1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

TIỂU LUẬN quá trình đổi mới quan điểm của đảng về giải quyết các vấn đề xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay

40 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quá Trình Đổi Mới Quan Điểm Của Đảng Về Giải Quyết Các Vấn Đề Xã Hội Ở Nước Ta Trong Thời Kỳ Đổi Mới Từ 1986 Đến Nay
Tác giả Nguyễn Phương Quỳnh, Nguyễn Thị Quỳnh, Trương Ngọc Sáng, Phan Minh Tâm, Bùi Phương Thảo, Đào Thị Phương Thảo, Đồng Quỳnh Thơ, Lâm Hoài Thu, Lê Thị Thu, Trần Thanh Thuận
Người hướng dẫn Lê Thị Hồng Thuận
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Thể loại bài tập nhóm
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 40
Dung lượng 284,08 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG (5)
    • 1.1. Khái quát những lý luận về xã hội (6)
      • 1.1.1. Hình thái kinh tế - xã hội (6)
      • 1.1.2. Xã hội thời kỳ quá độ (6)
    • 1.2. Bối cảnh xã hội những năm 1975 – 1986 (7)
      • 1.2.1. Bối cảnh quốc tế (7)
      • 1.2.2. Bối cảnh trong nước (9)
  • CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI (13)
    • 2.1. Diễn biến các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1986 - nay (13)
      • 2.1.1. Đại hội VI (15/12/1986 – 18/12/1986) (13)
      • 2.1.2 Đại hội VII (24/6/1991 – 27/6/1991) (13)
      • 2.1.3. Đại hội VIII (28/6/1996 – 1/7/1996) (15)
      • 2.1.4. Đại hội IX (19/4/2001 – 22/4/2001) (15)
      • 2.1.5. Đại hội X (18/4/2006 – 25/4/2006) (16)
      • 2.1.6. Đại hội XI (12/1/2011 – 19/1/2011) (18)
      • 2.1.7. Đại hội XII (20/1/2016 – 28/1/2016) (20)
      • 2.1.8. Đại hội XIII (25/1/2021 – 2/2/2021) (21)
    • 2.2. Những đổi mới trong quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội qua từng thời kỳ (23)
      • 2.2.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội (23)
      • 2.2.2. Chính sách xã hội ngày càng gắn với việc đảm bảo các quyền cơ bản của người dân (24)
      • 2.2.3. Những nhận thức mới trong từng lĩnh vực Lao động, Người có công và Xã hội (25)
        • 2.2.3.1. Lĩnh vực việc làm (25)
        • 2.2.3.2. Lĩnh vực tiền lương (27)
        • 2.2.3.3. Lĩnh vực Quan hệ lao động (28)
        • 2.2.3.4. Lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp (29)
        • 2.2.3.5. Chăm sóc toàn diện người có công với cách mạng (30)
        • 2.2.4.1. Lĩnh vực giảm nghèo (31)
        • 2.2.4.2. Lĩnh vực trợ giúp xã hội (32)
        • 2.2.4.3. Lĩnh vực bình đẳng giới (33)
        • 2.2.4.4. Lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội (34)
  • CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ (35)
    • 3.1. Bài học rút ra (35)
    • 3.2. Vai trò của thế hệ trẻ (36)

Nội dung

CƠ SỞ ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG

Khái quát những lý luận về xã hội

1.1.1 Hình thái kinh tế - xã hội

Hình thái kinh tế - xã hội là khái niệm trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, phản ánh đặc điểm của xã hội tại các giai đoạn lịch sử cụ thể Mỗi hình thái này có những quan hệ sản xuất đặc trưng, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng.

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng lịch sử xã hội đã trải qua năm hình thái: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa Trong đó, hình thái cộng sản chủ nghĩa nổi bật với sự không có giai cấp đối kháng, tạo điều kiện cho con người trở thành tự do hơn Theo quan điểm Mác - Lênin, việc chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội cần trải qua một thời kỳ quá độ chính trị, được Mác mô tả là giai đoạn cải biến cách mạng Lênin cũng nhấn mạnh rằng giữa hai hệ thống này tồn tại một thời kỳ quá độ không thể phủ nhận.

