1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) thu hút FDI từ cộng đồng kinh tế ASEAN và ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa việt nam và các quốc qia thành viên

112 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 112
Dung lượng 761,58 KB

Cấu trúc

  • LỜI CAM ĐOAN

  • LỜI CẢM ƠN

  • MỤC LỤC

  • DANH MỤC BIỂU ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH

  • DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

  • ASEAN Comprehensive Investment Agreement

  • TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài

  • 2. Tình hình nghiên cứu

  • 3. Mục đích và nhiệm vụ

  • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

  • 5. Phương pháp

  • 6. Những tính mới của luận văn

  • 7. Kết cấu của luận văn

  • CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ FDI, CỘNG ĐỒNG KINH TẾ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA FDI TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU

  • 1.1. Đặc điểm của FDI và xuất, nhập khẩu trong Cộng đồng kinh tế

    • 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Cộng đồng kinh tế

    • 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức của FDI trong Cộng đồng kinh tế

  • FDI được điều chỉnh bởi Hiệp định đầu tư khu vực

  • Hiệp định đầu tư quốc tế (IIAs) là các thỏa thuận giữa các nước đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến đầu tư quốc tế và điều chỉnh các hoạt động này trong đó có FDI (Vũ Chí Lộc, Giáo trình Đầu tư quốc tế, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2012, trang 254). Khi một khu vực kinh tế hay Cộng đồng kinh tế được thành lập, các quốc gia thành viên luôn muốn đảm bảo đầu tư nội khối giữa các quốc gia với nhau, dành cho nhau những ưu đãi và thuận lợi hơn so với các quốc gia ngoài khối vì vậy mà thông thường sẽ đưa ra Hiệp định đầu tư khu vực gắn với các chương trình liên kết khu vực. IIAs trong khu vực sẽ hướng vào việc tạo điều kiện thuận lợi hơn cho FDI thông qua quá trình tự do hóa các quy định liên quan đến gia nhập và hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài tại nước nhận đầu tư. Để Hiệp định này có hiệu lực hoàn toàn thì các quốc gia thành viên sẽ trải qua các giai đoạn chuyển đổi, điều chỉnh hệ thống pháp luật, các quy định về đầu tư nước ngoài, áp dụng tùy vào tình hình của mỗi nước trước khi có thể thống nhất hoàn toàn với nhau những cam kết, mở cửa nhằm tạo môi trường tự do hóa thương mại trong nội khối.

  • FDI tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng dưới tác động của các chính sách chung trong Cộng đồng kinh tế

  • Theo UNCTAD (1998) “Một nhà đầu tư nước ngoài khi lựa chọn địa điểm đầu tư sẽ quan tâm đến 3 nhóm yếu tố chính của nước tiếp nhận, bao gồm yếu tố chính sách, yếu tố kinh tế và yếu tố kinh doanh”.

  • Yếu tố chính sách liên quan đến ổn định kinh tế, chính trị và xã hội; quy định về gia nhập và hoạt động; đối xử với doanh nghiệp; chính sách thương mại và các hiệp định FDI quốc tế. Việc ký kết và tham gia vào Cộng đồng kinh tế sẽ tăng thêm sự đảm bảo về môi trường chính trị, giúp gia tăng niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài và từ đó cải thiện dòng vốn FDI vào các nước thành viên.

  • Các yếu tố kinh tế sẽ phụ thuộc vào mục đích của FDI, với mục đích tìm kiếm thị trường, các yếu tố quan tâm bao gồm quy mô thị trường, tốc độ gia tăng thị trường; khả năng tiếp cận thị trường khu vực và toàn cầu. Các quốc gia thành viên trong cộng đồng kinh tế thông thường sẽ có những cam kết để xóa bỏ thuế quan và tạo thuận lợi hóa thương mại bao gồm thương mại hàng hóa và dịch vụ sẽ tác động trực tiếp đến yếu tố kinh tế thông qua mở rộng thị trường (do rào cản thương mại được xóa bỏ, tạo nên một thị trường chung rộng lớn) và giảm chi phí sản xuất, thúc đẩy FDI giữa các nước thành viên. Với mục đích tìm kiếm nguồn lực, nhà đầu tư sẽ quan tâm tới nguồn tài nguyên thiên nhiên; nguồn nhân lực; trình độ công nghệ và cơ sở hạ tầng…,

  • Các yếu tố kinh doanh bao gồm: xúc tiến đầu tư, khuyến khích đầu tư, thủ tục đầu tư dành cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ được xem xét đến khi ra quyết định đầu tư. Điều này sẽ được quy định rất rõ và cụ thể trong các cam kết về tự do hóa đầu tư giữa các quốc gia thành viên, và với Cộng đồng kinh tế thì rõ ràng những điểm này sẽ được cải thiện và có thuận lợi hơn hẳn so với các quốc gia ngoại khối, và như vậy nước nhận đầu tư sẽ có nhiều hơn nguồn vốn FDI từ các quốc gia khác.

  • Như vậy, đối với một quốc gia đang là thành viên của Cộng đồng kinh tế hoàn toàn có những lợi thế hơn so với các quốc gia khác để hoàn thiện và nâng cao giá trị, chất lượng các nhóm yếu tố mà nhà đầu tư quan tâm để thu hút giá trị vốn đầu tư nhiều hơn đặc biệt là từ các quốc gia cùng Cộng đồng kinh tế. Đồng nghĩa với giá trị nguồn vốn FDI từ các nước thành viên khác trong khu vực vào nước nhận đầu tư tăng lên liên tục thì nước nhận đầu tư cũng sẽ được lợi từ môi trường đầu tư, vị thế đầu tư của khu vực và sẽ là điểm đến đầu tư của nhiều các quốc gia khác trên thế giới.

