CƠ SỞ ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG
Khái quát những lý luận về xã hội
1.1.1 Hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là khái niệm trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, phản ánh cấu trúc xã hội ở các giai đoạn lịch sử khác nhau Mỗi hình thái có đặc trưng bởi một kiểu quan hệ sản xuất nhất định, tương thích với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Đồng thời, kiến trúc thượng tầng cũng được xây dựng dựa trên những quan hệ sản xuất này, tạo nên sự tương tác giữa các yếu tố kinh tế và xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng lịch sử xã hội đã trải qua năm hình thái: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa Trong đó, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa khác biệt với các hình thái trước đó bởi sự không có giai cấp đối kháng và con người dần trở thành tự do Do đó, từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa xã hội cần trải qua thời kỳ quá độ chính trị Mác nhấn mạnh rằng giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản chủ nghĩa có một thời kỳ cải biến cách mạng, và thời kỳ này phải được thực hiện thông qua chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản Lênin cũng khẳng định rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản tồn tại một thời kỳ quá độ nhất định.
1.1.2 Xã hội thời kỳ quá độ
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, xã hội Việt Nam vẫn tồn tại nhiều giai cấp và tầng lớp khác nhau, với sự hợp tác và đấu tranh giữa các nhóm này Sự khác biệt rõ rệt giữa nông thôn và thành thị, cũng như giữa lao động trí óc và lao động chân tay, tạo ra những thách thức trong quá trình phát triển Thời kỳ này được đặc trưng bởi cuộc đấu tranh giai cấp nhằm chống lại áp bức và bất công, xóa bỏ tệ nạn xã hội, và loại bỏ những tàn dư của xã hội cũ Mục tiêu là thiết lập công bằng xã hội thông qua nguyên tắc phân phối theo lao động.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, C.Mác nhấn mạnh rằng xã hội này là giai đoạn chuyển tiếp, vừa mới thoát khỏi chủ nghĩa tư bản nhưng vẫn còn mang nhiều dấu vết của xã hội cũ Ông khẳng định rằng đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển hoàn chỉnh, mà là một xã hội đang trong quá trình hình thành và phát triển.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội, nhưng vẫn còn mang dấu vết của xã hội tư bản chủ nghĩa Quá trình này không chỉ đơn thuần là từ bỏ chế độ tư bản mà còn cần kế thừa những thành tựu khoa học, công nghệ và quản lý của nhân loại để phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng nền kinh tế hiện đại Việc này đòi hỏi một sự tiếp thu có chọn lọc nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện về kinh tế, đạo đức và tinh thần trong xã hội.
Bối cảnh xã hội những năm 1975 – 1986
Những năm 70 của thế kỷ XX là giai đoạn quan trọng với sự nổi bật của các phong trào đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ và người đồng tính, cùng với cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu.
Về phong trào đấu tranh giành quyền của phụ nữ, trong suốt những năm thập niên
70, nhiều nhóm người Mỹ tiếp tục đấu tranh cho các quyền chính trị và xã hội Từ năm
1972 đến năm 1977, sau nhiều năm vận động của các nhà nữ quyền, Quốc hội đã thông qua Bản sửa đổi về Quyền bình đẳng (ERA) đối với Hiến pháp.
Liên quan đến vấn đề đấu tranh về quyền dành cho người đồng tính, vào năm
Vào năm 1976, đài truyền hình công cộng New York, WNET (hiện nay là Kênh 13), đã phát sóng một chương trình trò chuyện trực tiếp dành cho cộng đồng người đồng tính Chương trình này, cùng với một số chương trình khác của WNET, phản ánh những tín hiệu đầu tiên về sự chuyển mình của quốc gia và văn hóa, một quá trình chuyển đổi vẫn đang tiếp diễn cho đến ngày nay.
Thập niên 70 chứng kiến hai cuộc khủng hoảng năng lượng dầu mỏ quan trọng, lần lượt vào năm 1973 và 1979 Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, hay còn gọi là cuộc khủng hoảng đầu tiên, bắt đầu vào tháng 10 khi OAPEC, do Ả Rập Xê Út dẫn đầu, tuyên bố cấm vận dầu mỏ đối với một số quốc gia Cuộc khủng hoảng thứ hai vào năm 1979 xảy ra do sự sụt giảm sản lượng dầu sau cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran.