1.1.2 Xã hội thời kỳ quá độ

Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, xã hội tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau, dẫn đến sự hợp tác và đấu tranh giữa chúng Sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị, cũng như giữa lao động trí óc và lao động chân tay, vẫn còn rõ nét Thời kỳ này là thời kỳ đấu tranh giai cấp nhằm chống lại áp bức và bất công, xóa bỏ tệ nạn xã hội và các tàn dư của xã hội cũ, đồng thời thiết lập công bằng xã hội dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, C.Mác cho rằng xã hội này vừa mới thoát khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa, vẫn còn mang nhiều dấu vết của xã hội cũ Tại Việt Nam, quá trình này đã bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, không xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản Việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội yêu cầu tiếp thu và kế thừa những thành tựu của nhân loại dưới chế độ tư bản, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và quản lý, nhằm phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng nền kinh tế hiện đại.

Bối cảnh xã hội những năm 1975 – 1986

Những năm 70 của thế kỷ XX là thời kỳ nổi bật với các phong trào đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ và người đồng tính, cùng với cuộc khủng hoảng năng lượng, thu hút sự quan tâm toàn cầu.

Về phong trào đấu tranh giành quyền của phụ nữ, trong suốt những năm thập niên

70, nhiều nhóm người Mỹ tiếp tục đấu tranh cho các quyền chính trị và xã hội Từ năm

1972 đến năm 1977, sau nhiều năm vận động của các nhà nữ quyền, Quốc hội đã thông qua Bản sửa đổi về Quyền bình đẳng (ERA) đối với Hiến pháp.

Liên quan đến vấn đề đấu tranh về quyền dành cho người đồng tính, vào năm

Năm 1976, đài truyền hình công cộng New York, WNET (hiện nay là Kênh 13), đã phát sóng chương trình trò chuyện trực tiếp với cộng đồng người đồng tính, đánh dấu những tín hiệu đầu tiên của một quốc gia và nền văn hóa đang trong quá trình chuyển đổi Sự chuyển đổi này vẫn tiếp tục diễn ra cho đến ngày nay.

Thập niên 70 chứng kiến hai cuộc khủng hoảng năng lượng dầu mỏ quan trọng, lần lượt xảy ra vào năm 1973 và 1979 Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, hay còn gọi là cuộc khủng hoảng dầu mỏ đầu tiên, khởi đầu vào tháng 10/1973 khi OAPEC, do Ả Rập Xê Út dẫn đầu, tuyên bố cấm vận dầu mỏ đối với một số quốc gia Cuộc khủng hoảng thứ hai vào năm 1979 xảy ra do sự sụt giảm sản lượng dầu sau cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran.

Vào năm 1980, khi Chiến tranh Iran-Iraq bùng nổ, sản lượng dầu của Iran và Iraq đều giảm mạnh, dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu Giá dầu tăng cao và không trở lại mức trước khủng hoảng cho đến giữa những năm 1980.

Trong thập niên 80, các vấn đề xã hội nổi bật bao gồm HIV/AIDS, luật phá thai, tình trạng lạm dụng ma túy, khủng hoảng đô thị hóa và quyền bình đẳng cho tất cả mọi người Những vấn đề này đã thu hút sự quan tâm lớn từ cộng đồng và chính phủ, phản ánh những thách thức mà xã hội phải đối mặt trong giai đoạn này.

HIV đã xuất hiện ở Hoa Kỳ từ những năm 1970, nhưng chỉ đến đầu những năm 1980, công chúng mới bắt đầu chú ý đến căn bệnh này Vào tháng 9 năm 1982, CDC lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ "AIDS" để mô tả bệnh Đến cuối năm 1982, các trường hợp mắc AIDS đã được ghi nhận ở nhiều quốc gia châu Âu.

Luật phá thai tại Mỹ được xác định bởi các phán quyết của Tòa án Tối cao, trong đó phán quyết năm 1973 khẳng định quyền hiến pháp của phụ nữ trong việc quyết định phá thai, trong khi phán quyết năm 1980 cho rằng hiến pháp không yêu cầu chính phủ liên bang và tiểu bang phải tài trợ cho quyền này Sự đa dạng trong quan điểm của công chúng đã dẫn đến những cuộc tranh luận căng thẳng về luật phá thai trong các cơ quan lập pháp trên toàn quốc.