  • FDI gắn với Hiệp định thương mại khu vực sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất, nhập khẩu của quốc gia nhận đầu tư

  • Tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài

  • Các doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài

  • Đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT

  • Hợp đồng hợp tác kinh doanh

    • 1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của xuất nhập khẩu trong cộng đồng kinh tế

  • 1.2. Những nội dung cơ bản về ảnh hưởng của FDI đến xuất nhập khẩu của nước tiếp nhận đầu tư trong Cộng đồng kinh tế

  • Lý thuyết cổ điển tiêu biểu cho thấy sự ảnh hưởng của FDI lên xuất khẩu, nhập khẩu của nước tiếp nhận đầu tư là lý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm IPLC (International product life cycle) – Raymond Vernoon.

  • Lý thuyết này được S.Hirsch đưa ra trước tiên và sau đó được Vernoon phát triển một cách có hệ thống từ năm 1966. Lý thuyết này lý giải cả vấn đề đầu tư quốc tế lẫn thương mại quốc tế, coi đầu tư quốc tế là một giai đoạn tự nhiên trong vòng đời sản phẩm. Lý thuyết này giải thích tại sao các nhà sản xuất lại chuyển hướng hoạt động kinh doanh từ xuất khẩu sang thực hiện FDI và cho thấy vai trò của các phát minh, sáng chế trong thương mại và đầu tư quốc tế bằng cách phân tích vòng đời của sản phẩm theo các giai đoạn nối tiếp nhau. Lý thuyết này chỉ ra các sản phẩm sau khi được sản xuất tại nước phát minh sẽ được xuất khẩu sang các nước khác, nhưng khi sản phẩm đã trở nên phổ biến và chấp nhận rộng rãi trên thị trường thì sẽ được tiến hành sản xuất ở các nước khác (có thể là nước nhập khẩu) thông qua thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài, sau đó thể xuất khẩu lại chính nước phát minh ban đầu.

    • 1.2.1. Ảnh hưởng của FDI tới hoạt động xuất khẩu

    • 1.2.2. Ảnh hưởng của FDI tới hoạt động nhập khẩu

  • Từ những lý luận và nghiên cứu đã nêu trên, ta có thể đưa ra một số kết luận về ảnh hưởng của thu hút FDI đến xuất, nhập khẩu của nước nhận đầu tư như sau:

  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TỪ AEC VÀO VIỆT NAM, XUẤT NHẬP KHẨU GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA FDI TỚI XUẤT NHẬP KHẨU

  • 2.1. Tổng quan về Cộng đồng kinh tế AEC và các quy định về đầu tư nước ngoài trong AEC

    • 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của AEC

    • 2.1.2. Các quy định về đầu tư nước ngoài trong AEC

  • 2.2. Thực trạng thu hút FDI từ AEC vào Việt Nam và xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên

    • 2.2.1. Tình hình thu hút FDI từ AEC vào Việt Nam

      • 2.2.1.1. Các cam kết và thực hiện cam kết của Việt Nam nhằm thu hút đầu tư từ các quốc gia trong AEC hiện nay

      • 2.2.1.2. FDI theo tổng giá trị vốn và dự án

  • Với tiến trình hội nhập để tiến tới thành lập cộng đồng kinh tế AEC mà AEC trở thành lựa chọn lý tưởng đối với các nhà đầu tư nước ngoài cả trong và ngoài khu vực với thị trường nội khối có quy mô lớn (hơn 600 triệu dân) trong đó tầng lớp tiêu dùng trung lưu đang tăng lên mạnh mẽ, nguồn lao động dồi dào với chi phí thấp, các rào cản về thuế quan được xóa bỏ dần cùng với chính sách thu hút đầu tư thông thoáng, cải thiện môi trường đầu tư của khu vực. Từ năm 2013 khu vực ASEAN đã vượt qua Trung Quốc để trở thành khu vực thu hút nhiều FDI nhất trên thế giới trong bối cảnh dòng vốn FDI toàn cầu sụt giảm và tăng trưởng kinh tế không đồng đều.

  • Nguồn: Tổng hợp từ ASEAN Statistical Yearbook 2015 và Asean Economic Community Chartbook 2016

  • Biểu đồ 1: Giá trị FDI ròng vào ASEAN giai đoạn 2005 – 2015 (Đơn vị: triệu USD)

  • Theo biểu đồ trên, có thể thấy tổng giá trị FDI vào khu vực ASEAN không ngừng tăng qua các năm từ giai đoạn năm 2011 – 2014, năm 2015 có giảm đôi chút. Trong đó, FDI ròng nội khối giai đoạn 2010 – 2015 có sự tăng hơn so với giai đoạn trước nhưng thay đổi không đáng kể giữa các năm. Từ năm 2012 (khi hiệp định ACIA có hiệu lực) đến 2013 FDI ròng nội khối giảm không đáng kể 5% và lại tăng 25% trong năm 2014, nhưng đến năm 2015 lại giảm 8,8%. Như vậy, FDI ròng nội khối của AEC tương đối ổn định qua các năm. Từ biểu đồ cũng thấy, giá trị đầu tư nội khối so với tổng dòng vốn FDI thu hút được vào ASEAN còn chiếm tỷ trọng khá thấp so với những nỗ lực về việc xây dựng cộng đồng kinh tế AEC cũng như đưa ra giải pháp nhằm gia tăng thu hút đầu tư từ giai đoạn đầu thành lập Cộng đồng ASEAN (với Hiệp định AIGA 1987, AIA 1998 và ACIA 2012).

