CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1 Khái quát chung về ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái ni ệm ngân hàng thương mạ i
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức kinh tế chuyên thực hiện các hoạt động liên quan đến tiền tệ và tín dụng Nghiệp vụ chính của NHTM là huy động vốn từ khách hàng có tiền nhàn rỗi và cung cấp vốn cho những khách hàng cần vay Điều này có nghĩa là NHTM thực hiện việc luân chuyển vốn từ những người có tiền đến những người cần vốn Bên cạnh đó, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu và thị hiếu luôn thay đổi của khách hàng.
Ngân hàng, theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới, là tổ chức tài chính chủ yếu nhận tiền gửi dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm Trong số đó, các ngân hàng thương mại tham gia vào việc nhận tiền gửi và thực hiện cho vay ngắn hạn cũng như trung và dài hạn.
Theo nghị định số 59/2009/NĐ-CP, ngân hàng thương mại (NHTM) được định nghĩa là tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh liên quan nhằm mục tiêu lợi nhuận, tuân thủ theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định pháp luật hiện hành.
1.1.1.2 Ch ức năng củ a ngân hà ng thương mạ i
Tầm quan trọng của NHTM được thể hiện qua các chức năng của nó Cụ thể, các NHTM có 03 chức năng chính:
Chức năng trung gian tài chính: đây là chức năng cũng như nghiệp vụ kinh doanh cơ bản nhất của NHTM, có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy
Trường Đại học Kinh tế Huế nhấn mạnh vai trò quan trọng của ngân hàng thương mại (NHTM) trong nền kinh tế phát triển NHTM nhận tiền gửi và sử dụng nguồn vốn này để cho vay, từ đó thu lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay Qua đó, NHTM hoạt động như một cầu nối giữa các chủ thể thặng dư vốn và những nơi thâm hụt vốn trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng như một trung gian thanh toán, giúp cá nhân và doanh nghiệp thực hiện các giao dịch tiền tệ theo yêu cầu của khách hàng Họ hỗ trợ việc thanh toán cho hàng hóa và nhận tiền từ đối tác, đồng thời cung cấp nhiều phương tiện thanh toán đa dạng để đáp ứng nhu cầu riêng biệt của từng khách hàng Chức năng này không chỉ tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội mà còn thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn và quá trình lưu thông hàng hóa.
Chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại (NHTM) được thể hiện qua hoạt động tín dụng và thanh toán, góp phần làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu thanh toán mà còn hỗ trợ chi trả của xã hội.
1.1.1.3 Các ho ạt độ ng chính c ủa ngân hàng thương mạ i
Hoạt động huy động vốn:
- Ngân hàng nhận tiền gửi thanh toán của các cá nhân hay tổ chức gửi vào ngân hàng để thực hiện chức năng giữ hộ, thanh toán.
Ngân hàng cung cấp dịch vụ nhận tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm từ cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và hộ gia đình, đồng thời chi trả lãi suất cho người gửi tiền.
- Ngân hàng phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu hay các giấy tờ có giá khác để huy động vốn,
- Ngân hàng vay vốn từ NHNN hoặc từ các TCTD khác.
Ngân hàng sử dụng nguồn vốn để cho vay cá nhân và tổ chức có nhu cầu, đây là hoạt động kinh doanh chính giúp ngân hàng thương mại (NHTM) tạo ra lợi nhuận.
- Ngân hàng sử dụng nguồn vốn để đầu tư bằng việc xây dựng những danh mục đầu tư.
Trường Đại học Kinh tế Huế
Nhu cầu tín dụng của nền kinh tế ngày càng đa dạng đã dẫn đến sự phong phú trong các loại hình cung cấp tín dụng của ngân hàng thương mại Các nghiệp vụ như bảo lãnh, cho vay tài chính và chiết khấu giấy tờ có giá được triển khai nhằm đáp ứng tốt nhất các nhu cầu này.
Ngoài các hoạt động chính, ngân hàng thương mại (NHTM) còn tham gia vào nhiều dịch vụ khác như cung cấp bảo hiểm, tư vấn tài chính, kinh doanh ngoại tệ, chứng khoán phái sinh, và nhận ủy thác.
1.1.2 Khái niệm về sự ổn định tài chính
Từ trước đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm “ổn định tài chính”, cụ thể như sau:
Hyman Minsky (1919 – 1996) là một nhà kinh tế nổi tiếng thuộc trường phái Keynes, được biết đến với lý thuyết về sự bất ổn tài chính Ông lập luận rằng nền kinh tế tư bản, với đặc điểm tài sản vốn đắt đỏ và hệ thống tài chính phức tạp, có thể dẫn đến những biến động tài chính Theo Keynes (1930), vấn đề này liên quan đến "sự phát triển vốn của nền kinh tế" Minsky đưa ra hai định lý chính: đầu tiên, nền kinh tế có thể tồn tại trong hai chế độ tài chính ổn định và không ổn định; thứ hai, trong thời kỳ thịnh vượng kéo dài, nền kinh tế sẽ chuyển từ hệ thống tài chính ổn định sang không ổn định Ông cũng nhấn mạnh rằng sẽ có một thời điểm, được gọi là khoảnh khắc Minsky, khi hệ thống tài chính chuyển đổi từ trạng thái ổn định sang không ổn định.
Các tổ chức buộc phải thanh lý tài sản để trả nợ vay, gây ra sự sụt giảm mạnh trên thị trường tài chính Thời điểm Minsky xảy ra khi các tổ chức gặp khó khăn về dòng tiền do nợ từ các khoản đầu tư rủi ro cao, bất kể chu kỳ tín dụng hay kinh doanh Kết quả là, làn sóng bán tháo diễn ra, dẫn đến thanh khoản giảm nghiêm trọng và thị trường tài chính sụp đổ đột ngột.
Theo Federic Mishkin (1999), bất ổn định tài chính xảy ra khi có cú sốc tác động đến các tổ chức và hệ thống tài chính, dẫn đến sự gián đoạn trong luồng thông tin Hệ quả là hệ thống tài chính không còn hoạt động hiệu quả, khiến các tổ chức tài chính không thể phân bổ nguồn lực đầu tư một cách tối ưu.
Trường Đại học Kinh tế Huế
Theo Davis (2001), bất ổn tài chính là rủi ro có khả năng làm tăng nguy cơ khủng hoảng tài chính, dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống tài chính và cản trở việc cung cấp dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế cũng như phân bổ tín dụng đến các cơ hội đầu tư hiệu quả Các cuộc khủng hoảng tài chính có tác động lớn đến hoạt động kinh tế, vì vậy thúc đẩy sự ổn định tài chính được coi là một phần quan trọng trong quản trị rủi ro hệ thống.
Nout Wellink (2002) định nghĩa hệ thống tài chính ổn định là khả năng phân bổ hiệu quả nguồn lực và hấp thụ cú sốc, từ đó ngăn chặn tác động tiêu cực đến nền kinh tế và hệ thống tài chính Hệ thống tài chính cần tránh trở thành nguồn gốc gây ra cú sốc Buiter (2008) nhấn mạnh rằng sự ổn định tài chính sẽ được đảm bảo nếu không xảy ra các tình trạng như bong bóng giá tài sản, thiếu thanh khoản, và tình trạng vỡ nợ của các thể chế tài chính đe dọa sự ổn định của hệ thống.
CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1.Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2014 – 2018
1.2.1.1 T ổ ng s ả n ph ẩ m qu ố c n ộ i (GDP) và tăng trưở ng kinh t ế
Từ năm 2014 đến 2018, tổng GDP (PPP) của Việt Nam đã tăng trưởng ổn định, với mức trung bình trên 45 triệu USD mỗi năm, như thể hiện trong biểu đồ ở hình 1.1.
Tổng GDP của Việt Nam trong năm 2014 đạt 487,2 tỷ USD, sau đó tăng mạnh lên 519,7 tỷ USD vào năm 2015 và 552 tỷ USD vào năm 2016, với mức tăng trưởng trung bình 32 tỷ USD mỗi năm Năm 2017, GDP tiếp tục tăng thêm 37 tỷ USD, đạt 589,7 tỷ USD Đến năm 2018, GDP đạt đỉnh 631,4 tỷ USD, ghi nhận mức tăng trưởng cao nhất là 41,7 tỷ USD.
Tăng trưởng GDP của Việt Nam biến động qua các năm, với mức thấp nhất là 5,98% vào năm 2014, khi nền kinh tế đang phục hồi sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Sau đó, nhờ vào các cải cách trong nước, GDP tăng lên 6,68% vào năm 2015, nhưng giảm nhẹ xuống 6,21% vào năm 2016 Tuy nhiên, nền kinh tế tiếp tục phục hồi mạnh mẽ với mức tăng 6,81% vào năm 2017 và đạt đỉnh 7,08% vào năm 2018, mức cao nhất kể từ 2014 Tốc độ tăng trưởng này không chỉ tạo ra nhiều việc làm mà còn gia tăng thu nhập, góp phần vào thành tựu phúc lợi xã hội và xóa đói giảm nghèo.
Trường Đại học Kinh tế Huế
Hình 1.1: GDP (PPP) Việt Nam giai đoạn 2014 – 2018
(Nguồn:Tổng cục Thống kê)
1.2.1.2 Ch ỉ s ố giá tiêu dùng bình quân
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân cuối năm 2014 tăng 1,84% so với năm trước, mặc dù hầu hết các nhóm hàng đều có mức tăng thấp hơn hoặc giảm Năm 2015, mức tăng CPI chỉ còn 0,63%, là mức thấp nhất trong 15 năm qua Đến năm 2016, CPI tăng 2,66% nhờ vào chính sách kiểm soát lạm phát của Chính phủ, giúp phục hồi niềm tin thị trường và ổn định kỳ vọng lạm phát Năm 2017, CPI tiếp tục tăng 3,53%, nhưng vẫn thấp hơn mục tiêu 4% của Quốc hội Tương tự, năm 2018, CPI tăng 3,54%, chủ yếu do giá thực phẩm và nhiên liệu tăng, cùng với việc điều chỉnh giá do Nhà nước quản lý.
GDP(PPP) Tăng trưởng GDP
Trường Đại học Kinh tế Huế
Hình 1.2: Mức tăng CPI của Việt Nam giai đoạn 2014 – 2018
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
1.2.2 Các nghiên cứu về sự ổn định tài chính của hệ thống ngân hàng thương mại
Hiện nay, sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) đang thu hút sự chú ý và nghiên cứu từ cả trong nước và quốc tế Lĩnh vực này hứa hẹn mang lại giải pháp thiết thực cho ngành ngân hàng, được coi là huyết mạch của nền kinh tế Do đó, mỗi châu lục và quốc gia đều tiến hành các nghiên cứu cụ thể phù hợp với tình hình thực tế của họ.
1.2.2.1 Các nghiên c ứu trong nướ c
Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Dương (2013) với mẫu 36 ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn 2006-2011 đã sử dụng phương pháp định lượng để đánh giá ảnh hưởng của các chỉ số đến rủi ro ngân hàng Kết quả cho thấy tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng so với thu nhập lãi thuần và tỷ lệ lợi nhuận ròng trên tổng tài sản có tác động tích cực đến rủi ro ngân hàng, trong khi tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên vốn huy động và tỷ lệ cho vay đối với tiền gửi ngắn hạn lại ảnh hưởng tiêu cực Nghiên cứu nhấn mạnh rằng việc tăng vốn chủ sở hữu là điều kiện thiết yếu để bảo vệ ngân hàng khỏi rủi ro phá sản và tác giả đã đề xuất các hướng dẫn cải thiện.
Trường Đại học Kinh tế Huế thiện hệ thống quản lý rủi ro của hệ thống ngân hàng Hoàn trả và cải thiện tiền và quản lý vốn.
Võ Xuân Vinh và Trần Thị Phương Mai (2015) đã nghiên cứu lợi nhuận và rủi ro của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, chỉ ra rằng việc đa dạng hóa hoạt động ngân hàng dẫn đến lợi nhuận cao hơn nhưng lợi nhuận điều chỉnh rủi ro lại giảm Nghiên cứu của Nguyễn Đăng Tùng và Bùi Thị Len (2015) áp dụng phương pháp thống kê mô tả để phân tích tình hình tài chính của các ngân hàng niêm yết, tập trung vào các yếu tố như tăng trưởng tài sản, tín dụng, lợi nhuận ròng và nợ xấu Họ cũng sử dụng mô hình Altman Z'' để đánh giá rủi ro phá sản của hệ thống NHTM Việt Nam, cho thấy điểm trung bình Z'' của các ngân hàng trong giai đoạn 2008 - 2013 nằm trong mức độ an toàn, với sự biến động giảm dần qua các năm và sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm ngân hàng có quy mô vốn khác nhau.
Nghiên cứu của Đặng Văn Dân (2015) sử dụng dữ liệu thời gian từ báo cáo tài chính hàng năm của 15 ngân hàng thương mại lớn tại Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2014, cùng với số liệu kinh tế vĩ mô từ Tổng cục Thống kê Việt Nam Dữ liệu được phân tích bằng mô hình hồi quy, cho thấy rằng rủi ro thanh khoản có mối quan hệ nghịch đảo với quy mô tổng tài sản và có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản Cụ thể, ngân hàng có quy mô lớn hơn sẽ có lợi thế cạnh tranh, giảm rủi ro thanh khoản, trong khi ngân hàng có tỷ lệ cho vay cao sẽ giảm dự trữ thanh khoản, dẫn đến tăng rủi ro thanh khoản Hơn nữa, việc mở rộng tín dụng cũng làm gia tăng rủi ro tín dụng, kéo theo rủi ro thanh khoản tăng lên.
Trường Đại học Kinh tế Huế đã không tìm thấy mối liên hệ rõ ràng giữa rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương mại với lạm phát và tăng trưởng kinh tế Dựa trên phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản, tác giả đề xuất một số chính sách nhằm cải thiện hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản, từ đó góp phần bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng.
