PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Sự cần thiết phát triển tín dụng ngân hàng đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Mở rộng mạng luới cấp tín dụng trên cơ sở đó tăng khả năng tiếp cận và làm đa dạng hóa đối tuợng khách hàng.
- Phát triển thêm các hình thức cho vay
- Tăng tỷ trọng tín dụng đối với DNNVV trong tổng du nợ
- Tiến hành mở rộng thị phần cho vay đối với DNNVV
- Bảo đảm chất luợng của các khoản cho vay, giảm nợ xấu, nợ quá hạn
Chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp nhằm xây dựng phương án kinh doanh hiệu quả nhất, từ đó nâng cao chất lượng và tính an toàn của các khoản vay.
1.3.2 Sự cần thiết phát triển tín dụng ngân hàng đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và áp lực cạnh tranh gia tăng từ các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam cần tiến hành đổi mới toàn diện, đặc biệt trong hoạt động tín dụng Hoạt động tín dụng không chỉ chiếm tỷ trọng lớn (70% - 80%) trong tổng tài sản có sinh lời mà còn là nguồn thu nhập chính cho các ngân hàng Việt Nam.
Mặc dù quy mô hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) không lớn, nhưng số lượng đông đảo của họ tạo ra một nguồn khách hàng tiềm năng cho ngân hàng Những giao dịch vay vốn của các DNNVV, dù không lớn, vẫn mang lại lợi nhuận đáng kể cho các tổ chức tài chính.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ngày càng trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu Chúng đóng vai trò then chốt trong việc huy động nguồn lực đầu tư, tạo ra công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân và góp phần tăng trưởng GDP.
Mở rộng cho vay không chỉ gia tăng số lượng khách hàng và dư nợ mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng tăng doanh thu và lợi nhuận Việc thiết lập mối quan hệ với nhiều đối tượng khách hàng giúp ngân hàng thu thêm từ các dịch vụ cung cấp Hơn nữa, đa dạng hóa đối tượng khách hàng còn giúp giảm thiểu rủi ro, từ đó góp phần nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng.
Mở rộng cho vay giúp ngân hàng thương mại phân tán rủi ro, đồng thời đảm bảo lợi nhuận cao nhất và độ an toàn tối ưu Việc cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) với quy mô nhỏ và số lượng lớn không chỉ giảm thiểu rủi ro mà còn hạn chế việc tập trung vốn vào một khách hàng duy nhất.
Mở rộng cho vay là yếu tố quan trọng giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) nâng cao hiệu quả hoạt động Để đạt được điều này, NHTM cần có hệ thống thông tin chính xác và nhanh chóng, đội ngũ nhân viên có trình độ cao, cùng với trang thiết bị kỹ thuật hiện đại Do đó, các ngân hàng cần thường xuyên cải tiến và hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Ngân hàng mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là giải pháp phù hợp với xu thế phát triển kinh tế và chủ trương của Đảng và Nhà nước Điều này không chỉ giúp các ngân hàng xây dựng cơ cấu khách hàng hợp lý mà còn thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, đa dạng hóa danh mục đầu tư cho vay, phân tán rủi ro và tăng thu nhập, từ đó nâng cao vị thế cạnh tranh của các ngân hàng trên thị trường.
Hoạt động tín dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhưng cũng mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng Để giảm thiểu rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận, ngân hàng cần đa dạng hóa đối tượng khách hàng Mở rộng tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) giúp ngân hàng phân tán rủi ro và sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh Ngoài ra, ngân hàng còn có cơ hội phát triển các dịch vụ đi kèm như tư vấn, thanh toán và bảo lãnh.
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp, cho phép họ lựa chọn giữa vốn tự có và vốn vay để thực hiện các quyết định đầu tư Tuy nhiên, nhu cầu vay vốn thường không được đáp ứng đầy đủ, và quy mô khoản vay phụ thuộc vào điều kiện của doanh nghiệp cũng như các quy định của ngân hàng và pháp luật Nếu doanh nghiệp vay quá nhiều, chi phí lãi suất sẽ tăng, dẫn đến giá sản phẩm cao hơn và ảnh hưởng đến lợi nhuận Do đó, việc xây dựng cơ cấu vốn tối ưu là cần thiết để kết hợp hiệu quả các nguồn tài trợ, nhằm tối đa hóa giá trị thị trường của doanh nghiệp với chi phí vốn thấp nhất.