Vào năm 1985, một phần ba người Mỹ đã thừa nhận từng thử sử dụng cần sa trong cuộc sống hàng ngày, cho thấy mức độ phổ biến của việc lạm dụng ma túy trong xã hội.

80, sự ra đời của ma túy đá đã biến việc sử dụng ma túy ở thanh thiếu niên trở thành một vấn đề thực sự đáng sợ

Những thập niên 70 và 80 đã chứng kiến 18 trong số 25 thành phố lớn nhất của

Mỹ đang chứng kiến sự suy giảm dân số, trong khi các vùng ngoại ô độc lập lại ghi nhận hơn sáu mươi triệu cư dân Mức thuế cao ngăn cản doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại các khu đô thị, dẫn đến việc tầng lớp trung lưu di chuyển ra ngoại ô Hệ quả của xu hướng này là sự gia tăng số lượng cư dân nghèo tại nhiều thành phố.

Phụ nữ, người Mỹ gốc Phi, người Mỹ bản địa và các nhóm xã hội bị gạt ra ngoài lề đang nỗ lực không ngừng để giành lấy quyền bình đẳng cho mình.

Vào cuối những năm 1970 và trong những năm 1980, sự bất bình đẳng trong phân phối tiền lương tại Hoa Kỳ gia tăng, đặc biệt ảnh hưởng đến những người có trình độ học vấn thấp, như những người không có bằng đại học, khi mức lương của họ giảm so với những người có trình độ cao hơn Công nhân sản xuất, đặc biệt là công nhân da màu, chịu tác động nặng nề do thiếu tiếp cận với nền tảng giáo dục tốt Đồng thời, thập niên 70 và 80 cũng chứng kiến người Mỹ bản địa khôi phục quyền lợi, tổ chức các lớp học để giáo dục thế hệ trẻ về di sản của tổ tiên và đấu tranh giành lại quê hương bị mất.

Cuối năm 1988, công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa tại Đông Âu gặp nhiều khó khăn, với việc thực hiện đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập dẫn đến sự phủ nhận quá khứ cách mạng Điều này nhắm vào Đảng Cộng sản và chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo ra những tư tưởng hoài nghi và bi quan đối với chủ nghĩa xã hội Bên cạnh đó, cuộc Cách mạng khoa học-kỹ thuật đã có tác động mạnh mẽ, trở thành xu thế toàn cầu.

Trong giai đoạn trước đổi mới từ cuối những năm 70 đến giữa những năm 80, Việt Nam đã thực hiện hai kế hoạch 5 năm (1976-1980 và 1981-1985) và đạt được một số kết quả nhất định, nhưng cũng đối mặt với nhiều khó khăn Nguyên nhân chủ yếu là do những sai lầm chủ quan, như kỳ vọng quá lớn vào việc phát triển kinh tế dựa vào các lợi thế tự nhiên và điều kiện kinh tế của hai miền Nam - Bắc, cùng với chiến lược phát triển kinh tế theo hướng kế hoạch hóa tập trung, quan liêu và bao cấp Thêm vào đó, bối cảnh quốc tế không thuận lợi khi nền kinh tế Liên Xô bắt đầu khủng hoảng, trong khi Mỹ và nhiều quốc gia châu Âu áp đặt cấm vận kinh tế đối với Việt Nam.

Sản xuất nông - công nghiệp đang gặp khó khăn nghiêm trọng, dẫn đến tình trạng lưu thông và phân phối bị ách tắc Lạm phát tăng cao, đạt mức ba con số, trong khi tem phiếu phân phối trở nên khan hiếm Người dân phải đối mặt với tình trạng thiếu thốn lương thực và thực phẩm, khiến đời sống của họ sa sút một cách trầm trọng.

Tình hình diễn biến xấu đến mức, vào khoảng từ cuối năm 1985 đến cuối năm

Năm 1986, sau thất bại của cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền vào tháng 9 năm 1985, người dân nhận thấy không thể tiếp tục sống như trước Các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cũng nhận ra sự cần thiết phải thay đổi các chủ trương, chính sách đã lỗi thời Tổng Bí thư Trường Chinh đã đồng ý bãi bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, chuyển sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần Đại hội VI của Đảng diễn ra vào tháng 12 năm 1986 với tinh thần đổi mới kinh tế - xã hội.

QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

Diễn biến các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1986 - nay

2.1.1 Đại hội VI (15/12/1986 – 18/12/1986) Đại hội VI của Đảng (12/1986) lần đầu tiên nêu lên khái niệm “ Chính sách xã hội” thể hiện sự đổi mới tư duy của Đảng: giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước Nội hàm của chính sách xã hội được xác định là: Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá,quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc… Đây là sự đổi mới về tư duy về giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể đường lối phát triển của Đất nước, đặc biệt là giải quyết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội Phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.

Đại hội VI đã đề ra các chủ trương quan trọng trong lĩnh vực xã hội, tập trung vào lao động và việc làm, ổn định đời sống nhân dân, kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc người có công với cách mạng và phòng chống tệ nạn xã hội Tư duy mới của Đảng nhấn mạnh rằng giải quyết chính sách xã hội là nhiệm vụ gắn liền với đổi mới kinh tế, trong đó vấn đề lao động và việc làm được kết hợp với phát triển nhiều thành phần kinh tế, đồng thời nâng cao đời sống nhân dân thông qua việc thực hiện ba chương trình kinh tế lớn.

2.1.2 Đại hội VII (24/6/1991 – 27/6/1991) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ Đại hội VI, đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm thừa kế, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã đạt được; khắc phục những khó khăn, yếu kém mắc phải trong bước đầu đổi mới; điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiến lên.

Dựa trên đặc điểm tình hình và mục tiêu của giai đoạn đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội VII của Đảng đã xác định nhiệm vụ và mục tiêu kinh tế - xã hội cho kế hoạch 5 năm 1991-1995.

- Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát

- Ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội

- Ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân

Để đạt được mục tiêu tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, cần phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế và đẩy mạnh Ba chương trình kinh tế với nội dung nâng cao hơn trước Đồng thời, từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa.

Đại hội VII của Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội Mục tiêu phát triển kinh tế không chỉ nhằm nâng cao sức mạnh của yếu tố con người mà còn vì lợi ích của con người.

Nhìn một cách tổng thể, Đảng và Nhà nước ta đã rút ra một số quan điểm như sau nhằm giải quyết các vấn đề xã hội:

- Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội.

Xây dựng và hoàn thiện thể chế là yếu tố then chốt để kết nối tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội Mỗi bước đi và chính sách phát triển cần đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và lợi ích xã hội, nhằm tạo ra một môi trường bền vững và công bằng cho tất cả mọi người.

Chính sách xã hội được xây dựng dựa trên nền tảng phát triển kinh tế, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cũng như giữa cống hiến và hưởng thụ.

Cần chú trọng đến chỉ tiêu GDP bình quân đầu người kết hợp với chỉ số phát triển con người (HDI) và các chỉ tiêu phát triển xã hội khác Việc này không chỉ giúp đánh giá chính xác mức sống của người dân mà còn phản ánh sự tiến bộ trong các lĩnh vực xã hội, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Từ những quan điểm trên thì Nhà nước cũng đã đề xuất triển khai một số chủ trương như sau:

- Một là, khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả mục tiêu xóa đói giảm nghèo.

- Hai là, bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, tạo việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

- Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng, hiệu quả.

- Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ và cải thiện giống nòi.

- Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.

- Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội.

- Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.

Sau hơn 20 năm đổi mới, lĩnh vực phát triển xã hội đã ghi nhận nhiều thành tựu đáng kể, với một xã hội mở đang dần hình thành Những con người dám nghĩ, dám chịu trách nhiệm và không chấp nhận đói nghèo, lạc hậu đang ngày càng nhiều Họ biết làm giàu, cạnh tranh và hành động vì lợi ích cộng đồng, vì Tổ quốc Cách thức quản lý xã hội cũng trở nên dân chủ, cởi mở hơn và đề cao pháp luật.

2.1.3 Đại hội VIII (28/6/1996 – 1/7/1996) Đại hội xác định nhiệm vụ là thực hiện đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá độ lên CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN Đại hội đã đánh dấu cột mốc phát triển mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta Đồng thời, Đảng đã đề ra những quan điểm chỉ đạo việc hoạch định hệ thống chính sách xã hội, đó là:

- Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển.