7 download by : skknchat@gmail.com
Năm 1980, khi Chiến tranh Iran-Iraq bùng nổ, sản lượng dầu của Iran và Iraq đều giảm mạnh, dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu Giá dầu tăng cao và không trở lại mức trước khủng hoảng cho đến giữa những năm 1980.
Trong thập niên 80, các vấn đề xã hội nổi bật bao gồm HIV/AIDS, luật phá thai, tình trạng lạm dụng ma túy, khủng hoảng đô thị hóa và quyền bình đẳng cho tất cả mọi người.
HIV lần đầu tiên xuất hiện ở Hoa Kỳ vào những năm 1970, nhưng đến đầu những năm 1980, công chúng mới bắt đầu chú ý đến căn bệnh này Vào tháng 9 năm 1982, CDC đã chính thức sử dụng thuật ngữ “AIDS” để mô tả bệnh Đến cuối năm 1982, nhiều trường hợp mắc AIDS cũng đã được ghi nhận tại các nước Châu Âu.
Luật phá thai tại Mỹ đã trải qua nhiều thay đổi quan trọng, bắt đầu với phán quyết của Tòa án Tối cao năm 1973, công nhận quyền hiến pháp của phụ nữ trong việc quyết định phá thai Tuy nhiên, phán quyết năm 1980 lại khẳng định rằng hiến pháp không yêu cầu chính phủ liên bang và tiểu bang phải cấp ngân quỹ để hỗ trợ quyền này Sự đa dạng trong quan điểm của công chúng đã dẫn đến những cuộc tranh luận căng thẳng về luật phá thai trong các cơ quan lập pháp trên toàn quốc.
Vào năm 1985, một phần ba người Mỹ đã thừa nhận từng thử sử dụng cần sa trong cuộc sống hàng ngày, cho thấy mức độ phổ biến của vấn đề lạm dụng ma túy trong xã hội.
80, sự ra đời của ma túy đá đã biến việc sử dụng ma túy ở thanh thiếu niên trở thành một vấn đề thực sự đáng sợ.
Những thập niên 70 và 80 đã chứng kiến 18 trong số 25 thành phố lớn nhất của
Mỹ đang trải qua sự suy giảm dân số, trong khi các vùng ngoại ô độc lập lại ghi nhận hơn sáu mươi triệu cư dân Mức thuế cao đã khiến nhiều doanh nghiệp không muốn đầu tư vào khu đô thị, dẫn đến việc tầng lớp trung lưu chuyển sang sinh sống ở các khu ngoại ô Hệ quả của xu hướng này là sự gia tăng số lượng cư dân nghèo tại nhiều thành phố.
8 download by : skknchat@gmail.com
Phụ nữ, người Mỹ gốc Phi, người Mỹ bản địa và các nhóm xã hội bị gạt ra ngoài lề đang kiên trì đấu tranh cho quyền bình đẳng và sự công nhận trong xã hội.
Vào cuối những năm 1970 và trong những năm 1980, sự bất bình đẳng trong phân phối tiền lương tại Hoa Kỳ gia tăng, đặc biệt là giữa những người có trình độ học vấn thấp và cao Những công nhân không có bằng đại học, đặc biệt là công nhân da màu trong ngành sản xuất, chịu ảnh hưởng nặng nề do thiếu cơ hội giáo dục Đồng thời, người Mỹ bản địa đã tổ chức các lớp học để truyền đạt lịch sử tổ tiên cho thế hệ trẻ và đấu tranh giành lại quyền lợi cũng như đất đai của họ.
Từ cuối năm 1988, công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu gặp nhiều biến động, với việc thực hiện đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập dẫn đến sự phủ nhận quá khứ cách mạng Điều này đã tạo ra những chỉ trích mạnh mẽ nhằm vào Đảng Cộng sản và chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời gieo rắc tư tưởng hoài nghi và bi quan về chủ nghĩa xã hội Bên cạnh đó, cuộc Cách mạng khoa học-kỹ thuật đã có tác động sâu rộng và trở thành xu thế toàn cầu.