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) từ giai đoạn khởi sự cho đến quá trình phát triển Nếu không có nguồn vốn này, DNNVV sẽ gặp khó khăn trong việc đầu tư cơ sở vật chất và công nghệ, dẫn đến hiệu suất sản xuất thấp và thiếu khả năng cạnh tranh trên thị trường Để duy trì hoạt động liên tục, DNNVV cần có đủ vốn cho nhu cầu sản xuất, trong khi nguồn vốn tự có và vay không chính thức thường hạn chế Do đó, tín dụng ngân hàng trở thành giải pháp thiết yếu, không chỉ giúp DNNVV ổn định hoạt động mà còn hỗ trợ mở rộng sản xuất và phát triển các ngành nghề mũi nhọn.
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trên thị trường Đặc điểm nổi bật của tín dụng ngân hàng không chỉ là cung cấp vốn mà còn yêu cầu doanh nghiệp phải hoàn trả gốc và lãi đúng hạn Do đó, các doanh nghiệp cần tối ưu hóa việc sử dụng vốn vay để đạt hiệu quả cao nhất Ngân hàng sẽ chỉ cấp tín dụng sau khi đã thẩm định kỹ lưỡng về tính khả thi và hiệu quả của dự án kinh doanh Vì vậy, ngay từ giai đoạn lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần nghiên cứu và phân tích để tăng cường tính khả thi và củng cố niềm tin với ngân hàng Hơn nữa, trong quá trình cấp tín dụng, ngân hàng cũng hỗ trợ doanh nghiệp đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, từ đó tối đa hóa lợi nhuận Công tác kiểm tra định kỳ của ngân hàng cũng thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động minh bạch và tuân thủ pháp luật, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh lành mạnh của DNNVV trên thị trường.
Để doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ra đời, tồn tại và phát triển, sự hỗ trợ từ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ tín dụng, là vô cùng cần thiết Việc mở rộng tín dụng ngân hàng cho DNNVV không chỉ quan trọng mà còn phù hợp với chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc tăng cường hỗ trợ phát triển DNNVV trong thời kỳ đổi mới.
Đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đang gặp khó khăn về vốn để sản xuất, mở rộng quy mô và cải tiến thiết bị Việc mở rộng tín dụng ngân hàng sẽ tạo cơ hội cho DNNVV tiếp cận nguồn vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, lạm phát và chi phí đầu vào tăng cao, nhiều DNNVV không đủ vốn để thực hiện kế hoạch kinh doanh và đầu tư, dẫn đến tình trạng dang dở Do đó, phát triển tín dụng từ các ngân hàng thương mại (NHTM) là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại của DNNVV.
1.3.2.3 Đối với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng đối với DNNVV không chỉ thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp mà còn gia tăng thu ngân sách Nhà nước thông qua thuế và nghĩa vụ khác Việc mở rộng tín dụng buộc các ngân hàng tối ưu hóa năng lực và tìm kiếm biện pháp huy động vốn, qua đó tập trung và tích tụ nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội Điều này giúp khai thác tối ưu mọi nguồn lực về vốn, phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
GIỚI THIỆU VỀ SỞ GIAO DỊCH - NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
Tình hình hoạt động kinh doanh của Sở Giao Dịch - Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
2.1.3.1 Tình hình huy động vốn
Nguồn vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
NH đóng vai trò quan trọng trong quy mô tín dụng, khả năng thanh toán và cạnh tranh giữa các ngân hàng Tại Hà Nội, các ngân hàng đang hoạt động với lãi suất và chính sách ưu đãi rất cạnh tranh, tạo áp lực lớn trong việc thu hút nguồn vốn tiền gửi Hiện tại, NHNN áp dụng mức trần lãi suất huy động, với lãi suất tối đa cho tiền gửi VNĐ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là 1%/năm, từ 1 tháng đến dưới 6 tháng là 5,5% Đối với tiền gửi USD, lãi suất tối đa là 0,25%/năm cho tổ chức và 0,75%/năm cho cá nhân, khiến nhiều người e ngại khi gửi tiền để hưởng lãi Nguồn thu chính của các ngân hàng tại Việt Nam đến từ hoạt động tín dụng, do đó, để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, ngân hàng cần có nguồn vốn ổn định và thường mở rộng huy động vốn qua nhiều kênh như tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay NHNN và thị trường liên ngân hàng, cùng với các hoạt động tiếp thị và chương trình khuyến mãi để thu hút người dân gửi tiền.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của huy động vốn trong lĩnh vực ngân hàng, Sở Giao Dịch - Vietcombank đã ưu tiên công tác này ngay từ khi bắt đầu hoạt động, nhằm đảm bảo quy mô nguồn vốn phù hợp với kế hoạch đề ra.
