bề vua lúc mối quan hệ hai chiều Vua phải hành xử đạo bề tơi theo giúp, ngược lại vua ngu muội, không lo quốc gia đại sự, khơng chăm lo đời sống dân chúng bầy không trung Mạnh Tử làm rõ mối quan hệ này: “Quân chi thị thần thủ túc, tắc thần thị quân phúc tâm; quân chi thị thần khuyển mã, tắc thần thị quân quốc nhân; quân chi thị thần thổ giới, tắc thần thị quân khấu thù” (“Vua coi bề tay chân, bề tơi coi vua gan ruột; vua coi bề tơi chó ngựa, bề coi vua kẻ qua đường; vua coi bề tơi bùn rác, bề tơi coi vua giặc thù”) 1.3 Trung quân quốc Như vậy, lí giải “trung quân quốc” trung với vua yêu nước Nếu hiểu mối quan hệ quân quốc song hành, tương tự Trung với vua yêu nước, yêu nước trung với vua Tư tưởng “trung quân quốc” Việt Nam 2.1 Quan điểm nhà Nho Việt Nam tư tưởng “trung quân” Sau Nho giáo xâm nhập vào Việt Nam, nhiệm vụ để gia cố kéo dài cai trị quân chủ, nên phẩm chất “trung quân” đề cao đáng lưu ý Tuy nhiên, quan điểm “trung quân” nước ta tiệm cận với quan điểm Nho gia Tiên Tần không áp đặt, tuyệt đối Nho gia thời Tống Hán Tư tưởng đặt mối quan hệ quân – thân (vua – tôi), gồm đạo làm vua đạo bề Đạo làm vua phải yêu thương, chăm lo cho dân, lo cho an nguy quốc gia, dân tộc Đạo làm vua phải lấy dân làm gốc “dân vi bản” Đạo làm vua phải quý trọng, thương yêu nhân dân “dân vi quý” phải thấy sức mạnh nhân dân Nguyễn Trãi nói “Lật thuyền biết sức dân mạnh nước…” Cịn đạo bề tơi phải trung thành, tận tụy với nhà vua; phải thể ý thức, trách nhiệm đời, với dân, với nước; đặc biệt sẵn sàng xả thân, hi sinh nước vận nước lâm nguy Mối quan hệ có vai trị quan trọng liên quan đến hưng thịnh, an nguy, suy vong trị loạn quốc gia phong kiến Khi vua bầy tơi có chung lí tưởng, dốc lịng dân nước xã tắc thái bình, thịnh trị Chữ Trung không đứng riêng lẻ mà phải gắn với dân, với nước “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân trọng cả, xã tắc đứng đằng sau, vua nhẹ hơn” Nếu lợi ích vua dân mâu thuẫn với mà bề biết nghiêng theo lẽ phải, bảo vệ no ấm cho dân gọi “minh trung” Ngược lại vua ăn chơi, sa đọa, bóc lột người dân kiệt quệ “vua quỷ”, “vua lợn” nhà Nho Việt Nam cho bề tơi không thiết phải trung 2.2 Tư tưởng “trung quân quốc” hữu, tư tưởng chủ lưu cảm hứng yêu nước trung đại Sở dĩ tư tưởng “trung quân quốc” hữu, tư tưởng chủ lưu cảm hứng yêu nước trung đại chi phối ý thức hệ phong kiến Ảnh hưởng từ phương Bắc, người trung đại cho vua tối cao, địa vị vua cao người khác Vua trời, người thi hành điều trời bảo: “Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết”, đồng thời vua người liên kết lịng dân với trời cao, trung với vua thuận theo lẽ trời, với Thiên đạo Nếu phục vụ vua niềm vinh hạnh lớn lao; chí, hành động hi sinh thân vua hi sinh cao đẹp đáng ngợi ca Những biểu tư tưởng “trung quân quốc” văn học trung đại Việt Nam Tư tưởng “trung quân quốc” tùy vào thời kì, giai đoạn, tác gia khác mà có in dấu đậm nhạt văn học trung đại Việt Nam Tìm hiểu tư tưởng văn học trung đại, tức tìm giai đoạn văn học từ khoảng kỷ X đến cuối kỷ XIX với tác phẩm cụ thể 3.1 Tư tưởng “trung quân quốc” văn học trung đại từ kỉ X đến cuối kỉ XIV * Bối cảnh lịch sử - xã hội: Năm 938, chiến thắng Ngơ Quyền dịng Bạch Đằng lịch sử mở thời kì độc lập, tự chủ nhà nước phong kiến Đó sở quan trọng để khôi phục xây dựng nhà nước, khôi phục xây dựng văn hiến dân tộc, có văn học Đồng thời, thời kì dân tộc ta phải đối mặt với chiến tranh chống quân xâm lược Cuộc chiến tranh chống quân Tống kỉ XI, kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên kỉ XIII; chiến tích hào hùng, oanh liệt làm nên thời kì lịch sử lẫy lừng Âm hưởng chủ đạo văn học giai đoạn âm hưởng hào hùng Chế độ phong kiến lúc phát triển thịnh trị, vua quan biết chăm lo cho dân chúng nên “trung quân” thống với “ái quốc” * Biểu hiện: Ngay từ thời Lí, ta thấy dấu ấn tư tưởng “trung quân quốc” văn học “Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” Có nhiều yếu tố góp phần hình thành đất nước; thơ Thần tương truyền Lý Thường Kiệt, yếu tố quan trọng để nước Nam sánh ngang với triều đại phong kiến phương Bắc có “đế” (vua) Chữ “cư” biểu thị rõ mối quan hệ nước vua “cư” khơng có nghĩa mà cịn nhấn mạnh chiếm hữu, cai quản vua nước Nếu hiểu thế, thơ không khẳng định đanh thép, lĩnh, ý thức mạnh mẽ chủ quyền lãnh thổ mà cịn gói tư tưởng “trung quân quốc” tác giả Do có lịng Trung với vua nên người viết mở đầu thơ khẳng định nịch: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” Nếu Trung Hoa có hồng đế nước ta khơng thiếu vị vua anh minh, văn võ song toàn, yêu nước thương dân Dùng từ “đế” câu thơ thay cho từ “vương” dụng ý nhằm khẳng định, bảo vệ tối cao người đứng đầu đất nước Chỉ hồng đế lĩnh vững vàng, chủ quyền đất nước toàn vẹn, người dân an cư lạc nghiệp, không bị kẻ ngoại lai quấy phá Với giọng văn mạnh mẽ, lí lẽ sắc sảo; người sáng tác gửi vào thơ lòng trung thành với minh quân tình yêu nước thương dân nồng nàn, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ vua, bảo vệ dân chúng Một danh tướng khác thời Trần Phạm Ngũ Lão, người có công lớn làm nên thắng lợi hai kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai (1285) lần thứ ba (1288), giống bao bậc anh hùng quân tử đương thời khác, ông mang lịng trung qn quốc chí làm trai “Làm trai đứng trời đất, phải có danh với núi sơng” (Chí làm trai - Nguyễn Cơng Trứ), thể rõ thơ “Thuật hoài”: “Hồnh sóc giang sơn cáp kỷ thu, Tam qn tỳ hổ khí thơn Ngưu Nam nhi vị liễu cơng danh trái, Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu” (Thuật hồi – Phạm Ngũ Lão) Nếu hai dòng thơ đầu tập trung khắc họa tượng đài người lính đội qn Sát Thát, hai dịng thơ sau mang âm hưởng thâm trầm, da diết nỗi lòng danh tướng muốn biểu lộ Lấy Vũ hầu Gia Cát Lượng – vị đại quân sư lịch sử làm gương sáng, Phạm Ngũ Lão hổ thẹn ơng thấy chưa đủ tài trí Gia Cát Lượng chưa lập nhiều chiến công hiển hách Dù cho thực tế, Phạm Ngũ Lão làm trịn bổn phận bầy tơi chủ tướng mình, rèn cặp Trần Quốc Tuấn, ông biểu lộ tài quân có, lập nhiều chiến cơng “Thốt Hoan phải bạt vía đến nỡi huy qn sang xâm lược Đại Việt lần thứ ba, chạm trán với Phạm Ngũ Lão rụng rời tay chân, lo bảo tồn tính mạng Uy danh Phạm Ngũ Lão khiến kẻ thù khiếp sợ, khâm phục Chúng gọi ơng viên hổ tướng họ Phạm” (trích từ “Những danh tướng chống ngoại xâm thời Trần”) Suy nghĩ vị tướng tài thực tế: Nếu chưa thể dẹp yên loạn lạc người dân chưa hưởng thái bình, ơng chưa trả nợ cơng danh, tức lòng trung quân quốc chưa tỏ tường