  • Biểu đồ 2: Giá trị FDI ròng từ khu vực các nước ASEAN vào Việt Nam giai đoạn từ năm 2005 - 2015

  • Biểu đồ 3: Tỷ trọng số dự án đầu tư và tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam theo đối tác (tính lũy kế đến ngày 20/12/2016)

  • Bảng 1: FDI tại Việt Nam theo đối tác trong AEC

  • (Lũy kế các dự án hiệu lực đến ngày 20/12/2016)

  • Bảng 2: FDI tại Việt Nam theo đối tác đầu tư (Lũy kế các dự án hiệu lực đến ngày 20/12/2016)

    • 2.2.1.3. FDI theo hình thức đầu tư

  • Bảng 3: FDI từ AEC vào Việt Nam theo hình thức đầu tư lũy kế đến 31/12/2016

    • 2.2.1.4. FDI theo cơ cấu ngành và lĩnh vực đầu tư

  • Biểu đồ 4: Tỷ trọng số dự án đầu tư và vốn đầu tư theo cơ cấu đầu tư FDI vào Việt Nam (tính lũy kế đến tháng 12/2016)

  • Biểu đồ 5: Tỷ trọng số dự án đầu tư và vốn đầu tư theo cơ cấu đầu tư FDI từ AEC vào Việt Nam (tính lũy kế đến tháng 31/12/2016)

    • 2.2.2. Tình hình hoạt động xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước thành viên AEC

  • Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) chính thức có hiệu lực sẽ tạo cơ hội hợp tác kinh tế của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực, với quy mô thị trường trên 600 triệu dân, và hàng loạt dòng thuế được cắt giảm, được kỳ vọng sẽ đẩy mạnh hoat động xuất nhập khẩu giữa các nước nội khối. Trước khi AEC được thành lập đã có hơn 90% dòng thuế được cắt giảm theo AITGA, sau khi AEC chính thức được triển khai thì có đến 669 dòng thuế còn lại liên quan đến các lĩnh vực nhạy cảm như ô tô, sữa, sắt thép… cắt giảm dần. Năm 2018, thuế quan của các sản phẩm như: đường, muối, gia cầm, thuốc lá… cũng sẽ xóa bỏ (Trung tâm WTO và hội nhập, VCCI). Điều này sẽ tác động tới toàn hộ hoạt động xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên.

    • 2.2.2.1. Kim ngạch xuất, nhập khẩu

  • Biểu đồ 6 : Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước trong AEC với kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu giữa Việt Nam và thế giới trong giai đoạn 2005 - 2016

  • Biểu đồ 7: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước trong khu vực AEC trong giai đoạn 2005 – 2016

    • Nguồn: Tổng hợp từ ASEAN Trade Statistics và Tổng cục Hải quan

  • Biểu đồ 8 : Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang AEC theo thị trường giai đoạn từ năm 2005 – 2016

  • Biểu đồ 9 : Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ AEC theo thị trường giai đoạn từ năm 2005 – 2016 (đơn vị: triệu USD)

    • 2.2.2.2. Cơ cấu hàng xuất khẩu

  • Biểu đồ 10: Tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang AEC năm 2016

    • 2.2.2.3. Cơ cấu hàng nhập khẩu

  • Biểu đồ 11: Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu từ AEC vào Việt Nam năm 2015

  • 2.3. Ảnh hưởng của FDI từ AEC tới xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên

    • 2.3.1. Giá trị FDI ảnh hưởng đến kim ngạch xuất, nhập khẩu

  • Biểu đồ 12: Giá trị % thay đổi của FDI từ AEC vào Việt Nam và thay đổi trong kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước thành viên trong giai đoạn 2005 – 2015

  • Biểu đồ 13: Sự thay đổi FDI, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu tại 4 quốc gia Indonesia, Singapore, Thái Lan, Singapore trong giai đoạn 2011 – 2015

    • 2.3.2. Cơ cấu, lĩnh vực của FDI ảnh hưởng đến cơ cấu hàng xuất, nhập khẩu

  • Biểu đồ 14: Sự thay đổi về kim ngạch xuất khẩu theo sản phẩm của Việt Nam vào AEC giai đoạn từ năm 2011 – 2016

  • Biều đồ 15: Thay đổi về cơ cấu hàng nhập khẩu chủ lực của Việt Nam từ AEC giai đoạn năm 2005 - 2015

  • 2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên trong AEC

    • 2.4.1. Mức độ liên kết giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên AEC

    • 2.4.2. Nguồn nhân lực

    • 2.4.3. Trình độ phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ

    • 2.4.4. Điều kiện cơ sở hạ tầng trong hoạt động xuất nhập khẩu

  • 2.5. Nhận xét về ảnh hưởng của thu hút FDI từ AEC đến xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên

  • CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP THU HÚT FDI VÀ ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TRÊN CƠ SỞ ẢNH HƯỞNG CỦA FDI TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN AEC

  • 3.1. Mục tiêu, định hướng liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu và triển vọng thu hút FDI từ Cộng đồng kinh tế AEC vào Việt Nam

    • 3.1.1. Mục tiêu, định hướng hoạt động xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên của AEC

    • 3.1.2. Mục tiêu, định hướng thu hút FDI từ AEC

  • 3.2. Giải pháp thu hút FDI và đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên AEC

  • Dựa trên việc phân tích nguyên nhân của sự ảnh hưởng dòng vốn FDI từ AEC vào Việt Nam tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên, bên cạnh thực tế về những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu, để đạt được đồng thời những mục tiêu, định hướng của hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với thu hút FDI giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên, người viết xin đưa ra một số đề xuất, kiến nghị đối với Chính phủ, và các doanh nghiệp.

    • 3.2.1. Một số đề xuất, kiến nghị với Chính phủ

      • 3.2.1.1. Tăng mức độ liên kết chặt chẽ với các quốc gia là thành viên của AEC

      • 3.2.1.2. Nâng cao chất lượng, phát triển nguồn nhân lực trong nước

      • 3.2.1.3. Xây dựng, thu hút đầu tư FDI vào lĩnh vực khoa học công nghệ

  • Thúc đẩy, thu hút FDI áp dụng công nghệ cao vào lĩnh vực nông nghiệp

    • 3.2.1.4. Xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam

    • 3.2.2. Một số đề xuất, kiến nghị với Doanh nghiệp

  • KẾT LUẬN

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

Nội dung

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ FDI, CỘNG ĐỒNG KINH TẾ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA FDI TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU

Đặc điểm của FDI và xuất, nhập khẩu trong Cộng đồng kinh tế

1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của Cộng đồng kinh tế

Liên kết kinh tế quốc tế là quá trình xã hội hóa sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng mang tính chất toàn cầu, trong đó các chủ thể kinh tế quốc tế tham gia dựa trên các hiệp định và thỏa thuận đã ký kết Quá trình này góp phần hình thành các tổ chức kinh tế với nhiều cấp độ khác nhau.