Nghiên cứu “Phát triển thị trường tài chính và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam” của Hoàng Công Gia Khánh & Trần Hùng Sơn (2015) phân tích dữ liệu từ 25 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2005-2013 để tìm hiểu mối quan hệ giữa phát triển thị trường tài chính và rủi ro ngân hàng Sử dụng chỉ số Z-score để đo lường rủi ro tín dụng, thanh khoản và thị trường, nghiên cứu cũng áp dụng phương pháp Kohler (2015) để chia Z-score thành hai biến RAROA và RACAR Kết quả cho thấy sự phát triển của thị trường tài chính có xu hướng làm gia tăng rủi ro ngân hàng, trong khi cấu trúc tài sản, an toàn vốn và quy mô tài sản lại giảm rủi ro Đặc biệt, khả năng sinh lời có liên quan đến việc gia tăng rủi ro, khi các ngân hàng có xu hướng tham gia vào các hoạt động rủi ro cao để đạt lợi nhuận lớn hơn Ngoài ra, nghiên cứu chỉ ra rằng tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro ngân hàng, và không tìm thấy mối liên hệ giữa hiệu quả hoạt động, đa dạng hóa thu nhập và lạm phát với rủi ro ngân hàng.
Nghiên cứu "Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản ngân hàng Việt Nam bằng phương pháp Z-score" của Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Bá Hướng (2016) đã đề xuất các chính sách phù hợp nhằm nâng cao sự ổn định và lành mạnh trong hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản, từ đó đưa ra những khuyến nghị thiết thực cho các nhà quản lý ngân hàng.
Nghiên cứu về 23 ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam từ năm 2009 đến 2013 cho thấy một số yếu tố có mối quan hệ nghịch chiều với rủi ro phá sản ngân hàng, bao gồm tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ dự phòng nợ xấu, tỷ lệ thu nhập lãi thuần, vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, đa dạng hóa thu nhập, sở hữu nhà nước, số năm hoạt động của ngân hàng và việc niêm yết trên thị trường Ngược lại, các yếu tố đồng biến với rủi ro phá sản ngân hàng là hiệu quả quản lý chi phí và quy mô hoạt động của ngân hàng.
Trường Đại học Kinh tế Huế
Huỳnh Thị Phương Thảo (2018) đã thực hiện một nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của 35 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2008-2017 bằng cách thu thập dữ liệu từ báo cáo tài chính và Tổng cục Thống kê Nghiên cứu sử dụng mô hình DEA để đánh giá hiệu quả hoạt động và phân tích tác động của rủi ro đến hiệu quả thông qua các chỉ tiêu như lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản và vốn chủ sở hữu Kết quả cho thấy rủi ro tín dụng có ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, dẫn đến việc ngân hàng phải tăng chi phí để xử lý các khoản nợ xấu Tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Nghiên cứu của Diamond (1984), Ramakrishnan và Thakor (1984), Boyd và Prescott (1986), Williamson (1986) cho thấy các ngân hàng lớn trong hệ thống ngân hàng tập trung có khả năng tận dụng nền kinh tế theo quy mô và phạm vi, đồng thời đa dạng hóa danh mục đầu tư hiệu quả hơn Smith (1984) lập luận rằng mối quan hệ giữa các ngân hàng có thể bền vững hơn trong môi trường ít cạnh tranh nếu thông tin về nhu cầu thanh khoản của người gửi tiền được bảo mật Do đó, sự tập trung cao và cạnh tranh hạn chế có thể làm giảm rủi ro trách nhiệm, từ đó tăng cường sự ổn định trong hoạt động ngân hàng.
Dựa trên các nghiên cứu của Boyd & Graham (1986), Hannan & Hanweck
Nghiên cứu từ năm 1988 đã chỉ ra rằng chỉ số Z-score có thể được sử dụng để đánh giá sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) thông qua khả năng phá sản của họ Theo Boyd, De Nicolo và Jalal (2006), Z-score được tính bằng tỷ lệ vốn trên tổng tài sản cộng với lợi nhuận trên tổng tài sản, chia cho độ lệch chuẩn của lợi nhuận trên tài sản Chỉ số này cho thấy số độ lệch chuẩn trong lợi nhuận trên tổng tài sản mà một ngân hàng cách xa khả năng phá sản, từ đó cung cấp thông tin về khả năng vỡ nợ của ngân hàng.
Trường Đại học Kinh tế Huế
PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
Tác giả đã thu thập mẫu dữ liệu nghiên cứu từ 19 ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam trong giai đoạn 2014-2018 Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 31/12/2018, cả nước có 35 ngân hàng thương mại Tuy nhiên, do một số ngân hàng không công bố đầy đủ dữ liệu trong giai đoạn nghiên cứu, mẫu nghiên cứu được giới hạn ở 19 NHTM có dữ liệu đầy đủ nhất để đảm bảo tính chính xác của bảng cân bằng.
Theo công bố của Ngân hàng Nhà nước vào ngày 31/12/2018, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) đạt 9.418.330 tỷ đồng Trong số đó, tổng tài sản của 19 NHTM được tác giả lựa chọn là 6.765.615 tỷ đồng, chiếm 71,8% tổng tài sản của toàn hệ thống Điều này cho thấy 19 NHTM mà tác giả phân tích đảm bảo tính đại diện cho hệ thống NHTM tại Việt Nam.
Khối ngân hàng thương mại (NHTM) có sở hữu nhà nước bao gồm 7 ngân hàng, trong đó có Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, CTG, VCB, BID, cùng 3 ngân hàng được nhà nước mua lại với giá 0 đồng Do hạn chế trong việc tiếp cận và thu thập dữ liệu, nghiên cứu chỉ tập trung vào 3 ngân hàng có vốn nhà nước là CTG, VCB, BID, trong khi 16 ngân hàng còn lại thuộc khối NHTM cổ phần Theo thông tin từ finance.vietstock.vn, tính đến 21/02/2020, có 13 ngân hàng niêm yết trên hai sàn HOSE và HNX, bao gồm BID, CTG, VCB và một số ngân hàng khác Nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn từ 2014 đến 2018, thời điểm hệ thống NHTM bắt đầu ổn định trở lại sau biến động kinh tế, nhằm đảm bảo tính chính xác của dữ liệu thu thập Tổng số mẫu nghiên cứu là 95 ngân hàng.
Trường Đại học Kinh tế Huế tiến hành thu thập dữ liệu từ các báo cáo tài chính, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính đã được kiểm toán, được công bố trên website chính thức của ngân hàng Đồng thời, các biến nội sinh của từng ngân hàng được tính toán một cách cẩn thận bằng phần mềm Excel dựa trên các dữ liệu thu thập được.
1.3.2 Phương pháp nghiên cứu Đề tài có mục tiêu cụ thể là: đo lường sự ổn định tài chính và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính của hệ thống NHTM Việt Nam Để thực hiện được mục tiêu trên, đề tài sử dụng 02 bước phân tích định lượng dưới đây.
1.3.2.1 Đo lườ ng s ự ổn đị nh tài chính b ằ ng Z-score Đề tài đo lường sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam bằng chỉ số rủi ro phá sản Z-score được kế thừa từ nghiên cứu của Berger (2008), Groeneveld và De Vries (2009), tỷ lệ nợ xấu và kiểm định sự khác biệt của các nhóm ngân hàng Z-score được tính toán dựa trên công thức nhưsau:
ROA là tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản bình quân hàng năm của từng ngân hàng
EA là tỷ lệvốn chủ sở hữu trên tổng tài sản hàng năm cho từng ngân hàng
SD(ROA) làđộ lệch chuẩn củatỷ lệ lợi nhuận trên tài sản trong giai đoạnnghiên cứu (5 năm)
Chỉ số Z-score cao cho thấy sự ổn định tài chính của ngân hàng tốt hơn (Mercieca và cộng sự, 2007) Nghiên cứu này tính toán Z-score của 19 ngân hàng thương mại từ năm 2014 đến 2018, đồng thời xác định Z-score trung bình trong 5 năm để xếp hạng và đánh giá sự ổn định tài chính Ngoài ra, luận văn cũng phân nhóm các ngân hàng theo hình thức sở hữu và quy mô vốn điều lệ nhằm đánh giá sự ổn định tài chính dựa trên các tiêu chí phân loại khác nhau.
Trường Đại học Kinh tế Huế
1.3.2.2 Đề xu ấ t các nhân t ố ảnh hưởng đế n s ự ổn đị nh tài chính c ủ a h ệ th ố ng
Ngân hàng thương mạ i Vi ệ t Nam
Tác giả không chỉ kế thừa những nghiên cứu trước đây mà còn đề xuất và xây dựng một phương trình hồi quy nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính.
Z-scoreᵢₜ =cᵢ +β1ROEᵢₜ +β2EAᵢₜ +β3DNTGᵢₜ +β4DNTTSᵢₜ + β5SIZEᵢₜ+β6ΔEATᵢₜ +β7NIMᵢₜ + ε ᵢₜ Trong đó:
Z-score là chỉ số đo lườngsự ổn định tài chính của các NHTM
ROE là tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sởhữu, đại diện cho yếu tố về khả năng sinh lời của ngân hàng
EA là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, đại diện cho yếu tố về vốn
DNTG là tỷ lệ dư nợ khách hàng (trước dự phòng) trên tiền gửi khách hàng, đại diện cho yếu tố khả năng thanh khoản của ngân hàng
DNTTS là tỷ lệ dư nợ khách hàng trên tổng tài sản, đại diện cho yếu tố quản lý của ngân hàng
SIZE là chỉ số đo lường quy mô ngân hàng, được xác định thông qua logarit tự nhiên của tổng tài sản ngân hàng Mục đích của việc này là để kiểm tra xem quy mô ngân hàng có ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính của nó hay không.
ΔEAT là phần trăm tăng trưởng lợi nhuận sau thuế, đại diện cho mức độ tăng trưởng của ngân hàng
NIM (Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên) là chỉ số quan trọng đo lường chênh lệch giữa thu nhập từ lãi cho vay và chi phí lãi phải trả của ngân hàng, phản ánh chính sách tài chính của ngân hàng Tại các ngân hàng bán lẻ nhỏ, tỷ lệ NIM thường cao hơn so với các ngân hàng bán sỉ lớn.
ε ᵢₜ là phần dưkhông quan sát củacác ngân hàngở thời điểm t
Trường Đại học Kinh tế Huế
Bảng1.1: Diễn giải các biến và cách đo lường
Ký hiệu Cơ sở khoa học Kỳ vọng tương quan
Ngân hàng thế giới Laeven và Levine (2009) Čihák và Hesse (2010) +
ROE Raúl Osvaldo Fernández và cộng sự (2015) + Tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuếtrên vốn chủ sở hữu
Raluca-Ioana Diaconu và Dumitru-Cristian Oanea
Tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản
Tỷ lệ giữa dư nợ khách hàng (trước dự phòng) trên tiền gửi
Tỷ lệ giữa dư nợ khách hàng trên tổng tài sản
Fernandez de Guevara và cộng sự (2005), Tabak và cộng sự (2012) +
Số logarit tự nhiên của tổng tài sản ΔEAT Tác giả đề xuất + EAT năm t
Tỷsuất sinh lợi của Tài sản Có sinh lãi–(trừ) Tỷ lệ chi phí hình thành Tài sản Có sinh lãi
Tác giả trình bày dữ liệu nghiên cứu thông qua bảng và áp dụng bốn phương pháp ước lượng mô hình Đầu tiên, phương pháp ước lượng hồi quy tuyến tính thông thường (Pooled OLS) được sử dụng; thứ hai, mô hình hồi quy với các tác động cố định (Fixed Effects Model: FEM) được áp dụng; và thứ ba, mô hình hồi quy tiếp theo cũng được xem xét.
Trường Đại học Kinh tế Huế áp dụng các mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effects Model - REM) và tác động cố định (Fixed Effects Model - FEM) cho dữ liệu dạng bảng Để xác định mô hình phù hợp, khóa luận sử dụng kiểm định Hausman (1978) nhằm lựa chọn giữa FEM và REM Kiểm định này giúp phân biệt mô hình tác động cố định và tác động ngẫu nhiên Tiếp theo, tác giả thực hiện kiểm định Wald và Wooldridge để kiểm tra sự tồn tại của phương sai sai số thay đổi và tương quan chuỗi trong mô hình Nếu phát hiện hiện tượng tự tương quan hoặc phương sai thay đổi trong FEM hoặc REM, mô hình hồi quy bình phương nhỏ nhất khái quát hóa GLS (Generalized Least Squares) sẽ được áp dụng để kiểm soát những vấn đề này.
Mô hình hồi quy các nhân tố tác động cố định (Fixed Effects Model)
Mô hình FEM (Fixed Effects Model) được sử dụng để phân tích tác động của các biến số thay đổi theo thời gian trong các thực thể như đất nước, ngân hàng hay công ty Mô hình này tập trung vào những khác biệt cá thể, giúp loại bỏ hiện tượng tự tương quan và đánh giá hiệu ứng ròng của các yếu tố dự đoán lên biến kết quả Một giả định quan trọng của FEM là các đặc điểm bất biến theo thời gian là duy nhất cho từng cá nhân, không tương quan với các đặc điểm khác Nếu có sự tương quan giữa các thuật ngữ lỗi, FEM sẽ không phù hợp và cần sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên, điều này được kiểm tra qua thử nghiệm Hausman Công thức tổng quát cho mô hình tác động ngẫu nhiên là y ᵢₜ = x ᵢₜ β + c ᵢ + u ᵢₜ với t = 1, 2,…, T.
- cᵢlà hệ số chặn cho từng ngânhàng nghiên cứu
Trường Đại học Kinh tế Huế
- là hệ số góc đối với nhân tố X
Mô hình này đã bổ sung chỉ số i cho hệ số chặn “c”, nhằm phân biệt hệ số chặn giữa các doanh nghiệp, điều này có thể do đặc điểm riêng của từng ngân hàng hoặc sự khác biệt trong chính sách quản lý và hoạt động của ngân hàng.
Mô hình tác động ngẫu nhiên ước lượng tham số β bằng cách đưa thành phần ci vào sai số, với giả thiết rằng nó không tương quan với biến giải thích Xit Phương pháp ước lượng cho phép tính toán chuỗi sai số tổng hợp Vit = Ci + Uit.
TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành sắc lệnh quyết định thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, đây là ngân hàng dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đảm nhiệm hai vai tròđó là ngân khố và đồng thời là ngân hàng Đến năm 1975, hệ thống ngân hàng cả nước đã được tổ chức theo hệ thống ngân hàng một cấp bao gồm Ngân hàng trung ương và các chi nhánh Hình thức tổ chức này kéo dài đến năm 1988, hệ thống ngân hàng mới được chuyển đồi thành hệ thống hai cấp. Trước yêu cầu chuyển đổi nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, năm 1990, Chính phủ ban hành 2 pháp lệnh làm nền móng pháp lý cho hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức tương tự như hệ thống ngân hàng ở các nước phát triển, bao gồm Ngân hàng Nhà nước và các TCTD, trong đó có NHTM Hai pháp lệnh này đã góp phần đa dạng hóa hoạt động ngân hàng về mặt hình thức sở hữu cũng như số lượng ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) chủ yếu thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng, đóng vai trò trung gian tài chính Sau hơn 20 năm phát triển, hệ thống NHTM đã đóng góp lớn vào việc chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang kinh doanh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Từ 9 ngân hàng vào năm 1995, số lượng NHTM đã tăng nhanh chóng, đạt 93 ngân hàng vào cuối năm 2015 (sbv.gov.vn, 2015) Mặc dù số lượng ngân hàng gia tăng, quy mô và sức cạnh tranh của các ngân hàng vẫn còn hạn chế, dẫn đến việc hệ thống NHTM trải qua các giai đoạn tái cơ cấu vào năm 2001 và giai đoạn 2011-2015, gây ra biến động trong số lượng ngân hàng trong những năm này.
Giai đoạn 2016-2018, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã thực hiện các giải pháp tái cơ cấu, tạo nền tảng vững chắc cho Đề án Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu Các ngân hàng thương mại đã bước vào thời kỳ củng cố và nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như công nghệ ngân hàng.
Trường Đại học Kinh tế Huế đang nỗ lực nâng cao sức cạnh tranh và củng cố nội lực để tiếp cận các thị trường quốc tế Tính đến cuối năm 2018, hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam có tổng cộng 95 ngân hàng, trong đó bao gồm 07 ngân hàng có vốn Nhà nước, với 01 ngân hàng 100% vốn Nhà nước, 03 ngân hàng do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, 03 ngân hàng thương mại cổ phần được Nhà nước mua lại với giá 0 đồng, 28 ngân hàng thương mại cổ phần, 09 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 02 ngân hàng liên doanh và 49 chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Bảng2.1: Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam năm 2018
NHTM có vốn Nhà nước 7
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 9
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 49
(Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016 – 2018
2.2.1 Tình hình tài sản của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2016 - 2018
Tình hình tài sản của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2016 – 2018 được thể hiện qua số liệu bảng 2.2.
Năm 2016 là năm mở đầu, tạo nền tảng phát triển quan trọng cho giai đoạn
Tính đến cuối tháng 12/2016, tổng tài sản của toàn hệ thống ngân hàng đạt 8.272,7 nghìn tỷ đồng, trong đó ngân hàng thương mại nhà nước chiếm 4.021,55 nghìn tỷ đồng, ngân hàng thương mại cổ phần là 3.422,83 nghìn tỷ đồng, và ngân hàng liên doanh, nước ngoài đạt 828,32 nghìn tỷ đồng Năm 2017, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng, kết hợp với việc xử lý nợ xấu để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng.
Trường Đại học Kinh tế Huế đã thực hiện thanh tra, giám sát và hoàn thiện hành lang pháp lý về an toàn trong hoạt động ngân hàng và quản trị rủi ro, góp phần nâng cao năng lực tài chính và quy mô hoạt động của các tổ chức tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế Cụ thể, tổng tài sản của toàn hệ thống ngân hàng đã tăng 1.455,7 nghìn tỷ đồng, tương đương 17,6% so với năm 2016 Trong đó, nhóm ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước ghi nhận mức tăng mạnh nhất với 724,19 nghìn tỷ đồng (18,01%), tiếp theo là nhóm ngân hàng thương mại cổ phần với mức tăng 605,67 nghìn tỷ đồng (17,69%), và nhóm ngân hàng liên doanh, nước ngoài tăng 125,84 nghìn tỷ đồng (15,19%).
Năm 2018, năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) đã có sự cải thiện đáng kể, với tổng tài sản toàn hệ thống tăng 1.022,42 nghìn tỷ đồng, tương ứng với mức tăng 10,51% so với năm 2017 Trong đó, nhóm NHTM có vốn Nhà nước ghi nhận mức tăng 313,49 nghìn tỷ đồng (6,61%), trong khi nhóm NHTM cổ phần dẫn đầu với mức tăng 526,48 nghìn tỷ đồng (13,07%) Đặc biệt, nhóm NHTM liên doanh và nước ngoài dù có mức tăng tổng tài sản nhỏ nhất với 182,5 nghìn tỷ đồng, nhưng lại đạt tỷ lệ tăng trưởng 19,12%, vượt trội hơn so với hai nhóm còn lại.
Bảng 2.2: Tình hình tổng tài sản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2016 – 2018 Đơn vịtính: Nghìn tỷ đồng
NHTM có vốn Nhà nước 4.021,55 4.745,74 5.059,23 724,19 18,01 313,49 6,61
Trường Đại học Kinh tế Huế
NHTM liên doanh, nước ngoài 828,32 954,17 1136,61 125,84 15,19 182,45 19,12
(Nguồn: Ngân hàngNhà nước Việt Nam)
2.2.2 Tình hình vốn tự có của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2016 - 2018
Theo số liệu từ bảng 2.3, năm 2016, tổng vốn tự có của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đạt 614.605 tỷ đồng, trong đó nhóm NHTM có vốn Nhà nước chiếm 229.499 tỷ đồng, nhóm NHTM cổ phần là 254.151 tỷ đồng, và nhóm NHTM liên doanh, nước ngoài là 130.955 tỷ đồng Đến năm 2017, tổng vốn tự có tăng trưởng 11,8%, tương ứng với 72.514 tỷ đồng Cụ thể, nhóm NHTM có vốn Nhà nước tăng 25.156 tỷ đồng (10,96%), nhóm NHTM cổ phần ghi nhận mức tăng lớn nhất với 36.475 tỷ đồng (14,35%), trong khi nhóm NHTM liên doanh, nước ngoài tăng 10.883 tỷ đồng (8,31%) so với năm trước.
Năm 2018, vốn tự có của toàn hệ thống ngân hàng tăng 82.527 tỷ đồng, tương ứng với 12,01% so với năm 2017 Nhóm ngân hàng thương mại nhà nước ghi nhận mức tăng 13.944 tỷ đồng, tương đương 5,48% Trong khi đó, nhóm ngân hàng thương mại cổ phần có mức tăng trưởng ấn tượng nhất với 47.557 tỷ đồng, đạt 16,36% Cuối cùng, nhóm ngân hàng liên doanh và nước ngoài cũng tăng vốn tự có 21.026 tỷ đồng, tương ứng với 14,82% so với năm trước.