Về quy mô nguồn vốn huy động được thể hiện như sau:
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn phân theo kỳ hạngiai đoạn 2011-2013 Đơn vị: tỷ đồng, triệu USD với năm trước với năm trước
HĐV từ nền kinh tế
Theo đối tượng từ TCKT 21.449,4
Tỷ lệ huy động vốn của Sở Giao Dịch (SGD) vẫn tiếp tục tăng, mặc dù gặp nhiều khó khăn do thu nhập của tổ chức và dân cư giảm, lãi suất hạ thấp cả ở VND và ngoại tệ Một số ngân hàng khác trên địa bàn đã áp dụng các hình thức khuyến mại, khiến lãi suất thực tế cao hơn mức trần do NHNN quy định, dẫn đến việc khách hàng chuyển tiền sang ngân hàng khác Thêm vào đó, SGD không được mở thêm phòng giao dịch nào trong năm 2013, hạn chế khả năng huy động vốn Tuy nhiên, do các kênh đầu tư khác như chứng khoán và bất động sản kém hấp dẫn, một phần vốn trong nền kinh tế đã chuyển sang gửi tại ngân hàng Cuối năm 2012, SGD huy động được 45.569,08 tỷ VNĐ, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2011, và đến 31/12/2013, con số này đạt 48.355,88 tỷ VNĐ, tăng 6,1% so với năm trước Sự gia tăng huy động vốn cho thấy uy tín của SGD - Vietcombank ngày càng được nâng cao, trở thành địa chỉ tin cậy cho khách hàng Đồng thời, SGD đã không ngừng đổi mới dịch vụ marketing, nâng cao chất lượng phục vụ và chính sách ưu đãi để thu hút khách hàng, củng cố nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh.
Huy động vốn bằng ngoại tệ có xu hướng giảm nhẹ, chiếm khoảng 37% - 42% tổng nguồn vốn huy động do lãi suất huy động ngoại tệ ngày càng giảm.
Huy động vốn không kỳ hạn đang gia tăng cả về số lượng và tỷ trọng, chiếm từ 16% đến 21% tổng vốn huy động Mặc dù đây là nguồn vốn giá rẻ, nhưng tính ổn định không cao Các ngân hàng, đặc biệt là SGD VCB, đang hướng tới việc tăng tỷ trọng loại tiền gửi này, đồng thời cân đối các kỳ hạn hợp lý nhằm tối ưu hóa lợi nhuận.
Huy động vốn từ dân cư và tổ chức kinh tế (TCKT) đã có sự tăng trưởng ổn định qua các năm Trong đó, vốn huy động từ TCKT chiếm khoảng 50% tổng vốn huy động của SGD, chủ yếu nhờ vào sự gia tăng tiền gửi từ 5 khách hàng lớn Tuy nhiên, các TCKT khác lại không có sự tăng trưởng đáng kể Đặc biệt, 5 khách hàng tiền gửi lớn nhất tại SGD bao gồm TCTy Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước và Quỹ Tích lũy.
Bộ Tài chính, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Quỹ thu dọn mỏ và Cty Thông tin di động VMS đã tổng hợp được 15.056,99 tỷ VND tiền gửi, chiếm 63% tổng vốn huy động.
Chỉ tiêu Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Thực hiện Thực hiện % tăng giảm so với năm
% tăng giảm so với năm trước
% động từ tổ chức kinh tế và chiếm 31% tổng vốn huy động của toàn SGD.
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng giai đoạn 2011-2013
(Nguồn: Báo cáo thường niên của SGD - VCB 2011 - 2013) 2.1.3.2 Tình hình cấp tín dụng của SGD
Hoạt động tín dụng là nguồn thu nhập chính của ngân hàng, đồng thời cũng là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro Vì vậy, sự phát triển tín dụng luôn được các ngân hàng thương mại chú trọng và quan tâm.