Nỗi thẹn Phạm Ngũ Lão tôn lên nhân cách ông – người tài năng, trung thành với thời đại Đằng sau nỗi thẹn khát vọng tận trung báo quốc, khát vọng lập cơng, cống hiến cho vua cho nước Bài thơ không tư tưởng riêng Phạm Ngũ Lão mà thể chung chí lớn tâm cao người thời đại Đông A Nhắc đến tư tưởng trung quân quốc văn học thời đại Đơng A, khơng thể khơng nhắc tới văn luận tiếng “Hịch tướng sĩ” Trần Quốc Tuấn Đây tác phẩm kết tinh cao độ lí tưởng trung quân – quốc Trước hết, Trần Quốc Tuấn nêu cao gương bậc trung thần nghĩa sĩ hi sinh thân lịng trung “Ta thường nghe: Kỉ Tín đem chết thay, cứu cho Cao Ðế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước Kính Ðức chàng tuổi trẻ, thân phị Thái Tơng khỏi vịng vây Thái Sung; Cảo Khanh bầy xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc”.Cách nêu gương khơi dậy lòng trung quân, niềm quốc; đồng thời khéo léo nhắc nhở trách nhiệm, nghĩa vụ bậc nam nhi thời chiến loạn Trần Quốc Tuấn nhìn nhận tư tưởng mối quan hệ hai chiều Nêu mối ân tình tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn khích lệ ý thức trách nhiệm nghĩa vụ người lẽ vua tơi Đồng thời, ơng cịn hậu tai hại khôn lường tướng sĩ sa vào ăn chơi hưởng lạc: thái ấp, bổng lộc khơng cịn; gia quyến, vợ khốn cùng, tan nát; xã tắc, tổ tông bị giày xéo; danh ô nhục; chủ tướng, riêng chung,… tất “đau xót biết chừng nào”, mặt khác vẽ viễn cảnh chiến đấu thắng lợi chung riêng “mãi vững bền”, “đời đời hưởng thụ”, “không bị mai một”, “sử sách lưu thơm”,… Ông chứng minh người gắn liền với thua chiến đấu, lợi ích thiết thân người gắn liền với thành bại đất nước; để bảo vệ quyền sống phải ủng hộ người lãnh đạo Nhà nước lúc Chính nhờ tư tưởng ấy, nhà Trần tạo nên kì tích cơng đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc Vua tơi nhà Trần đồng tâm trí ba lần đánh tan quân xâm lược Mông - Nguyên * Tiểu kết: Có thể coi thời kì Lí – Trần thời kì phát triển lên chế độ phong kiến Hiếm có triều đại lịch sử Việt Nam, quan hệ vua lại bền chặt, khăng khít vậy, đặc biệt thời Trần Trần Thánh Tông bảo tôn thất “Ta khanh đồng bào ruột thịt, lo lo, vui vui, khanh nên lấy câu nói mà truyền cho cháu để nhớ lâu đừng quên, phúc muôn năm tông miếu xã tắc vậy” Mặc dù giai đoạn cuối thời đại có vị vua “tài hèn đức mọn”, nhiên nhìn chung từ kỉ X đến cuối kỉ XIV, vua Lí, vua Trần lịng dân, quan thần biết lo nghĩ cho dân chúng Do vậy, trung quân lúc yêu nước 3.2 Tư tưởng “trung quân quốc” văn học trung đại từ kỉ XV đến hết kỉ XVII * Bối cảnh lịch sử - xã hội: Thế kỉ XV nối tiếp truyền thống, chiến tích hào hùng kỉ trước Dân tộc ta lập nên kì tích oanh liệt kháng chiến chống giặc Minh xâm lược Thế kỉ thứ XV thời kì hưng thịnh chế độ phong kiến Việt Nam Nhưng bước sang kỉ XVI, chế độ phong kiến bắt đầu xuất lỗ hổng, tạo khủng hoảng dẫn đến cảnh nội chiến Tuy nhiên nhìn chung tình hình đất nước ổn định Âm hưởng chủ đạo giai đoạn âm hưởng ngợi ca truyền thống lịch sử, chiến cơng thời đại, văn hóa, người Đại Việt Sang đến giai đoạn này, tư tưởng “trung quân quốc” giáo lí cốt yếu bắt đầu có dấu hiệu khủng hoảng, tách biệt dần (dù mơ hồ) tác giả * Biểu hiện: Thế kỉ XV bật với tên tuổi Nguyễn Trãi, nhà văn hóa xuất sắc Việt Nam tư cách anh hùng dân