Bảng2.3: Vốn tự có của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2016 – 2018 Đơn vịtính: Tỷ đồng
Nhà nước 229.499 254.655 268.599 25.156 10,96 13.944 5,48 NHTM Cổ phần 254.151 290.626 338.183 36.475 14,35 47.557 16,36
NHTM liên doanh,nước ngoài
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
2.2.3 Kết quả hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2016 - 2018
2.2.3.1 T ỷ su ấ t sinh l ợ i trên t ổ ng tài s ả n (ROA)
Tình hình tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) giai đoạn 2016-2018 cho thấy sự cải thiện đáng kể Năm 2016, nhờ vào các giải pháp mạnh mẽ về thanh tra, giám sát và tái cơ cấu, tâm lý thị trường ổn định, ROA của NHTM có vốn Nhà nước đạt 0,59%, NHTM cổ phần 0,39%, và NHTM liên doanh, nước ngoài cao nhất với 0,8% Đến năm 2017, các NHTM tiếp tục nâng cao năng lực quản trị, thoái vốn các khoản đầu tư kém hiệu quả và cơ cấu lại danh mục đầu tư, hướng tới sự an toàn và hiệu quả hơn.
Trường Đại học Kinh tế Huế đang tích cực ứng dụng công nghệ thông tin và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng Năm nay, Moody’s đã nâng mức đánh giá triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ “ổn định” lên “tích cực” Theo tạp chí The Asian Banker, có 15 ngân hàng thương mại Việt Nam nằm trong danh sách 500 ngân hàng mạnh nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương Nhờ đó, chỉ số ROA của hệ thống ngân hàng thương mại đã cải thiện so với năm 2016, trong đó nhóm ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng liên doanh, nước ngoài đều ghi nhận ROA tăng lần lượt 0,36% và 0,21%, mặc dù nhóm ngân hàng có vốn nhà nước giảm nhẹ 0,01%.
Năm 2018, các tổ chức tín dụng (TCTD) ghi nhận kết quả kinh doanh tích cực với hoạt động tín dụng tăng trưởng mạnh mẽ Lãi thuần từ hoạt động tín dụng là yếu tố chính đóng góp vào tổng lợi nhuận, bên cạnh sự phát triển của dịch vụ phi tín dụng và kinh doanh ngoại hối Cụ thể, nhóm ngân hàng thương mại (NHTM) có vốn nhà nước đạt ROA 0,7%, tăng 0,12% so với năm trước; nhóm NHTM cổ phần đạt ROA 1%, tăng 0,25%; và nhóm NHTM liên doanh, nước ngoài đạt ROA cao nhất hệ thống với 1,1%, tăng nhẹ 0,09% so với năm 2017.
Bảng2.4: Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2016 – 2018 Đơn vị tính: %
NHTM liên doanh, nước ngoài
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
Trường Đại học Kinh tế Huế
2.2.3.2 T ỷ su ấ t sinh l ợ i trên v ố n ch ủ s ở h ữ u (ROE)
Theo dữ liệu từ bảng 2.5, năm 2016, nhóm ngân hàng thương mại (NHTM) có vốn Nhà nước đạt tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) cao nhất với 9,78%, tiếp theo là nhóm NHTM cổ phần với 5,44% và nhóm NHTM liên doanh, nước ngoài với 4,91% Hệ số ROE của toàn hệ thống trong năm 2016 được đánh giá là chấp nhận được, đặc biệt sau giai đoạn sáp nhập và mua bán giữa các NHTM từ năm 2011-2015 Đến năm 2017, chỉ số ROE của toàn hệ thống đã cải thiện rõ rệt, trong đó ROE của nhóm NHTM có vốn Nhà nước tăng 2,25% lên 12,03%, nhóm NHTM cổ phần tăng mạnh nhất với 4,77% đạt 10,21%, và nhóm NHTM liên doanh, nước ngoài tăng 1,61% lên 6,52%.
Năm 2018, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) ghi nhận kết quả kinh doanh tích cực với sự tăng trưởng mạnh mẽ trong hoạt động tín dụng, đóng góp chủ yếu vào lợi nhuận tổng Nhóm NHTM có vốn Nhà nước đạt ROE 12,3%, tăng 0,27% so với năm 2017 Trong khi đó, nhóm NHTM cổ phần có mức tăng ROE ấn tượng 2,59%, trở thành nhóm ngân hàng có chỉ số ROE cao nhất trong toàn hệ thống Nhóm NHTM liên doanh và nước ngoài cũng có chỉ số ROE đạt 7,6%, tăng 1,08% so với năm trước.
Bảng 2.5: Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2016 - 2018 Đơn vịtính: %
NHTM có vốn Nhà nước 9,78 12,03 12,3 2,25 0,27
Trường Đại học Kinh tế Huế
NHTM liên doanh, nước ngoài 4,91 6,52 7,6 1,61 1,08
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
2.2.4 Tình hình tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2016 – 2018
Năm 2016, vốn huy động trên thị trường tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là ở các khoản tiền gửi có kỳ hạn, với tỷ lệ khả năng chi trả đảm bảo Tuy nhiên, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của nhóm ngân hàng thương mại (NHTM) có vốn Nhà nước và nhóm NHTM cổ phần lần lượt chỉ đạt 9,92% và 11,8%, thấp hơn nhiều so với nhóm NHTM liên doanh và nước ngoài với 33,2% Điều này cho thấy nhóm NHTM liên doanh và nước ngoài tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn vốn Đến năm 2017, tỷ lệ CAR của toàn hệ thống NHTM giảm, với nhóm NHTM có vốn Nhà nước đạt 9,5%, giảm 0,4%; nhóm NHTM cổ phần đạt 11,47%, giảm 0,33%; và nhóm NHTM liên doanh, nước ngoài giảm mạnh nhất với 4,09%, nhưng vẫn giữ tỷ lệ CAR cao nhất là 29,11%.
Năm 2018, tỷ số CAR của toàn hệ thống ngân hàng tiếp tục giảm so với năm 2017, với nhóm NHTM có vốn Nhà nước giảm 0,02% xuống còn 9,5% Tương tự, nhóm NHTM cổ phần cũng giảm 0,27% tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu, đạt 11,2% Đặc biệt, nhóm NHTM liên doanh và nước ngoài hạ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu xuống còn 25,9%, giảm 3,21% so với năm trước Tổng thể, trong ba năm từ 2016 đến 2018, xu hướng giảm tỷ lệ CAR của các nhóm ngân hàng là rõ rệt.
Năm 2018, tỷ lệ CAR của toàn hệ thống ngân hàng thương mại giảm, điều này đòi hỏi cần có những chính sách mạnh mẽ hơn để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đạt tiêu chuẩn Basel II.
