CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là các cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế DNNVV được xác định dựa trên quy mô vốn hoặc lao động, đáp ứng các quy định của Chính phủ theo từng ngành nghề và giai đoạn phát triển kinh tế.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) rất phổ biến trên toàn cầu, từ các nước phát triển đến các nước đang phát triển Mỗi quốc gia thường xác định DNNVV dựa trên hai tiêu chí chính: tổng số vốn kinh doanh và số lượng lao động Tuy nhiên, không có một khái niệm chung duy nhất về DNNVV cho tất cả các quốc gia, vì sự khác biệt cơ bản nằm ở việc lựa chọn tiêu chí đánh giá quy mô doanh nghiệp và cách lượng hóa các tiêu chí này thông qua các tiêu chuẩn cụ thể của từng địa phương.
Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của chính phủ Việt Nam quy định rằng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVV) là các cơ sở kinh doanh đã đăng ký theo pháp luật, được phân loại thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ và vừa Phân loại này dựa trên quy mô tổng nguồn vốn, tương đương tổng tài sản trong bảng cân đối kế toán, hoặc số lao động bình quân hàng năm, trong đó tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên Cụ thể, doanh nghiệp siêu nhỏ có dưới 10 lao động và tổng nguồn vốn không quá 2 tỷ đồng; doanh nghiệp nhỏ có từ 10 đến 49 lao động và tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng; doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 200 lao động và tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng.
II Công nghiệp và xây dựng
20 tỷ đồng trở xuống từ trên 10 người đến 200 người từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ từ trên 200 người đến
III Thương mại và dịch vụ
10 tỷ đồng trở xuống từ trên 10 người đến 50 từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ từ trên 50 người đến
Theo số liệu từ hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2011, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Việt Nam đóng góp hơn 40% GDP và tạo ra hơn 50% việc làm cho xã hội Những đặc điểm chung của DNNVV trên toàn thế giới cũng như tại Việt Nam là sự đa dạng trong quy mô và lĩnh vực hoạt động.
- Vốn đầu tư ít, chu kỳ SXKD của doanh nghiệp ngắn dẫn đến khả năng thu hồi vốn nhanh.
Nền kinh tế hiện nay hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực như thương mại, dịch vụ, y tế, công nghiệp, xây dựng, giáo dục và nông lâm ngư nghiệp Các hình thức hoạt động bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Do có quy mô gọn nhẹ và khả năng thích ứng nhanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có thể nhanh chóng điều chỉnh mặt hàng kinh doanh và thay đổi thị trường mục tiêu để ứng phó với những biến động của thị trường.
Tuy có những ưu điểm như trên, các DNNVV còn bộc lộ những hạn chế chung như sau:
Do quy mô vốn hạn chế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) gặp khó khăn trong việc đầu tư nâng cấp và đổi mới máy móc, cũng như mua sắm thiết bị công nghệ hiện đại.
Việc áp dụng công nghệ lạc hậu đã ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trên thị trường DNNVV gặp khó khăn trong việc tìm kiếm và tiếp cận thị trường, cũng như phân phối sản phẩm do thông tin thị trường không đầy đủ và chiến lược marketing chưa hiệu quả, dẫn đến hoạt động kinh doanh không đạt kết quả mong muốn.
DNNVV là một loại hình kinh tế còn mới mẻ, do đó, trình độ quản lý và kỹ năng lãnh đạo của các doanh nghiệp cùng với người lao động vẫn còn hạn chế.
Mặc dù số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ngày càng tăng, nhưng vẫn còn thiếu các chủ doanh nghiệp và giám đốc có trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt Nhiều người chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, dẫn đến thiếu kiến thức kinh tế-xã hội và kỹ năng quản trị Điều này ảnh hưởng đến tính chuyên nghiệp và khả năng ổn định kinh tế của các doanh nghiệp, đồng thời làm tăng nguy cơ khủng hoảng Khu vực DNNVV đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế hiện tại và tương lai, đặc biệt trong bối cảnh Cách mạng khoa học và công nghệ, giúp các DNNVV có cơ hội phát triển kỹ thuật và sản xuất sản phẩm cạnh tranh với doanh nghiệp lớn Trong môi trường cạnh tranh toàn cầu hiện nay, sự chuyển dịch từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng và công nghệ đã làm giảm lợi thế của các doanh nghiệp lớn, trong khi mô hình sản xuất vệ tinh, trong đó DNNVV đóng vai trò là vệ tinh cho doanh nghiệp lớn, ngày càng trở nên phù hợp.