tộc, nhà văn, nhà tư tưởng, nhà trị quan chức, nhà ngoại giao, nhà sử học địa lý học Suốt đời Nguyễn Trãi làm việc với tinh thần nhập có trách nhiệm, ln giữ lịng trung thành, trắng với vua, để ý đến nhân dân, lo điều lo thiên hạ (Thương sinh niệm độc tiên ưu) Ở Nguyễn Trãi, ta thấy tư tưởng “trung quân quốc” thể đa dạng phong phú Khi khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi, Nguyễn Trãi thể lịng trung qn quốc so sánh Lê Lợi với vĩ nhân Trung Quốc: “Tuy nhiên Hán Cao Tổ quy mô xa rộng, giống thịnh trị vua ta ngày Còn Câu Tiễn có chí phục thù đáng kể, sánh vua ta muôn tày Đến như: Thần Vũ không giết, đức lớn hiếu sinh, Nghĩ kế quốc gia trường cửu; thả mười vạn hàng binh, Vậy đức thịnh vua ta, Hán Cao Tổ sánh kịp? Có lẽ nhị đế tam vương mà lừng danh” Đánh đúng, có cân nhắc, có lý do, khơng tự ti mà khơng phóng đại Khi làm quan, Nguyễn Trãi nhấn mạnh người quân tử phải hết lòng trung thành với nhà vua, với Tổ quốc, phải thẳng đem lời đạo đức để can gián vua nên dua nịnh, làm điều gian tà hại nước, hại dân: “Thờ cha lấy thảo làm phép, Rập chúa cần” (Bảo kính cảnh giới – 57) Ngay lúc ông phải lui ghét ghen lực hắc ám, ơng canh cánh bên lịng niềm ưu Tấm lòng Nguyễn Trãi đêm ngày cuồn cuộn, khắc khoải ước muốn phò vua giúp nước chế độ “vua sáng hiền” Nguyễn Trái ẩn đâu phải hoàn toàn đoạn tuyệt cắt bỏ với sống bên ngồi, với nghĩa vua tơi “Bui có lòng trung lẫn hiểu, Mài khuyết, nhuộm chẳng đen” (Thuật hứng – bà 24) “Bui có lịng nỡ trễ, Đạo làm với đạo làm tôi” (Ngơn chí - 1) Tấm lịng Nguyễn Trãi không lo lắng, bất mãn chuyện tầm thường chức vị, hoạn lộ cá nhân, mà nỗi buồn nghiệp chưa xong, chưa trả ơn nghĩa với vua, chưa giúp dân thái bình, n ổn Lúc ơng nghĩ đến tình cảnh dân lành, xã hội rối ren, khao khát đến cháy bỏng phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước Nhưng cảnh đời ông đành bất lực quay sống âm thầm, làm bạn với thiên nhiên, cỏ cây, với trăng hoa giữ trọn khí tiết cao, tâm hồn sáng “Bình sinh độc bão tiên ưu niệm, Tọa ủng hàn khâm bất miên” (“Riêng ta mang nỗi “tiên ưu” mãi, Chăn lạnh khoanh ngồi thức sáng đêm”) (Cảm xúc đỗ thuyền cửa biển – 55) Ơng khơng nói đến lịng căm thù giặc; khơng nói đến điều dự tính làm Những ý đồ lời nên làm cho xúc động Chúng ta thấm thía điều lòng yêu nước vị anh hùng bắt nguồn từ tình cảm thơng thường khác bắt nguồn từ giáo lý trung quân nhà nho: Nguyễn Trãi yêu nước yêu làng xóm, quê hương, căm thù giặc giết hại bà thân thích Ơng trung thành trung thành với nhân dân phải chịu hình phạt dã man chưa thấy, trung thành với nhà Hồ, triều đại ông vừa phục vụ triều đại gây chuyện phiền hà “để đến nỡi nhân tâm ốn phản” (Bình Ngơ đại cáo) trung thành với nhà Trần triều đại ơng có liên hệ huyết thống, lại “bất đức” (Chiếu cấm đại thần, tổng quản quan viên, sảnh, cục tham lam, lười biếng) Nếu kỉ XV ghi dấu mạnh mẽ tên tuổi Nguyễn Trãi; sau ta có Nguyễn Bỉnh Khiêm – “vàng mười cảnh đời đen bạc xã hội phong kiến Việt Nam kỉ XVI” Chính hồn cảnh loạn lạc, khủng hoảng, tư tưởng “trung qn” khơng cịn hồn tồn đồng với “ái quốc” Cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm trải dài 95 năm, ông thực làm quan năm Ông từ bỏ chốn quan trường sau xin xử chém 18 quan lộng thần