Trường Đại học Kinh tế Huế
Bảng 2.6: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2016 – 2018 Đơn vị tính: %
NHTM có vốn Nhà nước 9,92 9,52 9,5 -0,40 -0,02
NHTM liên doanh, nước ngoài 33,2 29,11 25,9 -4,09 -3,21
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
2.2.5 Tình hình tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2016 – 2018
Năm 2016, thanh khoản của hệ thống NHTM ổn định, tín dụng trung và dài hạn tăng nhanh để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, với tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của NHTM Nhà nước là 37,32% và NHTM cổ phần là 39,93%, đều trong mức cho phép của Ngân hàng Nhà nước Tuy nhiên, đến năm 2017, nhờ các giải pháp quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước trong việc cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn giảm đáng kể Cụ thể, tỷ lệ này của NHTM Nhà nước giảm 3,88% xuống 33,44%, trong khi NHTM cổ phần giảm 5,46% xuống 34,47%.
Trường Đại học Kinh tế Huế ghi nhận tỷ lệ cho vay trung dài hạn âm ở mức -6,31%, cho thấy mức độ rủi ro thanh khoản thấp Điều này có thể chỉ ra rằng nhóm ngân hàng thương mại này đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm đầu ra phù hợp cho nguồn vốn dài hạn.
ĐO LƯỜNG SỰ ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.3.1 Tổng quan mẫu nghiên cứu Đề tài được thực hiện dựa trên mẫu 19 NHTM tại Việt Nam hoạt động liên tục trong giai đoạn 2014 – 2018 Dữ liệu thứ cấp dùng để tính toán các biến trong mô hình nghiên cứu đượcthu thập và tổng hợp từ Báo cáo tài chính đãđược kiểm toán của
19 ngân hàng này Dữ liệu được xắp sếp dưới dạng bảng với 95 quan sát Kết quả thống kê mô tảcủa các biến được tổng hợp ở bảng 2.8.
Bảng 2.8: Thống kê mô tả các biến của mô hình nghiên cứu
Biến số Số quan sát Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn
(Nguồn: Tính toán của tác giả)
Theo số liệu từ bảng 2.8, giá trị trung bình Z-score của các ngân hàng trong nghiên cứu đạt 37,03421, cho thấy ngân hàng có sự ổn định tài chính cao nhất.
Trường Đại học Kinh tế Huế đã chỉ ra rằng vào năm 2014, ngân hàng SHB đạt Z-score cao nhất là 91,88624, trong khi ngân hàng VPB ghi nhận Z-score thấp nhất là 9,366592 Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) trung bình của các ngân hàng trong nghiên cứu đạt gần 9,19%, cho thấy ngành ngân hàng mang lại lợi nhuận hàng năm cao cho cổ đông so với các ngành khác Hơn nữa, tỷ lệ dư nợ trên tổng tài sản trung bình là 5,95%, với BIDV có tỷ lệ cao nhất là 75,3% vào năm 2018, trong khi MSB có tỷ lệ thấp nhất là 22,52%.
Vào năm 2014, MSB ghi nhận tỷ lệ dư nợ trên tiền gửi thấp nhất với 37,19%, trong khi ngân hàng VPB đạt tỷ lệ cao nhất là 136,78% vào năm 2017, với giá trị trung bình chỉ 85,4% Chỉ số quy mô ngân hàng (SIZE) có giá trị trung bình là 32,7, với BIDV là ngân hàng lớn nhất vào năm 2018 và SGB là ngân hàng nhỏ nhất năm 2014 Về chỉ số NIM, VPB dẫn đầu vào năm 2018 với 8,17%, trong khi VIETBANK có chỉ số thấp nhất chỉ 0,8% vào năm 2015 Cuối cùng, tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận sau thuế trung bình của mẫu nghiên cứu là 65%, với STB đạt mức tăng trưởng ấn tượng 1482% vào năm 2017, ngược lại, VIETBANK năm 2014 ghi nhận mức giảm kỷ lục là -891,4%.
2.3.1 Đo lường sự ổn định tài chính của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam bằng Z-score
Dựa trên công thức Z-score của Bourkhis và Nabi (2013) cùng Beck và cộng sự (2013), tác giả đã tính toán chỉ số Z-score cho 19 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2014 – 2018, sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính đã kiểm toán Kết quả cho thấy ngân hàng SHB có chỉ số Z-score cao nhất là 91,88624 vào năm 2014, trong khi ngân hàng VPB ghi nhận chỉ số thấp nhất là 9,366592 cùng năm Trung bình Z-score của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn này đạt 37,03, cao hơn mức 32,65 trong giai đoạn 2005-2013 (Hoàng Công Gia Khánh & Trần Hùng Sơn, 2015) So với các nghiên cứu quốc tế, mức Z-score bình quân 37,03 của Việt Nam cũng vượt qua mức 30,59 của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong giai đoạn 2003-2009.
Trường Đại học Kinh tế Huế
Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã có sự cải thiện về tính ổn định trong những năm gần đây, nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình của 12 quốc gia Châu Á (41,78) trong giai đoạn 2001-2007 và mức 46,50 của các NHTM thuộc khối OECD (1994-2004) So với các ngân hàng ổn định ở Châu Âu (86,57) trong giai đoạn 2008-2011, NHTM Việt Nam vẫn cho thấy sự bất ổn định hơn Mặc dù đã có những tiến bộ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, nhưng hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn cần cải thiện để đạt được sự ổn định tương tự như các nền kinh tế phát triển khác.
Hình 2.1: Z-score bình quân của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2014 – 2018
Trong giai đoạn 2014 – 2018, chỉ số Z-score của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã trải qua sự biến động đáng kể Bắt đầu với mức cao 39,40 điểm vào năm 2014, chỉ số này giảm dần xuống còn 38,36 điểm vào năm 2015 và 36,88 điểm vào năm 2016 Đến năm 2017, chỉ số tiếp tục giảm mạnh xuống còn 34,53 điểm và giữ ổn định trong năm cuối cùng của giai đoạn Xu hướng giảm của chỉ số Z-score cho thấy rằng hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam vẫn đang trong quá trình hoàn thiện các cơ chế và chính sách quản lý.
Trường Đại học Kinh tế Huế
Hình 2.2: Z-score của các NHTM Việt Nam bình quân giai đoạn 2014 – 2018
(Nguồn: Tính toán của tác giả) Hình 2.2 mô tả chỉ số Z-score trung bình của 19 ngân hàng các năm từ 2014 –
2018, trong đó5 ngân hàng có Z-score cao nhất là PGBank với 84,1 điểm, tiếp theo là
Trong nghiên cứu, bốn ngân hàng STB, BID, MSB, CTG lần lượt có Z-score là 81,78; 58,27; 53,32; 51,09 Ngân hàng có Z-score bình quân thấp nhất là VIETBANK với chỉ số 12,08, do lợi nhuận năm 2014 giảm mạnh khiến ROA âm và độ lệch chuẩn SDROA tăng cao, dẫn đến sự ổn định tài chính thấp trong 5 năm Ngược lại, PGBank có độ lệch chuẩn ROA thấp và tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản EA duy trì từ 12-14%, giúp ngân hàng này đạt Z-score cao nhất trong mẫu nghiên cứu.