Trong nền kinh tế hiện đại, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình, không chỉ tồn tại bên cạnh các tập đoàn lớn mà còn có khả năng hợp tác để phát triển mạnh mẽ hơn Đặc biệt tại Việt Nam, một quốc gia đang phát triển với mục tiêu hướng tới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, DNNVV đóng vai trò thiết yếu trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra việc làm.
Việc tạo ra việc làm cho người lao động là một vấn đề cấp bách tại Việt Nam, nơi có dân số hơn 80 triệu người và nguồn lao động liên tục gia tăng Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, mức độ sử dụng lao động tại các doanh nghiệp nhỏ đã tăng gấp 4-10 lần, thu hút một lượng lớn lao động Hiện tượng di cư vào đô thị do áp lực dân số đã gây ra nhiều khó khăn về xã hội, do đó, giải quyết vấn đề việc làm là rất cần thiết để đáp ứng nhu cầu của người lao động.
Các doanh nghiệp nhỏ đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế, chiếm khoảng 20-50% thu nhập quốc dân ở hầu hết các quốc gia Chúng chủ yếu phục vụ thị trường nội địa, tận dụng nguồn lực địa phương và phát triển công nghệ cùng kỹ năng trong cộng đồng.
Tín dụng là một khái niệm kinh tế quan trọng, phát triển cùng với nền kinh tế hàng hóa Quan hệ tín dụng bắt đầu hình thành từ khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã, đánh dấu sự xuất hiện của tư hữu và trao đổi hàng hóa Trong giai đoạn đầu, tín dụng chủ yếu được thực hiện dưới hình thức vay mượn hiện vật Theo thời gian, hình thức tín dụng đã chuyển sang vay mượn bằng tiền tệ, phản ánh sự tiến bộ của nền kinh tế.
C Mác cho rằng: Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời gian sử dụng được quay trở lại người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn ban đầu Như vậy, tín dụng có thể hiểu một cách đơn giản là một quan hệ giao dịch giữa người cho vay và người đi vay, trong đó người cho vay chuyển giao tiền hoặc tài sản cho người đi vay được sử dụng trong một thời gian nhất định gọi là thời hạn vay, lãi suất, thời hạn trả thỏa thuận.
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGAN HANG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI
VÀ NHỎ TẠI SGD NHTMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NGOẠI
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Sở Giao Dịch
2.1.1.1 Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương
Ngày 1 tháng 4 năm 1963, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (NHNT VN) chính thức được thành lập theo Quyết định số 115/Cp của Hội đồng Chính phủ, tách ra từ Cục quản lý ngoại hối thuộc Ngân hàng Trung Ương NHNT VN là ngân hàng chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam lúc bấy giờ, hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, bao gồm cho vay tài trợ, xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, và quản lý vốn ngoại tệ gửi tại các ngân hàng nước ngoài.
Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong các quan hệ thanh toán và vay nợ, trong khi Ngân hàng Nhà nước (NHNT) tư vấn cho ban lãnh đạo về các chính sách quản lý ngoại tệ, vàng bạc, và quỹ ngoại tệ của Nhà nước NHNT cũng đảm nhận trách nhiệm trong việc thiết lập quan hệ với ngân hàng trung ương các nước và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế.
- Ngày 14/11/1990, Hội đồng bộ trưởng ban hành chỉ thị số 403/CT chuyển
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI SGD NHTMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sử dụng vốn vay, quản lý khách hàng
Kiểm tra và kiểm soát đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng và khả năng thu hồi nợ đúng hạn Ngoài ra, công tác này cung cấp thông tin cần thiết cho quản lý, giúp lãnh đạo có biện pháp xử lý kịp thời khi phát hiện sai sót Để đạt hiệu quả cao trong kiểm tra, cần tuân thủ đúng trình tự nghiệp vụ.
Kiểm tra trước khi phát tiền vay là quá trình xác minh các quy trình nghiệp vụ, đảm bảo việc thẩm định khách hàng được thực hiện đúng nguyên tắc và tuần tự Điều này bao gồm việc xem xét tính đầy đủ và chính xác của các thủ tục giấy tờ, đồng thời phát hiện những điểm bất hợp lý hoặc sai sót để ngăn chặn các thiệt hại có thể xảy ra trong tương lai.