Nhìn lại thời kỳ trước đổi mới (từ cuối những năm 70 - giữa những năm 80 của thế kỷ trước) Trải qua 10 năm thực hiện hai kế hoạch 5 năm (1976 – 1980 và 1981 –
Từ năm 1985, Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng cũng đối mặt với nhiều khó khăn Nguyên nhân chủ yếu là do những sai lầm chủ quan, như việc đặt quá nhiều kỳ vọng vào phát triển kinh tế dựa vào những ưu thế tự nhiên và điều kiện kinh tế của hai miền Nam - Bắc Chiến lược phát triển kinh tế thời điểm đó chủ yếu đi theo con đường kế hoạch hóa tập trung, dẫn đến tình trạng quan liêu và bao cấp Hơn nữa, bối cảnh quốc tế cũng không thuận lợi, đặc biệt là khi cơ chế kế hoạch hóa tập trung ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Liên Xô.
Xô bắt đầu có dấu hiệu khủng hoảng Trong quan hệ quốc tế, Mỹ và nhiều quốc gia châu Âu thực hiện cấm vận kinh tế với Việt Nam.
Sản xuất nông - công nghiệp đang gặp khó khăn nghiêm trọng, với tình trạng lưu thông và phân phối hàng hóa bị ách tắc Lạm phát đã đạt mức ba con số, dẫn đến tình trạng thiếu thốn tem phiếu phân phối.
9 download by : skknchat@gmail.com nhân dân sống trong cảnh thiếu thốn lương thực, thực phẩm Đời sống của các tầng lớp nhân dân sa sút chưa từng thấy.
Tình hình diễn biến xấu đến mức, vào khoảng từ cuối năm 1985 đến cuối năm
Năm 1986, sau thất bại của cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền vào tháng 9 năm 1985, người dân cảm thấy không thể tiếp tục sống theo cách cũ Các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cũng nhận thấy rằng các chính sách đã lỗi thời cần phải được thay đổi Tổng Bí thư Trường Chinh đã đồng ý bãi bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chuyển sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần Đại hội VI của Đảng được tổ chức vào tháng 12 năm 1986 với tinh thần đổi mới kinh tế - xã hội.
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Diễn biến các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1986 - nay
2.1.1 Đại hội VI (15/12/1986 – 18/12/1986) Đại hội VI của Đảng (12/1986) lần đầu tiên nêu lên khái niệm “ Chính sách xã hội” thể hiện sự đổi mới tư duy của Đảng: giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước Nội hàm của chính sách xã hội được xác định là: Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá,quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc… Đây là sự đổi mới về tư duy về giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể đường lối phát triển của Đất nước, đặc biệt là giải quyết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội Phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Đại hội VI đã xác định các chủ trương quan trọng trong lĩnh vực xã hội, tập trung vào lao động và việc làm, ổn định đời sống nhân dân, kế hoạch hoá gia đình, chăm lo người có công với cách mạng và phòng chống tệ nạn xã hội Tư duy mới của Đảng nhấn mạnh rằng giải quyết chính sách xã hội là nhiệm vụ gắn liền với đổi mới kinh tế, trong đó vấn đề lao động và việc làm phải được kết hợp với phát triển đa dạng các thành phần kinh tế, đồng thời nâng cao đời sống nhân dân phải gắn với thực hiện ba chương trình kinh tế lớn.
2.1.2 Đại hội VII (24/6/1991 – 27/6/1991) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ Đại hội VI, đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm thừa kế, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã đạt được; khắc phục những khó khăn, yếu kém mắc phải trong bước đầu đổi mới; điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiến lên.
Dựa trên đặc điểm tình hình và mục tiêu của giai đoạn đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội VII của Đảng đã xác định nhiệm vụ và mục tiêu kinh tế - xã hội cho kế hoạch 5 năm 1991-1995.
13 download by : skknchat@gmail.com
- Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát
- Ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội.
- Ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân
Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế, cần phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế và đẩy mạnh ba chương trình kinh tế với nội dung nâng cao hơn Đồng thời, cần từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới phù hợp với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa.
Đại hội VII của Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội Mục tiêu phát triển kinh tế được xác định là nhằm phát huy sức mạnh của yếu tố con người, hướng tới lợi ích của con người.
Nhìn một cách tổng thể, Đảng và Nhà nước ta đã rút ra một số quan điểm như sau nhằm giải quyết các vấn đề xã hội:
- Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội.
Xây dựng và hoàn thiện thể chế là yếu tố then chốt để gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội Mỗi bước đi và chính sách phát triển cần phải đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Chính sách xã hội được xây dựng dựa trên sự phát triển kinh tế, tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, đồng thời cân bằng giữa cống hiến và hưởng thụ.