Bảng 2.2: Tình hình cấp tín dụng giai đoạn 2011-2013 Đơn vị: tỷ đồng, triệu USD
345,48 tỷ VNĐ tương đương 3,16% so với năm 2011 Đến 31/12/2013, tổng dư nợ của SGD là 11.331,80 tỷ VNĐ, tăng 68,52 tỷ VNĐ so với cùng kỳ năm
Năm 2012, SGD chú trọng vào hoạt động tín dụng và kiểm soát chất lượng tín dụng, nhưng gặp khó khăn do doanh nghiệp hạn chế đầu tư và cạnh tranh gay gắt từ các ngân hàng khác Đến năm 2013, SGD đã tiếp cận được một số dự án lớn, tạo tiền đề cho tăng trưởng dư nợ năm 2014, như dự án PVEP với 125,25 triệu USD và TCT điện lực miền Bắc với 900 tỷ đồng Đặc biệt, SGD đã phối hợp với HSC để triển khai dịch vụ quản lý dòng tiền cho TCT điện lực miền Bắc Đến cuối tháng 12, SGD đã giải ngân 409 tỷ đồng cho TCT điện lực miền Bắc và 102,26 tỷ đồng cho TCT thăm dò khai thác dầu khí, cho thấy nỗ lực lớn của SGD trong bối cảnh kinh tế khó khăn.
Tỷ lệ cho vay so với lượng vốn huy động của SGD vẫn còn thấp, với chỉ khoảng 25% vào năm 2012 và 23% vào năm 2013 Điều này cho thấy công tác sử dụng vốn của ngân hàng chưa đạt hiệu quả cao.
Thông tư số 03/2012/TT-NHNN ngày 8/3/2012 quy định về cho vay ngoại tệ của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng là người cư trú, có hiệu lực từ ngày 2/5/2012 Theo cơ chế mới, các tổ chức tín dụng được phép xem xét cho khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ cho các nhu cầu vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhằm thanh toán tiền nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, với điều kiện khách hàng có đủ ngoại tệ từ nguồn thu sản xuất - kinh doanh để trả nợ Thông tư này đã giới hạn đối tượng vay ngoại tệ nhằm đảm bảo tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng huy động và hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế, dẫn đến số lượng khách hàng đủ điều kiện vay ngoại tệ bị thu hẹp.
Theo thông tu 37/2012/TT-NHNN áp dụng từ đầu tháng 1/2013, chỉ có các doanh nghiệp có nguồn thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh bằng ngoại
Thực hiện Thực hiện tăng giảm so với năm trước
Việc vay ngoại tệ tại các ngân hàng chỉ được thực hiện khi có sự tăng giảm so với năm trước, ngoại trừ các doanh nghiệp vay để nhập khẩu xăng dầu, dẫn đến số lượng khách hàng vay ngoại tệ giảm Bên cạnh đó, lãi suất tiền đồng giảm mạnh gần đây khiến nhiều doanh nghiệp ưu tiên vay tiền đồng, từ đó làm giảm dư nợ ngoại tệ Tỷ lệ dư nợ ngoại tệ trên tổng dư nợ trong các năm 2011, 2012 và 2013 lần lượt là 45%, 36% và 21%.
Theo bảng số liệu, tỷ lệ cho vay ngắn hạn của ngân hàng chiếm khoảng 62% tổng dư nợ, cao hơn so với cho vay trung và dài hạn Trong bối cảnh nền kinh tế vẫn gặp nhiều khó khăn, việc xem xét kỹ lưỡng cho vay trung dài hạn là rất cần thiết.
Trong giai đoạn 2011-2013, dư nợ cho vay doanh nghiệp tại SGD VCB chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ, với 85% vào năm 2011 (9.279,45 tỷ VNĐ), 83% vào năm 2012 (9.368,99 tỷ VNĐ) và giảm xuống 78% vào năm 2013 (8.873,68 tỷ VNĐ) Sự giảm sút này phản ánh nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp hạn chế Để ứng phó, SGD VCB đã định hướng phát triển tín dụng cá nhân nhằm tiêu thụ vốn dư thừa, mở ra cơ hội lớn cho các ngân hàng trong việc khai thác thị trường tiềm năng này.
Trong bối cảnh nền kinh tế bất ổn, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về khả năng thanh toán, dẫn đến ảnh hưởng đến khả năng trả nợ Tính đến 31/12/2013, tổng dư nợ xấu đạt 580,19 tỷ đồng, với tỷ lệ nợ xấu tăng lên 5,12% so với năm 2012 Trong năm 2013, SGD đã thu hồi 91 tỷ đồng dư nợ đã xử lý DPRR và bán nợ 388,63 tỷ đồng cho VAMC Số dư quỹ dự phòng tính đến 31/12/2013 là 463,39 tỷ đồng.