không thành “Niềm xưa trung thề chẳng phụ/ Cảnh cũ điền viên thú quen” (Lịng vơ sự) Ơng nhiều lần bày tỏ quan điểm lẽ vua tơi: “Vọng kim lưỡng tận khắc nan đạo, Chính tu dân duyệt thâm” (Mong mỏi ngày vua bầy tơi hiểu rõ khó khăn mình, Nền thường xun tu chỉnh dân chúng mừng rỡ sâu sắc) “Đãn nguyện quân tâm hoằng đức trạch, Ấp tư bỉ ủy quần tình” (Chỉ cầu mong nhà vua mở rộng ơn đức, Đem nước giếng tưới mát, thỏa lòng chúng dân) Nguyễn Bỉnh Khiêm thể lịng minh trung với vua, rộng với thời đại, dân tộc Ơng nhận thức mâu thuẫn lợi ích nhà vua với nhân dân, sung sướng an nhàn vua tạo khổ đau, nghèo khó cho dân Ơng khơng trung thành mù qng với vua, nhắm mắt làm ngơ nên khuyên bảo, nhắc vua quan – người đứng đầu quốc gia phải nhớ lấy đạo trách nhiệm Việc làm can đảm cho ta thấy khơng lịng mà cịn cốt cách, phẩm chất Bạch Vân cư sĩ Ta thấy lời thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không đơn giản để đạo vua đạo bề tôi; mà nhấn mạnh mục đích việc làm Suy cho cùng, việc vua quan làm phải gắng sức để giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, để thỏa mong muốn dân chúng Điều phải khẳng định Nguyễn Bỉnh Khiêm không rời bỏ “chí” mình, dù có rời xa chốn quan trường lịng ơng ln canh cánh, suốt đời tận tụy cho lý tưởng trung quân – quốc Là nhà Nho Nho học có dấu hiệu khủng hoảng, Nguyễn Bỉnh Khiêm có tư tưởng khơng đồng hồn tồn “trung qn” với “ái quốc” Tư tưởng ông trung thành với vua sở yêu nước, đưa lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng đầu Đó điều khác biệt tư tưởng trung quân ông với tư tưởng trung quân Nho giáo Trung Quốc lúc * Tiểu kết: Sau tháng ngày ngắn ngủi sống âm hưởng hào hùng kì tích chống giặc Minh, dấu hiệu khủng hoảng chế độ phong kiến Việt Nam khiến tư tưởng “trung quân quốc” có khác biệt so với thời kì trước Tư tưởng trung quân lúc trung quân có điều kiện, mặt nhà Nho trung thành với bậc minh quân yêu nước thương dân, mặt khác với hôn quân bạo chúa ưa lời ngon bọn gian thần khuyên bảo, mong muốn vua quan thức tỉnh thiên chức với dân chúng, khơng hưởng lạc mà qn gốc đất nước – nhân dân Cần khẳng định lời khun răn khơng ngược với đạo lí chữ Trung, hành động bất trung, lộng quyền kẻ nịnh thần nói Phải người có lĩnh, có trái tim nhiệt huyết, hết lòng tận trung với vua, với nước; nhà thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm sẵn sàng lên tiếng nhân dân đau khổ, sẵn sàng trở lại quê hương để giữ trọn cốt cách cao 3.3 Tư tưởng “trung quân quốc” văn học trung đại từ kỉ XVII đến cuối kì XIX * Bối cảnh lịch sử - xã hội: Chế độ phong kiến Việt Nam từ đỉnh cao thịnh trị kỉ XV trượt xuống kỉ XVIII Đến nửa đầu kỉ XIX, khủng hoảng, suy vi, loạn lạc, cảnh nội chiến diễn liên miên Những bão táp phong trào khởi nghĩa nông dân, sống nhân dân cực, lầm than, điêu linh; bối cảnh thực để chủ nghĩa yêu nước lắng xuống với âm điệu thiết tha Nửa sau kỉ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam; nhà Nguyễn nhu nhược để nước vào tay giặc * Biểu hiện: Thời kì lịch sử đầy phức tạp, rối ren chi phối tư tưởng “trung quân quốc” cách sâu sắc “Trung quân quốc” khơng cịn gắn chặt với hệ tư tưởng Nho giáo dần khủng hoảng, vị so với giai đoạn trước Trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, kê