Cần chú trọng đến chỉ tiêu GDP bình quân đầu người, đồng thời liên kết với chỉ số phát triển con người HDI và các chỉ tiêu phát triển trong các lĩnh vực xã hội.
Từ những quan điểm trên thì Nhà nước cũng đã đề xuất triển khai một số chủ trương như sau:
- Một là, khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
- Hai là, bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, tạo việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
- Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng, hiệu quả.
14 download by : skknchat@gmail.com
- Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ và cải thiện giống nòi.
- Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
- Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội.
- Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
Sau hơn 20 năm đổi mới, lĩnh vực phát triển xã hội đã ghi nhận nhiều thành tựu quan trọng Một xã hội mở đang dần hình thành với những cá nhân dám nghĩ, dám chịu trách nhiệm, không chấp nhận đói nghèo và lạc hậu Những người này biết làm giàu, cạnh tranh và hành động vì lợi ích cộng đồng, vì Tổ quốc Hệ thống quản lý xã hội ngày càng dân chủ và cởi mở hơn, đồng thời đề cao pháp luật.
2.1.3 Đại hội VIII (28/6/1996 – 1/7/1996) Đại hội xác định nhiệm vụ là thực hiện đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá độ lên CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN Đại hội đã đánh dấu cột mốc phát triển mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta Đồng thời, Đảng đã đề ra những quan điểm chỉ đạo việc hoạch định hệ thống chính sách xã hội, đó là:
- Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển.
Vào thứ hai, cần áp dụng nhiều hình thức phân phối, trong đó chủ yếu dựa vào lao động và hiệu quả kinh tế Đồng thời, việc phân phối cũng cần xem xét mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh, cũng như thông qua các phúc lợi xã hội Chính sách điều tiết hợp lý phải được thực hiện để bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Khuyến khích làm giàu hợp pháp là một yếu tố quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo, đồng thời thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển và mức sống giữa các vùng, dân tộc và tầng lớp dân cư.
- Thứ tư, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, “nhân hậu, thủy chung”
- Thứ năm, các vấn đề chính sách xã hội đều được giải quyết theo tinh thần xã hội.
Đại hội IX đã tạo ra cơ hội cho Việt Nam bước vào thế kỷ mới, với mục tiêu xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh Đảng đã không nhắc lại các quan điểm chỉ đạo của Đại hội VIII, mà tập trung nhấn mạnh những định hướng mới cho sự phát triển.
Đại hội IX nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện các chính sách xã hội nhằm phát triển và lành mạnh hoá xã hội, đảm bảo công bằng trong phân phối, tạo động lực cho sản xuất và nâng cao năng suất lao động Các chính sách này cần được thực hiện theo tinh thần xã hội hoá, khuyến khích sự tham gia của nhân dân và các tổ chức xã hội Trong những năm tới, các nhiệm vụ cụ thể cần tập trung giải quyết bao gồm: tạo việc làm, cải thiện tiền lương và thu nhập, xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội, thực hiện chính sách dân số, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, chăm sóc trẻ em, và phát động phong trào thể dục thể thao cũng như phòng chống tội phạm.
Những đổi mới trong quan điểm của Đang vê giai quyêt cac vấn đê xa hôi qua từng thời kỳ
Trước thời kỳ Đổi mới, các vấn đề xã hội được giải quyết theo mô hình dân chủ nhân dân, với sự chủ động của các tầng lớp nhân dân trong việc tự tổ chức Trong bối cảnh chiến tranh, các vấn đề xã hội được xử lý theo kiểu chủ nghĩa xã hội cũ, với chế độ phân phối bình quân và sự bao cấp từ Nhà nước Sau sự kiện Giải phóng miền Nam và Thống nhất Đất nước, cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp tiếp tục được áp dụng, nhưng gặp khó khăn do khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và sự suy giảm nguồn viện trợ.
Kể từ năm 1986, Đảng và Nhà nước đã phát triển nhận thức mới về các phương pháp giải quyết vấn đề xã hội, được thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội Đảng.
2.2.1 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội Đại hội VI lần đầu tiên đưa ra quan điểm phải giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước.