Trường Đại học Kinh tế Huế
2.3.1.1 So sánh s ự ổn đị nh tài chính c ủ a hai nhóm ngân hàng có hình th ứ c s ở h ữ u khác nhau
Hình 2.3: Z-score bình quân của NHTM có vốn nhà nước và NHTM tư nhân
Hình 2.3 thể hiện chỉ số Z-score bình quân của các ngân hàng có vốn nhà nước và không có vốn nhà nước Trong số 19 ngân hàng, có 3 ngân hàng thuộc khối NHTM có vốn nhà nước (CTG, VCB, BID) và 16 ngân hàng còn lại thuộc khối NHTM tư nhân Trong suốt giai đoạn nghiên cứu, chỉ số Z-score của cả hai nhóm đều có xu hướng giảm, nhưng nhóm ngân hàng có vốn nhà nước duy trì sự ổn định tài chính cao hơn Cụ thể, năm 2014, chỉ số Z-score bình quân của NHTM có vốn nhà nước là 55,54, trong khi của NHTM tư nhân là 36,38 Năm 2015, chỉ số Z-score của NHTM có vốn nhà nước giảm mạnh xuống 49,93, trong khi NHTM tư nhân không có sự thay đổi đáng kể Tình trạng này tiếp tục diễn ra vào năm 2016, với chỉ số của NHTM có vốn nhà nước giảm xuống 44,67 và NHTM tư nhân giảm nhẹ xuống 35,42 Đặc biệt, năm 2017, chỉ số Z-score của cả hai nhóm chạm đáy, lần lượt là 40,23 và 33,46, trước khi tăng nhẹ vào năm 2018, đạt 41,7 và 34,93.
NHTM có vốn NN NHTM tư nhân
Trường Đại học Kinh tế Huế cho thấy rằng trong giai đoạn 2014 – 2018, sự ổn định tài chính của hai nhóm ngân hàng có hình thức sở hữu khác nhau là tương đồng, nhưng nhóm ngân hàng có sự sở hữu của nhà nước luôn có chỉ số Z-score bình quân cao hơn Điều này chỉ ra rằng hình thức sở hữu ảnh hưởng đáng kể đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Cụ thể, các ngân hàng có vốn nhà nước thường lớn hơn và lâu đời hơn, dẫn đến rủi ro tín dụng và thanh khoản thấp hơn so với nhóm ngân hàng tư nhân Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Hammami & Boubaker (2015), khi Z-score của nhóm ngân hàng nhà nước đạt 133,21, trong khi nhóm ngân hàng tư nhân chỉ đạt 52,99.
2.3.1.2 So sánh s ự ổn đị nh tài chính c ủ a các ngân hàng niêm y ết và chưa niêm yế t trên sàn ch ứ ng khoán
Theo dữ liệu cập nhật từ finance.vietstock.vn vào ngày 21/02/2020, có 12 ngân hàng niêm yết trên hai sàn HOSE và HNX, bao gồm BID, CTG, VCB, ACB, MBB, EIB, HDB, TCB, TPB, VPB, SHB và STB, trong khi các ngân hàng còn lại chưa niêm yết Biểu đồ cho thấy chỉ số Z-score trung bình của nhóm ngân hàng niêm yết và chưa niêm yết có xu hướng giảm từ 2014 đến 2018, với nhóm chưa niêm yết có Z-score cao hơn Cụ thể, Z-score trung bình của nhóm niêm yết năm 2014 là 37,91, giảm dần và đạt 35,1 vào năm 2018, trong khi nhóm chưa niêm yết duy trì ổn định từ 41,96 đến 42,35 trong ba năm đầu, trước khi giảm mạnh xuống 37,29 vào năm 2017 và ổn định ở mức 37,54 vào năm 2018.
Hình 2.4: Bình quân chỉ số Z-score của các ngân hàng niêm yết và chưa niêm yết giai đoạn 2014 – 2018
Đồ thị trong hình 2.4 cho thấy rằng các ngân hàng thương mại (NHTM) niêm yết trên thị trường chứng khoán không nhất thiết đảm bảo sự ổn định như nhóm còn lại Mặc dù niêm yết mang lại nhiều lợi ích như khả năng huy động vốn lớn, tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu, quảng bá thương hiệu và nâng cao uy tín, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho NHTM Việt Nam Theo quy định công bố thông tin, tất cả tổ chức tín dụng đều là công ty đại chúng lớn, buộc phải thực hiện công bố thông tin về quản trị công ty Các tổ chức tín dụng này đều phải chịu sự quản lý chặt chẽ từ Ngân hàng Nhà nước, yêu cầu báo cáo tài chính và hoạt động thường xuyên Khi niêm yết, hoạt động kinh doanh của ngân hàng phải minh bạch hơn với công chúng và nhà đầu tư, tạo ra áp lực lớn từ cơ quan quản lý, cổ đông và thị trường.
NHTM niêm yết NHTM không niêm yết
Trường Đại học Kinh tế Huế cho rằng các ngân hàng niêm yết hiện nay phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về minh bạch thông tin, điều này nhằm điều chỉnh các chỉ số tài chính và nợ xấu Ban lãnh đạo và cổ đông ngân hàng đang chịu áp lực lớn về kết quả hoạt động kinh doanh, đồng thời phải nâng cao hiệu quả sản xuất để duy trì giá cổ phiếu Diễn biến gần đây trên thị trường chứng khoán cho thấy việc giao dịch cổ phiếu đã làm thay đổi cơ cấu cổ đông, dẫn đến sự mất ổn định trong quản lý ngân hàng và đe dọa quyền kiểm soát của cổ đông lớn Những yêu cầu và hoạt động của các ngân hàng niêm yết có thể tạo ra sự bất ổn, trong khi thách thức và rủi ro gia tăng trong một thị trường chứng khoán chưa phát triển toàn diện như Việt Nam, bao gồm áp lực công khai thông tin và các rủi ro liên quan.
2.3.2 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2014 – 2018
Nghiên cứu đã kiểm tra khả năng xuất hiện đa cộng tuyến giữa các biến số thông qua ma trận hệ số tương quan, như trình bày trong bảng 2.9 Hệ số tương quan phản ánh mức độ quan hệ tuyến tính giữa hai biến mà không phân biệt biến phụ thuộc hay độc lập Kết quả hồi quy cho thấy hệ số tương quan giữa các biến độc lập trong ma trận đều nhỏ hơn 70%, điều này cho thấy mức độ tương quan giữa các biến độc lập là không cao, từ đó giảm thiểu khả năng xuất hiện đa cộng tuyến trong mô hình hồi quy.
Trường Đại học Kinh tế Huế
Bảng 2.9: Ma trận tương quan giữa các biến số
| Zscore ROE DNTG DNTTS EA SIZE NIM EAT -+ - Zscore | 1,0000
(Nguồn:Kết quả tính toán từphần mềm Stata 13)
Kết quả hồi quy từ các mô hình xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố ngân hàng đến sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam cho thấy, trong mô hình hồi quy Pool, có 2 biến EA và NIM có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, cùng với 2 biến SIZE và DNTG có ý nghĩa thống kê ở mức 5% Tất cả bốn biến này đều mang dấu tương quan đúng như kỳ vọng của tác giả Tuy nhiên, mô hình hồi quy Pool chỉ đạt R-bình phương điều chỉnh 25,81%, cho thấy các biến độc lập chỉ giải thích được 25,81% sự thay đổi của biến phụ thuộc.