đơn thuốc cho tử Trịnh Cán, Lê Hữu Trác bày tỏ băn khoăn việc chữa khỏi bệnh cho tử dùng phương pháp trì hỗn, danh lợi ràng buộc lương tâm người thầy thuốc, đạo "trung" kẻ bề tơi với lịng ham "về núi" kẻ sĩ thời loạn Tấm lòng trung quân vị lương y làm ngời sáng ông lựa chọn kê đơn thuốc để chữa trị khỏi bệnh tử “Cha ơng đời đời chịu ơn nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp lịng trung cha ơng được” Trọng Tựa Y tơng tâm tĩnh, ơng nhấn mạnh “Sách thuốc làm để dạy chữa bệnh, song bao qt cơng trình phị vua, giúp nước” Như vậy, bên cạnh tài danh y, ta thấy nhân cách lớn, tâm hồn cao phẩm chất trung quân Hải Thượng Lãn Ơng Bước sang thời kì Nguyễn Khuyến, xã hội hoàn toàn lâm vào bế tắc Bản thân Nguyễn Khuyến thi thời phong kiến, đỗ đạt làm quan to; hết, Nguyễn Khuyến có tư tưởng trung quân quốc: “Ơn vua chút chưa đền Cúi trơng thẹn đất, ngửa lên thẹn trời” Những tưởng cống hiến cho triều đình phong kiến, thực trạng xã hội “Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe - Nghĩ đồ thật hóa đồ chơi” (Tiến sĩ giấy) khiến Nguyễn Khuyến thực thất vọng đau xót Trong cảnh tà lẫn lộn, Nguyễn Khuyến rút lui nơi thôn dã, an bần lạc đạo Ngay ẩn, ông xử nhà Nho, không rứt bỏ hẳn thời “thân nhàn mà tâm không nhàn” giống vị tiền bối Nguyễn Khuyến phân biệt rõ rệt hai tư tưởng “trung quân” “ái quốc” Mượn hình ảnh “vua chèo”, “quan chèo”, ơng cất lên tiếng thơ trào phúng người làm chủ đất nước “Vua chèo cịn chẳng gì/Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”, ông châm biếm tên bù nhìn, tay sai Pháp Tổng đốc Lê Hoan: “Thằng bán tơ dở giói ra/ Làm cho bận đến cụ Viên già…” Mặt khác, trái tim thi sĩ lại rung lên nhịp đập trái tim người lao động nghèo khổ; Nguyễn Khuyến đồng cảm trước vất vả, cực nhân dân họ làm ăn thất bát, thiên tai hoành hành, sưu cao thuế nặng: “Dở trời mưa bụi rét Nếm rượu tượng đình ơng? Hàng qn người nghe xao xác, Nợ nần năm trước hỏi lung tung” (Chợ đồng) Nếu Nguyễn Khuyến lựa chọn lui ẩn, bất hợp tác với phong kiến, thực dân để giữ vẹn ngun khí tiết Nguyễn Đình Chiểu lại dùng ngịi bút làm vũ khí chống lại kẻ khiến nhân dân lầm than, đau khổ Nếu trước Nguyễn Cơng Trứ bền chí lập thân, giữ đạo cương thường lúc đợi thời: “Có Trung hiếu đứng trời đất/ Không công danh nát với cỏ cây”, hay thân Đồ Chiểu viết Lục Vân Tiên mang ảnh hưởng triết học Nho giáo sâu đậm, rõ ràng “Làm trai ơn nước, nợ nhà/ Thảo cha, chúa tài danh” giai đoạn sau, thấy thực dân Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược nước ta mạnh mẽ bất lực, yếu ớt triều đình Tư tưởng “trung quân” “ái quốc” Đồ Chiểu có tách bạch rõ ràng Với minh quân biết lo nghĩ cho dân quan điểm Đồ Chiểu “Sống thờ vua, thác thờ vua” Cịn với qn, bạo chúa ơng thể thái độ căm ghét rõ ràng: “Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang Ghét đời U, Lệ đa đoan Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần” Người anh hùng văn thơ ơng hành động khơng hai chữ "trung quân” “Trai thời trung hiếu làm đầu” mà “ái quốc”, thương dân tộc, giống nịi: “Sớ mật lãnh binh lờ mắt giặc Bằng son ứng nghĩa thắm lòng dân Giúp đời dốc trọn ơn nam tử Ngay chúa lo tiếng nghịch thần” Nguyễn Đình Chiểu vượt qua vòng vây tư tưởng