2.1.3.3 Kết quả hoạt động kinh doanh
Giống như các tổ chức tài chính khác, ngân hàng luôn đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu trong hoạt động kinh doanh Để đạt được kết quả tốt, ngân hàng cần chú trọng đến doanh thu và chi phí, hai yếu tố chính cấu thành lợi nhuận Vì vậy, việc đảm bảo sự cân đối và hiệu quả giữa hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn là vô cùng quan trọng.
Bảng 2.3: Kết quả kinh doanh giai đoạn 2011-2013 Đơn vị: Tỷ đồng
(Nguồn :Báo cáo thường niên của SGD - VCB 2011 - 2013)
Tình hình tăng trưởng và cơ cấu cho vay đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa
> Tăng trưởng về quy mô dư nợ cho vay DNNVV
Bảng 2.5: Dư nợ tín dụng đối với DNNVV giai đoạn 2011-2013 Đơn vị: Tỷ đồng
Số tiền Số tiền % tăng giảm so với năm trước
Số tiền % tăng giảm so với năm trước
2 Dư nợ trung dài hạn
Theo số liệu, dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ Tuy nhiên, dư nợ với nhóm DNNVV đã tăng đều qua các năm, cụ thể năm 2012 đạt 718,31 tỷ đồng, tăng 28% so với năm trước.
Năm 2013, doanh số cho vay DNNVV đạt 978,01 tỷ đồng, tăng 36,2% so với năm trước, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh kinh tế khó khăn Tốc độ tăng trưởng cho vay DNNVV trong các năm 2012 và 2013 lần lượt là 29,9% và 45,3% Mặc dù nhiều doanh nghiệp phải ngừng hoạt động hoặc tuyên bố phá sản, SGD vẫn duy trì được sự tăng trưởng trong tín dụng cho nhóm khách hàng này, thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận trong việc phát triển tín dụng cho DNNVV.
Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng dư nợ tín dụng DNNVV giai đoạn 2011-2013
(Nguồn: Báo cáo phòng TD DNNVVSGD - VCB 2011-2013)
Từ biểu đồ, có thể thấy rằng tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã tăng từ 5,14% vào năm 2011 lên 6,38% vào năm 2012, và đạt 8,63% vào cuối năm 2013 trên tổng dư nợ của Sở Giao dịch Điều này cho thấy ngân hàng đang chú trọng phát triển và quan tâm nhiều hơn đến khối khách hàng DNNVV, với tỷ trọng dư nợ tín dụng của khối này ngày càng gia tăng.
> Dư nợ cho vay DNNVV theo kỳ hạn
Trong giai đoạn 2011-2013, dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có sự tăng trưởng đáng kể Cụ thể, vào ngày 31/12/2012, dư nợ ngắn hạn đạt 650,77 tỷ đồng, tăng 29,5% so với cùng kỳ năm trước Đến ngày 31/12/2013, con số này tăng lên 906,45 tỷ đồng, tương ứng với mức tăng 39,3% so với cuối năm 2012 Mặc dù tín dụng trung dài hạn cũng ghi nhận sự tăng trưởng, nhưng tốc độ tăng trưởng đã có dấu hiệu giảm dần qua các năm.
Tính đến ngày 31/12/2012, dư nợ tín dụng trung dài hạn của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đạt 67,54 tỷ đồng, tăng 15,7% so với năm trước Tuy nhiên, đến cuối năm 2013, mức tăng trưởng dư nợ trung dài hạn chỉ đạt 5,9%, cho thấy ngân hàng đang thận trọng hơn trong việc cấp tín dụng trung dài hạn cho DNNVV do lo ngại về rủi ro không thu hồi được vốn.
Số tiền Số tiền % tăng giảm so với năm trước
Số tiền % tăng giảm so với năm trước
Dư nợ Ngoại % tệ quy USD
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay DNVNN theo kỳ hạn giai đoạn 2011-2013
(Nguồn: Báo cáo phòng TD DNNVVSGD - VCB 2011-2013)
Cơ cấu cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) chủ yếu tập trung vào các khoản cho vay ngắn hạn, với tỷ lệ cho vay ngắn hạn tăng dần qua các năm Cụ thể, năm 2011, cho vay ngắn hạn chiếm 89,6% tổng dư nợ, năm 2012 tăng lên 90,6%, và đến năm 2013, tỷ lệ này đạt 92,7% Điều này cho thấy xu hướng gia tăng trong việc cung cấp vốn ngắn hạn cho DNNVV.
Có sự chênh lệch lớn trong tỷ trọng cho vay ngắn hạn và trung dài hạn này là do một số nguyên nhân sau:
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thường có quy mô sản xuất nhỏ và vòng quay vốn nhanh, do đó, họ thường cần vay vốn để bổ sung lượng vốn lưu động còn thiếu trong quá trình sản xuất.