Liên kết kinh tế quốc tế nhằm tăng cường sự phối hợp và điều chỉnh lợi ích giữa các bên, giảm thiểu sự khác biệt về điều kiện phát triển và thúc đẩy mối quan hệ kinh tế toàn cầu Các bên tham gia có thể là quốc gia hoặc tổ chức doanh nghiệp từ nhiều quốc gia khác nhau.

Liên kết kinh tế quốc tế có nhiều hình thức, trong đó Khu vực mậu dịch tự do (FTA) là một dạng tiêu biểu FTA là sự thỏa thuận giữa các thành viên nhằm giảm hoặc loại bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế số lượng, hướng tới việc hình thành một thị trường thống nhất cho hàng hóa và dịch vụ Mặc dù vậy, các quốc gia thành viên vẫn duy trì quyền độc lập và tự chủ trong quan hệ thương mại với các nước ngoài khu vực.

FTA, hay hiệp định thương mại tự do, là hình thức liên kết kinh tế quốc tế phổ biến hiện nay, cho phép các quốc gia tự do hóa thương mại với nhau Mặc dù tham gia FTA, các quốc gia vẫn có thể thực hiện chính sách riêng để đa dạng hóa thị trường và đa phương hóa các mối quan hệ kinh tế FTA cũng là phương pháp hiệu quả để đạt được sự đồng thuận trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế và thương mại quốc tế giữa các quốc gia.

Việt Nam đang tích cực gia nhập các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) để hội nhập kinh tế quốc tế, với 10 FTA đã ký kết và thực thi, 2 FTA đã kết thúc đàm phán và 4 FTA đang trong quá trình đàm phán tính đến tháng 12/2016 Sự tham gia này không chỉ khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế mà còn thúc đẩy thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và các quốc gia khác Liên minh thuế quan là một hình thức liên kết kinh tế quốc tế, nơi các quốc gia tham gia sẽ thiết lập biểu thuế quan chung và mất quyền độc lập trong thương mại với các nước ngoài khối.

Liên minh thuế quan Á Âu (EACU) bao gồm các thành viên của Liên minh kinh tế Á Âu như Belarus, Kazakhstan, Nga, Armenia và Kyrgyzstan Thị trường chung là hình thức liên kết kinh tế quốc tế, trong đó các quốc gia thành viên loại bỏ hàng rào thuế quan, hạn ngạch và giấy phép, tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và lao động Ngoài ra, các quốc gia cũng đồng bộ hóa thủ tục hải quan, quy định hành chính, giảm thiểu yêu cầu hải quan và thống nhất các tiêu chuẩn sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời thiết lập chính sách thương mại quốc tế nhất quán với các quốc gia bên ngoài.

Ví dụ: Thị trường chung Châu Âu (EC), thị trường chung Trung Mỹ, thị trường chung Đông và Nam Phi (COMESA)…

Thị trường chung đang dần hình thành giữa các quốc gia trong cùng một khu vực địa lý, nhằm nâng cao sự phát triển kinh tế cho từng quốc gia và khẳng định vị thế của khối trên toàn cầu Liên minh kinh tế (EU) là một hình thức liên kết quốc tế, nơi các quốc gia xây dựng chính sách phát triển kinh tế chung, đồng thời xóa bỏ các chính sách kinh tế riêng biệt của từng nước thành viên.

Liên minh kinh tế Á Âu (EAEU) đại diện cho hình thức liên kết kinh tế cao nhất, hướng tới việc thiết lập một khu vực kinh tế chung giữa nhiều quốc gia Trong khu vực này, các nước thành viên sẽ thực hiện các đặc điểm quan trọng nhằm thúc đẩy sự hợp tác và phát triển kinh tế bền vững.

- Xây dựng chính sách kinh tế chung

- Xây dựng chính sách đối ngoại chung

- Hình thành đồng tiền chung thống nhất thay thế cho đồng tiền riêng của mỗi nước

- Quy định chính sách lưu thông tiền tệ thống nhất

- Xây dựng ngân hàng chung thay thế cho ngân hàng trung ương của mỗi thành viên

- Xây dựng quỹ tiền tệ chung

- Xây dựng chính sách quan hệ tài chính tiền tệ chung với các nước đồng minh và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế

- Tiến tới thực hiện liên minh về chính trị.

Hiện tại, Liên minh tiền tệ châu Âu (EMU) là liên minh tiền tệ duy nhất trên thế giới, tập trung vào việc hòa nhập các chính sách kinh tế và tiền tệ của các quốc gia thành viên, đồng thời sử dụng đồng Euro làm tiền tệ chung.

Cộng đồng kinh tế, mặc dù chưa có định nghĩa chính xác, nhưng có thể hiểu là một mô hình liên kết sâu rộng giữa các quốc gia thành viên, bắt nguồn từ sự hình thành Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) năm 1957 Khái niệm này tương đương với cấp độ "thị trường chung", bao gồm các đặc điểm như tự do di chuyển của hàng hóa, dịch vụ, vốn và lực lượng lao động.

Cộng đồng kinh tế là sự liên kết giữa các quốc gia trong khu vực, giúp thống nhất các thỏa thuận về việc xóa bỏ rào cản trong hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ Mục tiêu của cộng đồng này là tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển đầu tư, giảm thiểu và loại bỏ sự phân biệt đối xử giữa các quốc gia, từ đó thiết lập các tiêu chuẩn và yếu tố đảm bảo cho sự hoạt động hiệu quả của thị trường.

Cộng đồng kinh tế có những đặc điểm nổi bật như tạo ra một thị trường chung thống nhất giữa các quốc gia thành viên thông qua các chính sách thương mại và đầu tư, giúp tự do lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ và vốn Bên cạnh đó, cộng đồng còn thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các quốc gia thành viên bằng cách đưa ra các ưu đãi và thuận lợi trong hoạt động thương mại quốc tế, đầu tư, chuyển giao công nghệ và lao động Cuối cùng, việc xây dựng một khu vực kinh tế cạnh tranh với các quốc gia và liên kết kinh tế quốc tế khác được thực hiện thông qua các chính sách phát triển chung, bao gồm thương mại, cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và sản xuất, cũng như quyền sở hữu trí tuệ và thuế quan.