Vào thứ hai, cần thực hiện đa dạng hình thức phân phối, trong đó chủ yếu dựa vào lao động và hiệu quả kinh tế Bên cạnh đó, phân phối cũng nên dựa vào mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh Đồng thời, cần có phân phối thông qua phúc lợi xã hội, kết hợp với chính sách điều tiết hợp lý nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động.

Khuyến khích làm giàu hợp pháp là một yếu tố quan trọng trong việc xóa đói, giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển cũng như mức sống giữa các vùng, dân tộc và tầng lớp dân cư khác nhau.

- Thứ tư, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, “nhân hậu, thủy chung”

- Thứ năm, các vấn đề chính sách xã hội đều được giải quyết theo tinh thần xã hội.

2.1.4 Đại hội IX (19/4/2001 – 22/4/2001) Đại hội IX đã mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng không nhắc lại các quan điểm chỉ đạo của Đại hội VIII, nhưng nhấn mạnh

Để thực hiện các chính sách xã hội, cần tập trung vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, đảm bảo công bằng trong phân phối và tạo động lực cho sản xuất, từ đó nâng cao năng suất lao động Các chính sách này phải được thực hiện theo tinh thần xã hội hoá, với sự trách nhiệm của chính quyền và sự tham gia của nhân dân cùng các tổ chức xã hội Đại hội IX đã chỉ ra rằng giải quyết việc làm là nhiệm vụ hàng đầu, bên cạnh các vấn đề quan trọng khác như tiền lương, thu nhập, xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội, và chăm sóc sức khoẻ nhân dân Các chính sách cũng cần chú trọng đến bảo vệ trẻ em, phát triển thể dục thể thao, và đấu tranh phòng chống tội phạm.

Những đổi mới trong quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội qua từng thời kỳ

Trước thời kỳ Đổi mới, các vấn đề xã hội được giải quyết theo mô hình dân chủ nhân dân, nơi chính phủ khuyến khích người dân tự tổ chức để xử lý các vấn đề của chính mình Trong bối cảnh chiến tranh, các giải pháp xã hội được thực hiện theo chủ nghĩa xã hội kiểu cũ với chế độ phân phối bình quân và sự bao cấp từ nhà nước Sau sự kiện Giải phóng miền Nam và Thống nhất Đất nước, cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã trở nên kém hiệu quả, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng do nguồn viện trợ giảm dần và tình trạng bao vây, cấm vận.

Kể từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã phát triển nhận thức mới về các phương pháp giải quyết vấn đề xã hội, điều này được thể hiện rõ qua các văn kiện đại hội Đảng.

2.2.1 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội Đại hội VI lần đầu tiên đưa ra quan điểm phải giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước

Đại hội VII của Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và văn hóa, xã hội Điều này bao gồm việc cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời chú trọng đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Phát triển kinh tế được coi là nền tảng và tiền đề cho việc thực hiện các chính sách xã hội, trong khi việc thực hiện tốt các chính sách xã hội sẽ là động lực thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế.

Tại Đại hội VIII (1996), Đảng ta đã nhấn mạnh hai quan điểm quan trọng: Tăng trưởng kinh tế cần gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển, đồng thời kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng và thực hiện công bằng xã hội Điều này nhằm tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội.

Trong giai đoạn 2001-2005, công bằng xã hội được thúc đẩy thông qua việc cải cách giáo dục, khoa học và công nghệ, nhằm tạo việc làm và xóa đói giảm nghèo Văn kiện Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh sự kết hợp giữa phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường Đại hội X tiếp tục làm rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, khẳng định đây là nội dung cốt lõi trong định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng kêu gọi kết hợp các mục tiêu kinh tế và xã hội trên toàn quốc, thực hiện công bằng xã hội trong từng chính sách phát triển, đồng thời chú trọng đến văn hóa, y tế và giáo dục, nhằm phát triển con người Chế độ phân phối được thực hiện chủ yếu dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, kết hợp với mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác thông qua phúc lợi xã hội.

Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp chặt chẽ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội Điều này nhằm phát triển kinh tế song song với việc nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo mọi người đều được hưởng lợi từ thành quả của công cuộc đổi mới Hơn nữa, mỗi người dân cần có cơ hội và điều kiện để phát triển toàn diện.

Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, trong đó bổ sung yếu tố xã hội Nhà nước có vai trò xây dựng và quản lý chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường Các tổ chức xã hội tạo sự liên kết và phối hợp hoạt động, giải quyết vấn đề giữa các thành viên, bảo vệ lợi ích của họ và cung cấp dịch vụ hỗ trợ Đồng thời, các tổ chức này phản ánh nguyện vọng của nhân dân với Nhà nước, tham gia phản biện các chính sách và giám sát việc thực thi pháp luật của cơ quan nhà nước.

2.2.2 Chính sách xã hội ngày càng gắn với việc đảm bảo các quyền cơ bản của người dân

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) được thông qua tại Đại hội VII nhấn mạnh mục tiêu xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, vì nhân dân và do nhân dân Đồng thời, cương lĩnh cũng đề ra việc hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân Đảng ta khẳng định rằng quyền con người là mục tiêu và động lực chính cho sự phát triển xã hội.

Theo Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta nhấn mạnh việc chăm lo cho con người và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mọi người, đồng thời cam kết thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người Đại hội X tiếp tục khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Trong sáu nhiệm vụ trọng tâm đặt ra trong Nghị quyết Đại hội XII, nhiệm vụ năm:

Để xây dựng và phát triển con người, cần thu hút và phát huy mọi nguồn lực cùng sức sáng tạo của nhân dân Việc chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, giải quyết các vấn đề bức thiết, và tăng cường quản lý xã hội là rất quan trọng Đồng thời, cần đảm bảo an ninh xã hội và an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi và giảm nghèo bền vững Phát huy quyền làm chủ của nhân dân và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là những yếu tố thiết yếu thể hiện quan điểm mới của Đảng trong phát triển con người.

Đại hội XIII nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, nhằm hướng tới khát vọng phát triển đất nước phồn vinh và hạnh phúc Để triển khai các văn kiện của Đại hội XIII vào thực tiễn, cần lồng ghép và tích hợp cách tiếp cận dựa trên quyền con người vào các chiến lược chính trị - xã hội.

2.2.3 Những nhận thức mới trong từng lĩnh vực Lao động, Người có công và Xã hội 2.2.3.1 Lĩnh vực việc làm

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII nhấn mạnh rằng để giải quyết việc làm hiệu quả, cần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chú trọng phát triển cả sản xuất và dịch vụ Cần kết hợp giải quyết việc làm tại chỗ với phân bố lại lao động theo vùng lãnh thổ, xây dựng khu kinh tế mới và cụm kinh tế-kỹ thuật-dịch vụ nhỏ tại nông thôn và thị trấn, đồng thời mở rộng xuất khẩu lao động Đa dạng hóa việc làm và thu nhập là cần thiết để thu hút lao động từ mọi thành phần kinh tế Giải quyết việc làm là trách nhiệm chung của tất cả các ngành, cấp, đơn vị và từng cá nhân, với sự đầu tư từ Nhà nước và cộng đồng Cần có chương trình đồng bộ để giải quyết việc làm và sớm ban hành Luật Lao động cùng các quy chế cụ thể nhằm đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động.

Đại hội lần thứ VIII của Đảng nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển, nhằm tạo ra nhiều việc làm mới Điều này bao gồm phát triển cơ sở dạy nghề và dịch vụ việc làm, mở rộng quỹ quốc gia giải quyết việc làm, và huy động các nguồn lực khác để hỗ trợ người lao động tự tạo việc làm Chương trình quốc gia giải quyết việc làm sẽ được triển khai nhanh chóng, với mục tiêu thu hút thêm 1,3 - 1,4 triệu lao động mỗi năm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố xuống dưới 5% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75%.

Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta nhấn mạnh mục tiêu về việc làm, cụ thể là tạo cơ hội bình đẳng cho mọi công dân trong việc tiếp cận đào tạo và việc làm Đồng thời, Đảng cũng khuyến khích người lao động tích cực học tập, đào tạo và tự tìm kiếm việc làm để nâng cao chất lượng cuộc sống.

ĐÁNH GIÁ

Ngày đăng: 30/03/2022, 23:32

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w