Tỷ trọng cho vay trung dài hạn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) hiện vẫn thấp, chủ yếu do chính sách ngân hàng yêu cầu mức vốn tự có đối ứng cao từ phía các doanh nghiệp khi thực hiện mua sắm tài sản cố định (TSCĐ) hoặc máy móc thiết bị.
> Dư nợ tín dụng DNNVV theo loại tiền
Bảng 2.7: Cơ cấu dư nợ tín dụng DNNVV theo loại tiền giai đoạn 2011-2013 Đơn vị: Tỷ đồng, triệu USD
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu dư nợ tín dụng DNNVV theo loại tiền giai đoạn 2011-2013
(Nguồn: Báo cáo phòng TD DNNVVSGD - VCB 2011-2013)
% tăng giảm so với năm trước
% tăng giảm so với năm trước
Thông tư số 03/2012/TT-NHNN, có hiệu lực từ ngày 2/5/2012, quy định về việc cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng là người cư trú Theo cơ chế mới, các tổ chức này được phép xem xét cho vay ngoại tệ cho nhu cầu vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, nhưng chỉ khi khách hàng có đủ ngoại tệ từ nguồn thu sản xuất - kinh doanh để trả nợ Thông tư này nhằm giới hạn đối tượng vay ngoại tệ, đảm bảo tăng trưởng tín dụng ngoại tệ phù hợp với khả năng huy động và giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.
Kể từ khi Thông tư 03/2012/TT-NHNN có hiệu lực vào ngày 8/3/2012, số lượng khách hàng đủ điều kiện vay ngoại tệ đã giảm đáng kể Đến ngày 31/12/2012, dư nợ ngoại tệ giảm 87,3% so với cùng kỳ năm trước, khiến tỷ trọng dư nợ ngoại tệ giảm từ 32,2% xuống còn 3,2%.
Tính đến ngày 31/12/2013, dư nợ ngoại tệ quy USD đã tăng 0,75 triệu USD, tương đương 68% so với cùng kỳ năm 2012, chiếm 4% tổng dư nợ Sự giảm mạnh của lãi suất tiền đồng gần đây đã khiến nhiều doanh nghiệp ưa chuộng vay tiền đồng, góp phần làm tỷ trọng dư nợ ngoại tệ giảm.
> Dư nợ tín dụng DNNVV theo ngành
Bảng 2.8: Cơ cấu dư nợ tín dụng DNNVV theo ngành giai đoạn 2011-2013 Đơn vị: Tỷ đồng tiền giảm so với năm trước tiền giảm so với năm trước
(Nguồn: Báo cáo phòng TD DNNVV SGD-VCB 2011-2013)
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu dư nợ tín dụng DNNVV theo ngành giai đoạn 2011 -2013
(Nguồn: Báo cáo phòng TD DNNVVSGD-VCB 2011-2013)
Cơ cấu dư nợ theo ngành kinh tế cho ngành Thương mại - dịch vụ đang chiếm tỷ trọng cao, dao động từ 65% đến 70%, và có xu hướng tăng trong những năm gần đây Ngành này, với đặc điểm dễ thành lập và yêu cầu vốn thấp, đã thu hút nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tham gia Các ngân hàng cũng đang gia tăng đầu tư vào DNNVV trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, do nhu cầu vay vốn thường xuyên và nhỏ lẻ của các doanh nghiệp này, cùng với vòng quay vốn lưu động nhanh.
> Dư nợ tín dụng DNNVV theo tài sản bảo đảm
Bảng 2.9: Cơ cấu dư nợ tín dụng DNNVV theo tài sản bảo đảm giai đoạn 2011-2013 Đơn vị: Tỷ đồng
Biểu đồ 2.7: Cơ cấu dư nợ tín dụng DNNVV theo tài sản bảo đảm giai đoạn 2011-2013
(Nguồn: Báo cáo phòng TD DNNVVSGD-VCB 2011-2013)
Theo bảng số liệu, dư nợ có tài sản bảo đảm (TSBĐ) và không có TSBĐ đều ghi nhận mức tăng trưởng, với dư nợ có TSBĐ luôn chiếm tỷ trọng cao, dao động từ 70% trở lên trong tổng dư nợ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV).