1.1.2 Khái niệm, đặc điểm và các hình thức của FDI trong Cộng đồng kinh tế

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF, 1993), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hoạt động đầu tư nhằm thiết lập mối quan hệ kinh tế lâu dài với doanh nghiệp tại nền kinh tế khác, với mục tiêu giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD, 1996), quyền quản lý doanh nghiệp FDI có thể được thực hiện thông qua việc thành lập hoặc mở rộng doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp hiện có, tham gia vào doanh nghiệp mới, hoặc cấp tín dụng dài hạn trên 5 năm Để có quyền kiểm soát, nhà đầu tư cần nắm giữ từ 10% cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết trở lên.

Theo Điều 3 của Luật Đầu tư 2005 tại Việt Nam, đầu tư nước ngoài được định nghĩa là hành động mà nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác vào Việt Nam nhằm thực hiện các hoạt động đầu tư.

Trước đây, có sự phân biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư quốc tế dựa trên cách nhìn nhận khác nhau về cùng một hoạt động Khi xem xét từ góc độ quốc gia, hoạt động đầu tư giữa các quốc gia được gọi là “đầu tư nước ngoài”, trong khi từ phương diện tổng thể của nền kinh tế thế giới, nó được gọi là “đầu tư quốc tế” Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hình thức cơ bản của đầu tư quốc tế, bên cạnh các hình thức khác như Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), Đầu tư chứng khoán nước ngoài (FPI) và tín dụng tư nhân quốc tế.

Những nội dung cơ bản về ảnh hưởng của FDI đến xuất nhập khẩu của nước tiếp nhận đầu tư trong Cộng đồng kinh tế

nước tiếp nhận đầu tư trong Cộng đồng kinh tế

Lý thuyết vòng đời quốc tế của sản phẩm (IPLC) do Raymond Vernon phát triển chỉ ra rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có tác động mạnh mẽ đến hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia tiếp nhận Theo lý thuyết này, các sản phẩm trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, từ giai đoạn giới thiệu đến giai đoạn trưởng thành và suy thoái, ảnh hưởng đến dòng chảy thương mại quốc tế FDI không chỉ thúc đẩy sản xuất trong nước mà còn làm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, từ đó định hình xu hướng xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia.

Lý thuyết của S Hirsch, được Vernoon phát triển từ năm 1966, giải thích mối liên hệ giữa đầu tư quốc tế và thương mại quốc tế, coi đầu tư quốc tế là một giai đoạn tự nhiên trong vòng đời sản phẩm Lý thuyết này chỉ ra rằng các nhà sản xuất chuyển từ xuất khẩu sang đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khi sản phẩm trở nên phổ biến Sản phẩm được sản xuất tại nước phát minh và xuất khẩu sang các nước khác, nhưng khi đã được chấp nhận rộng rãi, sản phẩm sẽ được sản xuất tại các nước khác, bao gồm cả nước nhập khẩu, thông qua thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài, sau đó có thể xuất khẩu trở lại nước phát minh ban đầu.

Theo lý thuyết về FDI, đầu tư trực tiếp nước ngoài ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa Cụ thể, FDI làm giảm nhập khẩu thành phẩm từ nước chủ đầu tư sang nước nhận đầu tư, trong khi lại tăng cường nhập khẩu máy móc, nguyên liệu và công nghệ từ nước chủ đầu tư Đồng thời, FDI cũng thúc đẩy xuất khẩu thành phẩm từ nước nhận đầu tư trở lại nước chủ đầu tư và ra thị trường toàn cầu.

FDI có thể thay thế hoặc hỗ trợ thương mại quốc tế, điều này đã được chứng minh qua thực tiễn Từ những năm 1960, nhiều quốc gia áp dụng chính sách kiểm soát nhập khẩu nghiêm ngặt, khiến các nhà xuất khẩu phải đầu tư xây dựng nhà máy tại nước nhập khẩu, biến FDI thành nguồn lực thay thế cho xuất nhập khẩu Khi các dự án FDI phát triển, hàng hóa tại nước nhập khẩu gia tăng, tạo điều kiện cho việc xuất khẩu sang các quốc gia khác hoặc về nước của nhà đầu tư Mức độ thay thế hay hỗ trợ này phụ thuộc vào loại hình FDI, lĩnh vực đầu tư, chiến lược của các công ty đa quốc gia (TNC) và chính sách phát triển của mỗi quốc gia.

Trong bối cảnh Cộng đồng kinh tế hướng tới việc xây dựng một thị trường chung, việc cải thiện hệ thống pháp luật và chính sách đầu tư, thương mại quốc tế đã làm tăng sức ảnh hưởng của FDI đối với hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia tiếp nhận đầu tư FDI không chỉ tác động tổng thể mà còn ảnh hưởng riêng biệt đến các lĩnh vực xuất khẩu và nhập khẩu.

1.2.1 Ảnh hưởng của FDI tới hoạt động xuất khẩu

Các doanh nghiệp FDI đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường và thúc đẩy xuất khẩu, giúp phát huy lợi thế so sánh của yếu tố sản xuất tại nước nhận đầu tư Mặc dù các nước đang phát triển có khả năng sản xuất với chi phí cạnh tranh, nhưng họ thường gặp khó khăn trong việc thâm nhập thị trường quốc tế do các rào cản từ các nước phát triển Vì vậy, chính sách thu hút FDI của các nước này ưu tiên đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu Thông qua FDI, nước nhận đầu tư có thể nâng cao năng lực sản xuất và hiểu biết về thị trường toàn cầu, từ đó thâm nhập hiệu quả hơn vào các thị trường xuất khẩu mới, đặc biệt là ở các nước phát triển Hơn nữa, sự thỏa thuận chính sách song phương và đa phương giữa các chính phủ giúp giảm thiểu rào cản, tạo điều kiện thuận lợi cho nước nhận đầu tư tiếp cận thị trường của các nước thực hiện đầu tư.