Đại hội VII của Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và văn hóa, xã hội Việc tăng trưởng kinh tế cần gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời cân bằng giữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Phát triển kinh tế được coi là nền tảng cho việc thực hiện các chính sách xã hội, và thực hiện tốt các chính sách này sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Tại Đại hội VIII năm 1996, Đảng ta đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội” trong từng bước phát triển Đồng thời, việc “kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội” được coi là cần thiết để giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội.
Trong giai đoạn 2001-2005, công bằng xã hội được thể hiện rõ nét qua việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, cùng với sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Đại hội lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, cũng như bảo vệ môi trường Tại Đại hội lần thứ X, Đảng đã làm rõ hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, coi đây là nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa Văn kiện nêu rõ cần kết hợp các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội trên toàn quốc và từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển, đồng thời đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục Chế độ phân phối cần dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời xem xét mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác thông qua phúc lợi xã hội.
Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp chính sách kinh tế với chính sách xã hội, nhằm phát triển kinh tế song song với việc nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân Mục tiêu là đảm bảo rằng mọi người dân đều được hưởng lợi từ những thành quả của công cuộc đổi mới và có đủ cơ hội để phát triển toàn diện.
Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, trong đó bổ sung vai trò của yếu tố xã hội Nhà nước có trách nhiệm xây dựng và quản lý chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế và chính sách, đồng thời phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường Các tổ chức xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết vấn đề giữa các thành viên, bảo vệ lợi ích của họ và cung cấp dịch vụ hỗ trợ Hơn nữa, các tổ chức này còn phản ánh nguyện vọng của nhân dân với Nhà nước, tham gia phản biện các chính sách và giám sát việc thực thi pháp luật của cơ quan nhà nước.
2.2.2 Chính sách xã hội ngày càng gắn với việc đảm bảo các quyền cơ bản của người dân
24 download by : skknchat@gmail.com
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) được thông qua tại Đại hội VII nhấn mạnh mục tiêu xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân Đồng thời, cương lĩnh cũng đề ra việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân Đảng khẳng định rằng quyền con người là mục tiêu và động lực chính cho sự phát triển xã hội.
Theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta nhấn mạnh việc chăm lo cho con người và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mọi cá nhân, đồng thời tôn trọng các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết Đại hội X tiếp tục khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu và động lực cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời nhấn mạnh việc xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Trong sáu nhiệm vụ trọng tâm đặt ra trong Nghị quyết Đại hội XII, nhiệm vụ năm:
Thu hút và phát huy mọi nguồn lực cùng sức sáng tạo của nhân dân là mục tiêu quan trọng, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần Cần giải quyết hiệu quả những vấn đề bức thiết, tăng cường quản lý phát triển xã hội, đảm bảo an ninh xã hội và an sinh con người Đồng thời, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững cũng là nhiệm vụ cần thiết Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thể hiện quan điểm mới trong xây dựng và phát triển con người của Đảng.
Đại hội XIII nhấn mạnh việc khơi dậy tinh thần yêu nước và ý chí tự cường dân tộc, đồng thời khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để hướng tới khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc Để triển khai các văn kiện của Đại hội XIII vào thực tiễn, cần lồng ghép và tích hợp cách tiếp cận dựa trên quyền con người vào chính sách chính trị - xã hội.
2.2.3 Những nhận thức mới trong từng lĩnh vực Lao động, Người có công và Xã hội 2.2.3.1 Lĩnh vực việc làm
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII nhấn mạnh rằng việc giải quyết việc làm hiệu quả nhất là thông qua việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chú trọng vào phát triển cả sản xuất và dịch vụ Cần kết hợp giữa việc tạo việc làm tại chỗ và phân bổ nguồn lực hợp lý.
Để giải quyết vấn đề việc làm, cần bố trí lao động theo vùng lãnh thổ, xây dựng các khu kinh tế mới và hình thành các cụm kinh tế-kỹ thuật-dịch vụ nhỏ tại nông thôn và các thị trấn Đồng thời, việc mở rộng xuất khẩu lao động và đa dạng hóa việc làm là cần thiết để thu hút nguồn lao động từ mọi thành phần kinh tế Giải quyết việc làm là trách nhiệm chung của tất cả các ngành, cấp, đơn vị và từng gia đình, cá nhân, với sự đầu tư từ Nhà nước và cộng đồng Cần có chương trình đồng bộ và sớm ban hành Luật Lao động cùng các quy chế cụ thể nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động cũng như người sử dụng lao động.