lễ giáo phong kiến, vượt qua tư tưởng Nho giáo ông nguyện theo đuổi để hướng tới quan niệm nhân bản, tiến hơn: Đất nước gắn với nhân dân; yêu nước yêu nhân dân, quan niệm khác biệt hẳn so với tư tưởng “trung quân – quốc” giai đoạn trước * Tiểu kết: Thế kỉ XVIII đến nửa cuối kỉ XIX giai đoạn cuối chế độ phong kiến với suy vi, bế tắc trầm trọng Các giá trị phong kiến vốn bền vững khơng thể tìm lại thời hồng kim Tư tưởng “trung qn – quốc” có phân biệt rạch rịi Đối với hôn quân, bề trung thành cách mù qng khơng thể tinh thần u nước Ngược lại, bề tơi biết đặt lợi ích nước dân lên đầu, trung với vua vị vua có lịng thương dân, biết lo nghĩ cho dân lấp lánh lí tưởng quốc 3.4 Sự vận động tư tưởng “trung quân quốc” qua giai đoạn lịch sử Với biểu đa dạng, phong phú; khẳng định tư tưởng “trung quân quốc” không đơn điệu, chiều mà ln có vận động phù hợp với bối cảnh xã hội Giai đoạn kỉ X đến kỉ XIV, dân tộc ta giành chiến thắng kháng chiến chống quân Tống, quân Mông - Nguyên, chế độ phong kiến phát triển thịnh trị, vua quan biết chăm lo cho nhân dân trung quân thống với quốc Thời kì (thế kỉ XV đến hết kỉ XVII) tư tưởng trung quân giáo lí cốt yếu bắt đầu có dấu hiệu khủng hoảng, tách biệt dần (dù mơ hồ) nhà Nho Đến thời Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu,… trung quân quốc dường trở thành hai phạm trù tách bạch hẳn đơi lúc cịn đối lập gay gắt… Cùng thời điểm du nhập vào Việt Nam, tư tưởng “trung quân” Trung Hoa bị tuyệt đối hóa nhằm củng cố quyền lực giai cấp thống trị Tuy nhiên, nhà Nho Việt Nam tiếp thu tư tưởng có chọn lọc đầy sáng tạo Trung quân phải gắn liền với quốc Mối quan hệ trung quân quốc mối quan hệ bình đẳng, ngang hàng Việc trung thành với vua phải thể lòng yêu nước bao la; mà lòng thực sáng ngời bề biết trung với vị vua anh minh Bởi người đứng đầu đất nước biết lo lắng, quan tâm, yêu thương dân chúng xã hội thái bình, thịnh trị Ở chiều ngược lại, nhà vua hèn kém, yếu đuối, độc ác,… lên nắm quyền bề tơi khơng trung theo; làm vơi nỗi thống khổ mà nhân dân phải chịu đựng Tất biểu gọi trung qn có điều kiện Ngun nhân lí tưởng tiến tư tưởng thân dân tác giả Dù có học thức sâu rộng, tài phong phú, chức vị cao triều đình; họ thấu hiểu triết lí “dân vi bản”, đất nước giàu mạnh, hùng cường hay không, cốt nhân dân Đồng thời, qua tư tưởng ấy; ta thấy lòng nhân hậu, sáng, cốt cách cao với khát khao trổ hết lĩnh để giúp dân, giúp nước Mối quan hệ tư tưởng “trung quân quốc” với với tư tưởng yêu nước truyền thống dân tộc Tư tưởng “trung quân quốc” truyền thống yêu nước dân tộc hai đặc trưng lớn làm nên chủ nghĩa yêu nước văn học trung đại kéo dài xuyên suốt, liên tục mười kỉ Đây hệ tư tưởng cốt lõi làm nên sức mạnh nội lực người Việt Nam Truyền thống yêu nước từ ngàn đời thấm nhuần nếp cảm, nếp nghĩ; vào đời sống văn hóa, tinh thần, tư tưởng người Việt Sự kết hợp hài hòa tư tưởng trung quân quốc truyền thống yêu nước giúp chủ nghĩa yêu nước văn học trung đại phát triển theo hướng kế thừa yếu tố tích cực, vượt khỏi khuôn mẫu ràng buộc cứng nhắc chật hẹp Nho giáo, để vươn đến giá trị tốt đẹp: Đó biết kết hợp chủ nghĩa yêu nước chủ nghĩa nhân đạo Tuy nhiên, giai đoạn cảm hứng lại có biểu khác Cảm hứng yêu nước thời kỳ chống ngoại