Xét một cách tổng quan thì FDI tác động tới hoạt động xuất khẩu như sau:

- FDI ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu:

FDI thường có tác động tích cực đến kim ngạch xuất khẩu, tuy nhiên, ảnh hưởng này phụ thuộc vào ngành mà dòng vốn này đầu tư Đối với các dự án FDI chỉ sản xuất và phân phối sản phẩm tại nước sở tại, tác động đến kim ngạch xuất khẩu gần như bằng 0, như trong trường hợp các ngành bất động sản và dịch vụ Ngược lại, những dự án FDI tập trung vào xuất khẩu, tận dụng nguyên vật liệu và lao động giá rẻ để sản xuất hàng hóa cạnh tranh, như dệt may và da giày, có tác động lớn nhất đến kim ngạch xuất khẩu Ngoài ra, một số FDI còn sản xuất để tiêu thụ tại thị trường nội địa và các thị trường lân cận, như ngành hàng tiêu dùng, và mức độ tác động của chúng đến kim ngạch xuất khẩu phụ thuộc vào quy mô đầu tư và chính sách phân phối sản phẩm.

- FDI ảnh hưởng tới cơ cấu xuất khẩu

Cơ cấu ngành đầu tư FDI ảnh hưởng mạnh mẽ đến cơ cấu hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu Các ngành nhận đầu tư FDI nhiều sẽ gia tăng tỷ trọng trong xuất khẩu, trong khi các ngành không nhận được FDI và không phát triển sẽ giảm dần Trong nửa sau thế kỷ 20, các nước đang phát triển chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô, nhưng khi có FDI, xuất khẩu chuyển dịch sang các sản phẩm chế biến và hàng tiêu dùng FDI không chỉ cải thiện năng lực xuất khẩu mà còn thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu tùy thuộc vào tỷ trọng vốn FDI trong từng ngành và giai đoạn chuyển giao công nghệ của chúng.

Các nước đang phát triển, bao gồm Việt Nam, thường trải qua ba giai đoạn chuyển đổi cơ cấu xuất khẩu khi nhận được vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Giai đoạn 1 của xuất khẩu chủ yếu tập trung vào nguyên liệu thô, bao gồm các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế Đồng thời, giai đoạn này cũng ghi nhận việc nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ cao và hàng tiêu dùng mà trong nước chưa sản xuất được.

Giai đoạn 2 chứng kiến sự chuyển dịch trong cơ cấu xuất khẩu, tập trung vào các sản phẩm từ ngành công nghiệp chế biến và gia công, bao gồm dệt may, da giày, hóa chất, cùng với các tư liệu sản xuất tinh chế.

Giai đoạn 3 chứng kiến sự gia tăng tỷ trọng của các sản phẩm công nghệ cao, đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử và viễn thông, trong cơ cấu hàng xuất khẩu Ngược lại, hàng hóa nhập khẩu chủ yếu phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu tự nhiên trong nước, với tỷ trọng lớn là các sản phẩm mà nguyên liệu đầu vào cho chuỗi sản xuất không có sẵn trong nước.

- FDI ảnh hưởng tới thị trường xuất khẩu.

FDI có tiềm năng lớn để mở rộng thị trường xuất khẩu của nước nhận đầu tư, đặc biệt khi sản phẩm của các dự án FDI được định hướng cho xuất khẩu Việc mở rộng này phụ thuộc vào khả năng tiếp cận các thị trường mà nước sở tại chưa tham gia, nhưng nhà đầu tư đã có sự chiếm lĩnh và hiểu biết nhất định về các thị trường đó Hơn nữa, nhờ vào FDI, một số mặt hàng trước đây chỉ được nhập khẩu giờ đây có thể tăng sản lượng và được xuất khẩu sang các thị trường lân cận, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nước nhận đầu tư.

Các nhóm thị trường xuất khẩu bao gồm thị trường nước chủ đầu tư, khu vực thị trường lân cận và các thị trường không mang tính khu vực Khi mục tiêu xuất khẩu là nước chủ đầu tư, hàng hóa sản xuất tại nước nhận đầu tư sẽ chủ yếu được xuất khẩu về nước chủ đầu tư, làm tăng tỉ trọng hàng hóa xuất khẩu Nếu FDI hướng tới thị trường lân cận, xuất khẩu từ nước nhận đầu tư sẽ gia tăng trong khu vực, đặc biệt trong Cộng đồng kinh tế FDI cũng cho phép doanh nghiệp mở rộng thị trường ra toàn cầu, không chỉ quay về nước chủ đầu tư hoặc các quốc gia trong khu vực, mà còn tiếp cận các thị trường quốc tế khó tính Nhờ vào FDI, hàng hóa từ các nước đang phát triển có cơ hội thâm nhập vào thị trường thế giới dễ dàng hơn, nhờ vào mạng lưới thị trường rộng lớn của các doanh nghiệp nước ngoài.

Nghiên cứu về tác động của dòng vốn FDI đến xuất khẩu của nước nhận đầu tư đã được thực hiện rộng rãi, với nhiều bài nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ này.

THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TỪ AEC VÀO VIỆT NAM, XUẤT NHẬP KHẨU GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA FDI TỚI XUẤT NHẬP KHẨU

Tổng quan về Cộng đồng kinh tế AEC và các quy định về đầu tư nước ngoài trong AEC

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của AEC

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập vào ngày 08/08/1967 tại Bangkok, Thái Lan, với sự kiện ký kết tuyên bố ASEAN bởi các thành viên sáng lập gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan Sau đó, Brunei gia nhập vào ngày 07/01/1984, Việt Nam vào ngày 28/07/1995, Lào và Myanmar vào ngày 23/07/1997, và cuối cùng là Campuchia vào ngày 30/04/1999 Hiện nay, ASEAN có tổng cộng 10 quốc gia thành viên.