2012 dư nợ không có TSBĐ tăng thêm 95,6 tỷ đồng tương đương 45,5% so với
Đến cuối năm 2013, dư nợ không có tài sản đảm bảo (TSBĐ) đã tăng 43,6% so với cùng kỳ năm trước, nhờ vào mối quan hệ chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và ngân hàng Việc áp dụng các phương thức cho vay mới, như cho vay theo hạn mức, giúp doanh nghiệp giảm chi phí và thời gian thực hiện thủ tục Chính sách của Sở Giao Dịch cũng tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn Dư nợ không có TSBĐ chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp có mối quan hệ lâu dài và uy tín với ngân hàng, được tín chấp một phần.
Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) hiện nay mặc dù hoạt động hiệu quả và có khả năng trả nợ, nhưng gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn ngân hàng do không đáp ứng được yêu cầu về tài sản thế chấp, như năng lực tài chính hạn chế và giấy tờ sở hữu tài sản không hợp lệ Điều này tạo ra bất lợi lớn cho các DNNVV trong việc phát triển và mở rộng kinh doanh.
Nợ quá hạn, nợ xấu tín dụng đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa 2.3 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỤC TRẠNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI SỞ GIAO DỊCH - NGÂN HÀNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.2.3.1 Tình hình nợ quá hạn của DNNVV tại Sở Giao Dịch - Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam
Việc mở rộng quy mô tín dụng đối với DNNVV không chỉ dựa trên các chỉ tiêu về số lượng mà còn cần xem xét hiệu quả của quá trình này Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu là những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả tín dụng Khả năng trả nợ đúng hạn của khách hàng luôn là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng thương mại (NHTM), vì khoản nợ quá hạn không chỉ ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh mà còn làm tăng chi phí quản lý, theo dõi và thu hồi nợ, từ đó tác động tiêu cực đến khả năng thanh khoản của NHTM.
Bảng 2.10: Tình hình nợ quá hạn của DNNVV giai đoạn 2011-2013 Đơn vị: Tỷ đồng đối giảm đối giảm
Nợ quá hạn của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã tăng mạnh trong những năm gần đây, với 24,1 tỷ đồng vào cuối năm 2012, gấp 3,82 lần so với năm 2011, và lên tới 53,3 tỷ đồng vào cuối năm 2013, tăng 121,16% so với năm 2012 Sự gia tăng này phản ánh những khó khăn kinh tế trong giai đoạn này, khi chính sách tiền tệ và tài khóa bị thắt chặt, thị trường bất động sản đóng băng và thị trường chứng khoán gặp khó khăn Những yếu tố này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của các DNNVV, dẫn đến tình trạng đình trệ và không phát triển.
Tỷ lệ khả năng trả nợ không đúng hạn của các doanh nghiệp đã gia tăng lên 62% Đồng thời, công tác giám sát thu hồi nợ của ngân hàng vẫn chưa được thực hiện hiệu quả.
Nợ quá hạn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) gia tăng do ngân hàng xác định thời hạn vay không phù hợp và DNNVV không tuân thủ tiến độ sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh Hơn nữa, việc tuân thủ hợp đồng tín dụng của các DNNVV còn thấp, dẫn đến việc các doanh nghiệp này chưa xây dựng được uy tín với ngân hàng Tỷ lệ nợ xấu cao qua các năm là một trở ngại lớn cho ngân hàng trong việc phát triển tín dụng cho DNNVV.
Năm 2013, chính phủ đã nỗ lực ổn định nền kinh tế, trong khi Sở Giao Dịch yêu cầu nhân viên tín dụng tìm kiếm và thẩm định khách hàng một cách cẩn thận, tập trung vào những khách hàng chất lượng Tuy nhiên, do tác động của suy thoái kinh tế năm trước, nhiều doanh nghiệp đã phải ngừng hoạt động hoặc phá sản, dẫn đến việc nợ xấu và nợ quá hạn tại Sở Giao Dịch gia tăng.
2.2.3.2 Tình hình nợ xấu của DNNVV tại Sở Giao Dịch - Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) là một trong những ngân hàng thương mại đầu tiên thực hiện phân loại nợ xấu theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nhằm đảm bảo tính trung thực, công khai và minh bạch trong việc quản lý nợ xấu Ngoài ra, Vietcombank còn áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ với các chỉ tiêu phù hợp cho từng đối tượng khách hàng, giúp phản ánh chính xác hơn chất lượng tín dụng theo tiêu chuẩn quốc tế và cho phép ngân hàng đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời.
Tại Sở Giao Dịch - Vietcombank, nợ xấu bao gồm:
- Nợ nhóm III, IV, V theo quyết định 493/2005/QĐ - NHNN.