Trong giai đoạn kiểm tra sau khi cho vay, cán bộ tín dụng giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của khách hàng để đảm bảo nó được sử dụng đúng mục đích và phục vụ cho việc trả nợ Quá trình này rất quan trọng vì tình hình sử dụng vốn ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp Đồng thời, ngân hàng cần kiểm tra tính chính xác của thông tin mà doanh nghiệp cung cấp, xử lý kịp thời các vi phạm nếu có, nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay Việc này giúp ngân hàng phát hiện sớm các rủi ro tiềm ẩn và thực hiện các biện pháp đối phó thích hợp để giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Sau khi cho vay, ngân hàng cần thực hiện kiểm tra nghiêm túc để đánh giá kết quả đạt được và những tồn tại cần khắc phục Việc định kỳ rà soát dư nợ và các khoản vay là cần thiết để phát hiện sớm các vấn đề, từ đó đưa ra biện pháp xử lý phù hợp Ngân hàng nên tập trung thu hồi nợ từ các doanh nghiệp có dấu hiệu suy giảm năng lực sản xuất và quản lý Kiểm tra này giúp ngăn ngừa tình trạng doanh nghiệp vay vốn để trả nợ cho ngân hàng khác, đặc biệt khi nhiều doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với nhiều ngân hàng cùng lúc Hơn nữa, việc kiểm tra còn hỗ trợ phát hiện sớm các khoản tiền lòng vòng và sử dụng hóa đơn khống giữa các doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh thành lập doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng dễ dàng.
Tăng cường và hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm soát là yếu tố then chốt để bảo đảm an toàn vốn và tài sản cho ngân hàng Điều này không chỉ giúp nâng cao chất lượng tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) mà còn đóng vai trò quan trọng trong quản lý tín dụng của Sở Giao dịch.
3.2.3 Nâng cao chất lượng xếp hạng tín dụng khách hàng định kỳ
Nâng cao chất lượng xếp hạng tín dụng khách hàng định kỳ là cần thiết để điều chỉnh hạn mức tín dụng một cách hợp lý và hiệu quả Xếp hạng tín dụng phản ánh mức độ tín nhiệm tài chính và đánh giá rủi ro tín dụng dựa trên khả năng đáp ứng cam kết tài chính, khả năng đối phó với rủi ro khi môi trường kinh doanh thay đổi, cũng như ý thức và thiện chí của người vay.
Hệ thống xếp hạng tín dụng của VCB đã đóng góp quan trọng trong việc phân loại khách hàng, giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro tín dụng Hiện nay, hệ thống này không chỉ hữu ích mà còn khắc phục tính chủ quan trong việc đánh giá các chỉ tiêu định lượng bằng cách bổ sung các chỉ tiêu phi tài chính thuộc nhóm 1 và nhóm 2.
Mô hình chấm điểm doanh nghiệp bao gồm hai phần chính: chỉ tiêu định tính và định lượng Chấm điểm định lượng được thực hiện dựa trên các chỉ số tính toán từ báo cáo tài chính gần nhất, trong khi chấm điểm định tính dựa vào đánh giá của ngân hàng về các khía cạnh khác nhau của doanh nghiệp cùng với thông tin phi tài chính cập nhật tại thời điểm chấm.
SGD VCB thực hiện việc chấm điểm xếp hạng tín dụng khách hàng định kỳ mỗi 3 tháng một lần Kết quả xếp hạng này giúp xác định mức giới hạn tín dụng tối đa cho từng khách hàng, áp dụng lãi suất cho vay và quy định về tài sản đảm bảo Việc này cũng giúp phát hiện kịp thời những thay đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó hạn chế rủi ro và điều chỉnh hạn mức tín dụng một cách hợp lý và hiệu quả.
Việc yêu cầu doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ở Việt Nam tuân thủ chuẩn mực kế toán gặp nhiều khó khăn do đặc điểm của họ Thông tin chủ yếu để xếp hạng doanh nghiệp đến từ báo cáo tài chính và lịch sử trả nợ ngân hàng Nếu cán bộ tín dụng không thu thập thông tin một cách hiệu quả và chỉ dựa vào báo cáo tài chính từ doanh nghiệp, việc xếp hạng tín dụng sẽ không đạt hiệu quả cao Hơn nữa, trong bộ chấm điểm xếp hạng tín dụng của VCB có cả các chỉ tiêu định tính, đòi hỏi sự khách quan từ cán bộ tín dụng Do đó, nếu cán bộ chấm điểm có ý kiến chủ quan hoặc cố tình làm sai lệch, kết quả chấm điểm sẽ không chính xác và thiếu khách quan.
Hệ thống xếp hạng tín dụng doanh nghiệp của SGD VCB hiện chưa đủ khả năng để đánh giá các doanh nghiệp tiềm năng, đặc biệt là các doanh nghiệp siêu nhỏ chưa có quan hệ tín dụng với ngân hàng Nhiều tiêu chí chấm điểm còn chồng chéo và không rõ ràng, gây khó khăn trong việc đánh giá Đặc biệt, việc tính điểm tài sản đảm bảo chỉ áp dụng cho khách hàng cá nhân, trong khi 100% doanh nghiệp nhỏ và vừa đều có tài sản đảm bảo nhưng chưa được tính đến.