Vào tháng 12 năm 1997, các nhà lãnh đạo ASEAN đã định hướng xây dựng một Cộng đồng ASEAN, với mục tiêu hình thành Khu vực Kinh tế ASEAN ổn định và thịnh vượng Khu vực này sẽ có khả năng cạnh tranh cao, cho phép hàng hóa, dịch vụ và đầu tư lưu chuyển thông thoáng, đồng thời đảm bảo sự phát triển kinh tế đồng đều, giảm thiểu nghèo đói và phân hóa kinh tế-xã hội.

Tại Hội nghị cấp cao ASEAN 9 diễn ra ở Bali, Indonesia vào tháng 10/2003, các quốc gia thành viên đã thống nhất trong Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II) về mục tiêu xây dựng một cộng đồng ASEAN liên kết và tự cường vào năm 2020.

Năm 2020, ASEAN tập trung vào ba trụ cột chính: hợp tác chính trị - an ninh (Cộng đồng an ninh ASEAN - ASC), hợp tác kinh tế (Cộng đồng Kinh tế ASEAN - AEC) và hợp tác văn hóa xã hội (Cộng đồng Văn hóa Xã hội ASEAN - ASCC) Tuyên bố Hòa hợp ASEAN (Tuyên bố Bali II) đã xác định mục tiêu xây dựng AEC, nhằm tạo ra một khu vực kinh tế ổn định, thịnh vượng và cạnh tranh cao, với sự tự do di chuyển hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, đồng thời giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách kinh tế-xã hội Để thúc đẩy tiến trình hình thành Cộng đồng ASEAN, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12 tại Cebu, Philippines vào tháng 1/2007 đã quyết định rút ngắn thời gian hình thành Cộng đồng Kinh tế từ năm 2020 xuống năm 2015.

Vào ngày 22/11/2015, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 27, các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Kuala Lumpur, chính thức thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào ngày 31/12/2015 Mục tiêu của AEC là xây dựng một khu vực kinh tế thịnh vượng, ổn định và cạnh tranh cao.

Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập với mục tiêu xây dựng một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất cho các quốc gia thành viên, đồng thời thúc đẩy tự do lưu thông hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và lao động có tay nghề trong khu vực ASEAN.

Bốn đặc điểm đồng thời là bốn yếu tố cấu thành của AEC bao gồm (Ban thư ký ASEAN Quốc gia Việt Nam, Bộ Ngoại giao – Vụ ASEAN):

Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung được hình thành thông qua việc đảm bảo tự do lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề.

ASEAN sẽ thực hiện các biện pháp quan trọng để xây dựng một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất, bao gồm dỡ bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan, thuận lợi hóa thương mại, và hài hòa hóa tiêu chuẩn sản phẩm Các quy trình hải quan và xuất nhập khẩu sẽ được cải thiện để xử lý nhanh chóng hơn, đồng thời hoàn chỉnh quy tắc về xuất xứ ASEAN cũng sẽ tạo điều kiện cho dịch vụ, đầu tư, phát triển thị trường vốn, và tự do lưu chuyển dòng vốn, cũng như thuận lợi hóa di chuyển lao động có tay nghề.

Các nước thành viên ASEAN đang triển khai nhiều biện pháp quan trọng thông qua các thỏa thuận và hiệp định như Hiệp định Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA), Hiệp định khung ASEAN về Dịch vụ (AFAS), Hiệp định khung về Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA), Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA), Hiệp định khung về Hợp tác Công nghiệp ASEAN (AICO) và Lộ trình Hội nhập Tài chính và Tiền tệ ASEAN.

Một khu vực kinh tế cạnh tranh được hình thành thông qua các chính sách về cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, cũng như các quy định về thuế quan và thương mại điện tử.

ASEAN đang tích cực thúc đẩy các chính sách cạnh tranh nhằm bảo vệ người tiêu dùng và quyền sở hữu trí tuệ Đồng thời, tổ chức này cũng chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng, bao gồm hệ thống đường bộ, đường sắt, cảng biển và năng lượng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển thương mại điện tử trong khu vực.

Phát triển kinh tế cân bằng là một mục tiêu quan trọng, được thực hiện thông qua việc triển khai các kế hoạch phát triển cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thực hiện các sáng kiến hội nhập nhằm giảm thiểu khoảng cách phát triển trong khu vực ASEAN.

ASEAN đã phê duyệt và triển khai Khuôn khổ ASEAN về Phát triển Kinh tế Đồng đều (AFEED), tập trung vào việc hỗ trợ các quốc gia thành viên mới và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu được thực hiện thông qua việc tham vấn chặt chẽ trong các cuộc đàm phán với đối tác và quá trình tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu, đặc biệt là thông qua Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) cùng với các cam kết và hiệp định về thương mại, đầu tư và lao động nhằm tạo ra một thị trường chung, giúp các quốc gia thành viên ổn định và phát triển AEC không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mà còn tác động đến xuất nhập khẩu giữa các nước trong khu vực, góp phần nâng cao vị thế của ASEAN trên trường châu lục và quốc tế.

2.1.2 Các quy định về đầu tư nước ngoài trong AEC

Thực trạng thu hút FDI từ AEC vào Việt Nam và xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên

2.2.1 Tình hình thu hút FDI từ AEC vào Việt Nam

2.2.1.1 Các cam kết và thực hiện cam kết của Việt Nam nhằm thu hút đầu tư từ các quốc gia trong AEC hiện nay

Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN vào ngày 28/07/1995 và được coi là một thành viên quan trọng, tích cực đóng góp vào việc xây dựng một liên kết kinh tế khu vực mạnh mẽ và có ảnh hưởng toàn cầu Đất nước này chia sẻ quan điểm với các thành viên ASEAN khác, đồng ý với các hiệp định đầu tư của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) nhằm tạo ra một môi trường đầu tư tự do, mở cửa và cạnh tranh hơn, qua đó thúc đẩy đầu tư nội khối và thu hút nguồn vốn từ bên ngoài Việt Nam cũng đang nỗ lực hoàn thiện chính sách và pháp luật đầu tư trong nước để phù hợp với các thay đổi trong môi trường khu vực và quốc tế, đồng thời đảm bảo sự thống nhất giữa quy định của AEC và pháp luật quốc gia.