Các khoản nợ khó thu hồi hoặc không có khả năng thu hồi bao gồm số dư nợ từ các khoản vay còn trong hạn hoặc đã quá hạn, nhưng có đủ căn cứ để Sở Giao Dịch xác định rằng những khoản nợ này không thể thu hồi.
Bảng 2.11: Tình hình nợ xấu đối với DNNVV giai đoạn 2011-2013 Đơn vị: Tỷ đồng đối giảm đối giảm
(Nguồn: Báo cáo thường niên của SGD - VCB 2011 - 2013)
2012 đối tăng giảm đối tăng giảm
LN từ hoạt động TD 108,0
LN từ hoạt động TD
(Nguồn: Báo cáo thường niên của SGD - VCB 2011 - 2013)
Theo số liệu, nợ xấu của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã tăng đáng kể từ năm 2011 đến 2012, với tỷ lệ nợ xấu từ 0% vào năm 2011 lên 2,98% vào cuối năm 2012 Sự gia tăng này chủ yếu do nền kinh tế gặp khó khăn, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các doanh nghiệp và ngân hàng Ngoài ra, còn có những nguyên nhân khác từ chính bản thân các doanh nghiệp.
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh do khủng hoảng và lạm phát Chi phí đầu vào tăng cao, trong khi đầu ra lại trở nên khó khăn, khiến cho chi phí sử dụng vốn cũng gia tăng Điều này dẫn đến tình trạng bế tắc trong việc phát triển và duy trì hoạt động kinh doanh.
DN mất dần khả năng trả nợ.
Cuối năm 2013, tình hình nợ xấu vẫn diễn biến xấu khi tăng lên 30,38 tỷ đồng, tương đương 41,83% so với cùng kỳ năm trước, với tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ DNNVV đạt 5,3% Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản hoặc phải thu hẹp sản xuất Sự gia tăng nợ xấu trong năm 2013 chủ yếu xuất phát từ các khách hàng mới có quan hệ tín dụng trong năm 2012, cho thấy công tác thẩm định và quản lý cho vay của ngân hàng chưa được thực hiện hiệu quả.
Nguyên nhân chính dẫn đến nợ xấu ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là do hạn chế trong quản lý và giám sát tài chính, cùng với việc báo cáo tài chính không được kiểm toán, làm giảm độ an toàn và chính xác Điều này gây khó khăn cho Sở Giao dịch trong việc đánh giá DNNVV theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ Hơn nữa, với uy tín và năng lực tài chính thấp, khả năng ứng phó với biến động thị trường của DNNVV cũng yếu, dẫn đến việc các chỉ tiêu tài chính và chi phí tài chính thường bị đánh giá vào nhóm nợ xấu.
2.2.4 Thu nhập từ tín dụng đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Bảng 2.12: Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng đối với DNNVV giai đoạn 2011-2013 Đơn vị: Tỷ đồng
Thu nhập từ hoạt động cho vay là nguồn thu chính của các ngân hàng thương mại, phản ánh chất lượng tín dụng Một ngân hàng có tín dụng tốt sẽ thể hiện qua sự tăng trưởng ổn định của thu nhập từ cho vay Do đó, hiệu quả mở rộng quy mô tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có thể được đánh giá qua lợi nhuận từ hoạt động tín dụng dành cho DNNVV.
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đang có xu hướng tăng dần qua các năm, cho thấy sự phát triển tích cực trong lĩnh vực này Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận vẫn cần được cải thiện để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
Tốc độ tăng trưởng của doanh số cho vay và dư nợ tín dụng tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đang tăng chậm hơn so với trước đây Nguyên nhân chính là do lãi suất cho vay giảm dần, trong khi tỷ lệ nợ xấu đã gia tăng đáng kể trong các năm 2012 và 2013 so với năm 2011.
Tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong tổng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng trong các năm 2011, 2012 và 2013 lần lượt đạt 5,23%, 6,28% và 8,22% Mặc dù tỷ trọng này còn thấp, nhưng đã có sự gia tăng qua từng năm, cho thấy sự chú trọng của ngân hàng đối với việc cho vay DNNVV ngày càng nhiều hơn.
Bên cạnh vị thế vững chắc trong lĩnh vực ngân hàng bán buôn với nhiều khách hàng truyền thống là các tổng công ty và doanh nghiệp lớn, SGD
- VCB đã xây dựng thành công nền tảng phân phối rộng và đa dạng, tạo đà cho việc mở rộng tín dụng đối vớiDNNVV.