xâm có biểu khác biệt rõ nét so với thời kỳ xây dựng triều đại phong kiến Nội dung cảm hứng yêu nước đa dạng, phong phú biểu bật lòng trung quân quốc truyền thống yêu nước kết tinh từ ngàn đời, yêu nước gắn liền với trung qn, lí tưởng chiến đấu nước dân đồng thời lí tưởng chiến đấu vua khẳng định độc lập, chủ quyền đất nước “Nam quốc sơn hà”, “Bình Ngơ đại cáo”, lời phủ dụ hoàng đế Quang Trung trước tiến quân…, bày tỏ lòng căm thù giặc, tâm chiến chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước “Cảm hoài”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”…, tự hào truyền thống lịch sử dân tộc, chiến công vang dội thời đại, khí vươn lên đất nước, thành tựu quốc gia dân tộc, sức mạnh người, vẻ đẹp thiên nhiên đất nước “Việt diện u linh tập”, “Lĩnh Nam chích quái lục”, “Tụng giá hoàn kinh sư”, “Thuật hoài”, “Bạch Đằng giang phú”…, bày tỏ khát vọng hịa bình cho đất nước, khát vọng dựng xây quốc gia phồn thịnh, bền vững, gắn bó “Quốc tộ”, “Thiên chiếu”, “Bạch Đằng giang phú”… Tuỳ theo hồn cảnh xã hội khác mà tư tưởng trung quân, truyền thống yêu nước thể hành động, việc làm khác không Trong hồ bình, lịng u nước ẩn sau việc làm dựng xây đất nước thêm giàu, thêm mạnh Trong thời chiến, tình cảm bộc lộ cách sôi nổi, mãnh liệt, lăn xả, sẵn sàng hi sinh thân đất nước Đi suốt chiều dọc lịch sử đất nước, ta thấy điều khơng thay đổi biết biến cố, bao xoay vần thời xảy đời sống dân tộc Tư tưởng “trung quân quốc” với với tư tưởng yêu nước truyền thống dân tộc có gặp gỡ, kết nối làm nên tinh thần yêu nước bất khuất, sẵn sàng hi sinh tất độc lập, tự do; khát khao thái bình thịnh trị cho mn dân III Kết luận Giai đoạn từ kỉ X – cuối kỉ XIX đầy biến động lịch sử Văn học với chức tự thân phản ánh đời sống xã hội, tư tưởng tình cảm người biến động không ngừng Đây thời đại ghi dấu nhiều thành tựu mang tính móng cho văn học dân tộc, bước ngoặt thời đại đến ngóc ngách đời sống dân chúng phản ánh tác phẩm văn học; đương nhiên không thiếu tư tưởng “trung quân quốc” – sợi đỏ xuyên suốt triều đại phong kiến Việt Nam Ái quốc trung quân, trung quân quốc Hai tình cảm khơng thể tách rời mà hồ quyện vào nhau, làm nên lí tưởng cơng dân tốt thời kì phong kiến Tư tưởng chi phối khuynh hướng cảm hứng yêu nước đời sống thực văn học trung đại, làm nên điểm khác biệt tư tưởng yêu nước thời phong kiến so với thời đại; đồng thời góp phần tơ điểm, làm sâu sắc thêm tinh thần yêu nước dân tộc Ngày nay, tư tưởng “trung qn quốc” khơng cịn tồn tại, thay vào tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân”; nhiên khơng thể phủ nhận mặt tích cực tư tưởng công dựng nước giữ nước ... I Đặt vấn đề Nhìn lịch sử văn học, nói văn học trung đại "đặt dấu chân đầu tiên", đánh dấu mở đầu văn học viết Việt Nam Trải qua gần mười kỉ, văn học trung đại đồng hành với thực dân tộc,... quốc” văn học trung đại Việt Nam Tư tưởng ? ?trung quân quốc” tùy vào thời kì, giai đoạn, tác gia khác mà có in dấu đậm nhạt văn học trung đại Việt Nam Tìm hiểu tư tưởng văn học trung đại, tức tìm... trung quân quốc - nội dung lớn văn học thời kì trung đại Đây vấn đề lớn cần nghiên cứu phân tích sâu II Nội dung tư tưởng trung quân quốc văn học trung đại Việt Nam Những khái niệm liên quan 1.1