3.2.4 Điều chỉnh chính sách tín dụng phù hợp xu hưóng phát triển của nền kinh tê
Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố như quy mô, lãi suất, kỳ hạn vay và chính sách đảm bảo tín dụng, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng cần điều chỉnh chính sách tín dụng theo xu hướng phát triển của nền kinh tế, cân bằng giữa tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn và hiệu quả Hoạt động quản lý tín dụng cần tuân thủ các tỷ lệ an toàn, cơ cấu tín dụng phù hợp với chiến lược khách hàng và ngành hàng, đồng thời đảm bảo mức tăng trưởng tín dụng tương thích với năng lực và trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng.
Chính sách khách hàng: cần đẩy mạnh công tác khách hàng đối với DNNVV
Để duy trì và mở rộng thị phần, việc chăm sóc khách hàng hiện tại và phát triển khách hàng mới là nhiệm vụ liên tục Ngân hàng VCB cần chủ động hơn trong cạnh tranh với các ngân hàng khác, đồng thời nhấn mạnh những ưu điểm vượt trội như chất lượng dịch vụ, giá cả hợp lý, lãi suất cạnh tranh và phong cách phục vụ tận tình.
Giữ chân khách hàng cũ là điều cần thiết để duy trì thị phần và đảm bảo chất lượng tín dụng, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa Do đó, việc chăm sóc khách hàng cần được ưu tiên hàng đầu để tạo sự gắn bó và phát triển bền vững.
Tìm kiếm khách hàng mới là yếu tố quan trọng trong nâng cao chất lượng tín dụng SGD cần khai thác thông tin về các khách hàng có tiềm lực tài chính ổn định và khả năng chống đỡ rủi ro, nhằm tiếp cận và đề xuất quan hệ tín dụng mới Việc này không chỉ giúp gia tăng thị phần tín dụng mà còn nâng cao chất lượng tín dụng, vì chỉ khi có khách hàng tốt thì chất lượng tín dụng mới được đảm bảo.
KIẾN NGHỊ
Ngân hàng không thể tự đánh giá hiệu quả hoạt động của mình mà không xem xét đến tác động từ nền kinh tế Chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM) không chỉ phụ thuộc vào nội bộ ngân hàng mà còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế vi mô và chính sách cải cách.
Trong chương này, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm cải thiện chất lượng tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở giao dịch ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Những kiến nghị này nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế này.
3.3.1 Đối với Ngân hàng ngoại thương Việt Nam
NHNT Việt Nam, với vai trò là đơn vị chủ quản của toàn bộ hệ thống ngân hàng nông thôn, cần tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn quốc tế, thông qua các phòng ban chuyên trách có nhiệm vụ hoạch định chính sách tín dụng và quản lý rủi ro.
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVV) Hiện tại, hệ thống xếp hạng chưa đánh giá được các doanh nghiệp siêu nhỏ tiềm năng do nhiều tiêu chí chấm điểm không rõ ràng Đặc biệt, việc tính điểm tài sản đảm bảo chỉ áp dụng cho khách hàng cá nhân, trong khi 100% DNVV có tài sản đảm bảo nhưng chưa được tính đến Do đó, cần nghiên cứu và xem xét việc chấm điểm tài sản đảm bảo cho các doanh nghiệp này để nâng cao tính chính xác và hiệu quả của hệ thống xếp hạng tín dụng.
Để nâng cao vai trò của phòng thông tin tín dụng tại ngân hàng, cần tăng cường lượng thông tin cập nhật phục vụ cho hoạt động tín dụng Điều này bao gồm việc xây dựng bộ phận phân tích và đánh giá thông tin tín dụng tại chi nhánh cấp I hoặc theo từng khu vực, nhằm tiếp nhận và xử lý thông tin khách hàng, thông tin giao dịch tín dụng Qua đó, ngân hàng có thể đưa ra cảnh báo sớm về các rủi ro tín dụng thông qua việc phân tích thông tin từ nhiều kênh khác nhau Ngoài ra, bộ phận này cũng phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin và cung cấp các dữ liệu pháp lý, tài chính, phi tài chính cũng như thông tin về nợ và thu nhập, đảm bảo các giao dịch được thực hiện một cách an toàn và hiệu quả.
Để cải thiện chất lượng tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngân hàng Ngoại thương cần xây dựng chiến lược và chính sách khách hàng rõ ràng, nhằm hướng dẫn các chi nhánh phát triển cơ chế tài chính hiệu quả Điều này không chỉ tạo ra hệ thống tiếp thị và ưu đãi khách hàng cạnh tranh mà còn giúp các đơn vị thành viên chủ động áp dụng cơ chế một cách hiệu quả.
Ngân hàng VCB hiện đang triển khai chiến dịch truyền thông nhằm nâng cao nhận diện thương hiệu và quảng bá các sản phẩm, dịch vụ của mình Tuy nhiên, các chiến dịch này vẫn chưa phản ánh đúng tầm vóc của thương hiệu VCB Các chi nhánh cần chủ động trong việc quảng cáo sản phẩm, nhưng điều này có thể dẫn đến sự không đồng nhất và trùng lặp về nội dung cũng như hình thức, đặc biệt tại những khu vực có nhiều chi nhánh như Hà Nội.
NHNT nên tổ chức định kỳ các khóa đào tạo chuyên môn để cung cấp kiến thức toàn diện cho cán bộ tín dụng trong toàn hệ thống.
3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước
NHNN Việt Nam đóng vai trò là cơ quan quản lý các ngân hàng thương mại, ban hành các văn bản và quy định hướng dẫn hoạt động của họ Để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận tín dụng hiệu quả và nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại, tác giả đề xuất một số kiến nghị.
NHNN cần củng cố và đổi mới hệ thống thông tin tín dụng để đảm bảo chất lượng thông tin được xử lý kịp thời, chính xác và có chiều sâu, nhằm tạo ra các dự báo và cảnh báo hiệu quả, ngăn ngừa rủi ro và thúc đẩy sự phát triển của thị trường Để hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong việc thu thập và tìm kiếm thông tin, NHNN cần nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng (CIC), từ việc cập nhật dữ liệu đến cung cấp thông tin doanh nghiệp một cách đáng tin cậy Việc kết hợp chặt chẽ với các tổ chức tín dụng sẽ đảm bảo thông tin được truyền tải một cách hai chiều, giúp ngân hàng thực hiện thẩm định khách hàng tốt hơn.
-Các quy định liên quan đến tài sản thế chấp:
Một trong những thách thức lớn mà doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) cùng ngân hàng gặp phải khi vay vốn là vấn đề tài sản thế chấp Để hỗ trợ DNNVV, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần mở rộng danh mục tài sản có thể dùng làm thế chấp, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn vốn hơn Bên cạnh đó, việc định giá tài sản thế chấp cần được chú trọng, đảm bảo giá trị tài sản phản ánh đúng thực tế thị trường nhằm tránh tình trạng định giá không hợp lý Đối với ngân hàng, việc xử lý tài sản đảm bảo khi khách hàng không trả được nợ gặp nhiều khó khăn do thiếu quy định cụ thể từ NHNN Do đó, NHNN nên thành lập trung tâm chuyên môn về phát mại tài sản thế chấp để hỗ trợ ngân hàng thu hồi nợ, giảm gánh nặng tài chính cho họ.
Để đảm bảo tính hợp pháp và hợp lý trong việc bảo mật, cung cấp, khai thác và xử lý thông tin, cần xây dựng một hành lang pháp lý cụ thể Đồng thời, việc thành lập hội đồng kiểm duyệt, kiểm tra và đánh giá thông tin là cần thiết để xác nhận tính xác thực của các dữ liệu này.
Để nâng cao chất lượng phân tích tài chính và hệ thống cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng (TCTD), cần hoàn thiện hệ thống giám sát ngân hàng Điều này bao gồm việc phát triển và thống nhất phương pháp giám sát dựa trên lý luận và thực tiễn, đồng thời xây dựng cách tiếp cận hiệu quả trong việc đánh giá chất lượng quản lý rủi ro nội bộ của các TCTD.
Ngân hàng thương mại (NHTM) cần được giao quyền tự chủ trong việc xây dựng các quy định về biện pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay Nguyên tắc hàng đầu mà NHTM áp dụng khi quyết định cho vay là dựa vào năng lực tài chính, uy tín của khách hàng và thông tin liên quan đến khách hàng.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, rủi ro trong quản lý tín dụng gia tăng, do đó, các ngân hàng cần hợp tác và trao đổi kinh nghiệm để ứng phó hiệu quả Để đạt được điều này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần chỉ đạo toàn hệ thống ngân hàng thông qua việc tổ chức hội thảo, khóa đào tạo và bồi dưỡng nhằm cập nhật kiến thức cho các cán bộ ngân hàng.
3.3.3 Đối với cơ quan nhà nước