Việt Nam cam kết tham gia ACIA với một số quy định, nhưng do trình độ phát triển còn hạn chế, chỉ mở cửa cho đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ gián tiếp, tái bảo hiểm, trung gian bảo hiểm và các dịch vụ phụ trợ Trong lĩnh vực ngân hàng, Việt Nam cho phép tự do dịch vụ gửi tiền, cho vay và các phương tiện thanh toán, bảo lãnh Tuy nhiên, đối với một số lĩnh vực tài chính như quản lý tài khoản đầu tư, quản lý tài sản và bảo lãnh thanh toán với tài sản tài chính, Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng tham gia.

Luật đầu tư 2014, có hiệu lực từ ngày 01/07/2017, đã đưa ra nhiều quy định mới nhằm tạo thuận lợi và ưu đãi cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Những điểm nổi bật của luật này góp phần thu hút các nhà đầu tư tham gia vào sản xuất kinh doanh trong nước.

- Lĩnh vực đầu tư: giới hạn, cụ thể rõ ràng các ngành nghề đầu tư kinh doanh.

Luật đầu tư mới đã thay đổi quy định về các lĩnh vực đầu tư, chỉ cấm các hoạt động đầu tư kinh doanh được liệt kê cụ thể, điều này khẳng định quyền của nhà đầu tư trong việc thực hiện hoạt động đầu tư trong những ngành nghề không bị cấm Với danh sách 267 ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, nhà đầu tư có thể dễ dàng tìm hiểu và nắm bắt thông tin mà không cần tham khảo nhiều văn bản chuyên ngành Quy định này cũng giúp giảm thiểu sự hiểu lầm trong việc áp dụng luật, tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng, thu hút tối đa đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Chính sách đảm bảo đầu tư theo Luật đầu tư 2014 đã thay đổi khái niệm “Đầu tư kinh doanh” để thay thế cho “Đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp” của Luật đầu tư 2005 Sự phân tách này ảnh hưởng đến tự do kinh doanh của nhà đầu tư, khi họ có thể vừa góp vốn quản lý vừa mua cổ phiếu hoặc chứng chỉ quỹ Việc phân chia giữa đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp làm cho quản lý và sở hữu của nhà đầu tư trở nên phức tạp, mặc dù thực chất đây chỉ là các phương thức đầu tư nhằm mục đích kiếm lợi nhuận.

Theo Luật Đầu tư 2014, quy định về thủ tục gia nhập thị trường đã được điều chỉnh, chỉ yêu cầu cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài khi nhà đầu tư nắm giữ 51% vốn điều lệ Điều này khác với Luật Đầu tư 2005, khi tất cả các dự án có vốn nước ngoài đều phải xin giấy chứng nhận Ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngoài không cần thực hiện đăng ký đầu tư khi góp vốn hoặc mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam, giúp tiết kiệm thời gian và thủ tục Những thay đổi này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư nước ngoài, thu hút và khuyến khích đầu tư vào thị trường Việt Nam.

Luật Đầu tư 2014 đã làm rõ các khái niệm “nhà đầu tư trong nước”, “nhà đầu tư nước ngoài” và “tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” Việc phân biệt những khái niệm này ảnh hưởng đến phạm vi kinh doanh, điều kiện đầu tư cũng như quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư Đặc biệt, luật cũng quy định chế độ áp dụng riêng cho nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Để thực hiện Luật Đầu tư năm 2014 và nâng cao tính minh bạch trong các ngành nghề đầu tư kinh doanh, Chính phủ đã ban hành nhiều quy định về điều kiện kinh doanh Trong số đó, Nghị định 66/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 quy định các điều kiện đầu tư kinh doanh liên quan đến bảo vệ và kiểm dịch thực vật, giống cây trồng, nuôi động vật rừng, chăn nuôi, thủy sản và thực phẩm Bên cạnh đó, Nghị định 77/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 cũng sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện đầu tư trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế, hóa chất, vật liệu nổ công nghiệp, phân bón, kinh doanh khí và thực phẩm, thuộc sự quản lý của Bộ Công Thương.

Luật đầu tư 2014 và các Nghị định của Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư bằng cách mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động đầu tư, kinh doanh Những quy định này đã xóa bỏ các rào cản không phù hợp với thông lệ kinh tế thị trường, đồng thời thể hiện cam kết hội nhập của Việt Nam Nhờ vào những nỗ lực tham gia vào tự do hóa đầu tư của AEC và sự mở cửa chính sách trong nước, các doanh nghiệp từ các nước AEC sẽ có cơ hội đầu tư nhiều hơn và chất lượng hơn tại Việt Nam.

2.2.1.2 FDI theo tổng giá trị vốn và dự án

Tiến trình hội nhập ASEAN hướng tới cộng đồng kinh tế AEC đã tạo ra một thị trường nội khối lớn với hơn 600 triệu dân, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài nhờ vào sự gia tăng của tầng lớp tiêu dùng trung lưu và nguồn lao động dồi dào với chi phí thấp Các rào cản thuế quan đang dần được xóa bỏ cùng với chính sách thu hút đầu tư linh hoạt đã cải thiện môi trường đầu tư trong khu vực Kể từ năm 2013, ASEAN đã vượt qua Trung Quốc để trở thành khu vực thu hút nhiều FDI nhất thế giới, bất chấp sự sụt giảm của dòng vốn FDI toàn cầu và tình hình tăng trưởng kinh tế không đồng đều.

FDI ròng nội khối FDI ròng ngoại khối Tổng FDI vào ASEAN

Nguồn: Tổng hợp từ ASEAN Statistical Yearbook 2015 và Asean Economic

Biểu đồ 1: Giá trị FDI ròng vào ASEAN giai đoạn 2005 – 2015 (Đơn vị: triệu

Từ biểu đồ, tổng giá trị FDI vào khu vực ASEAN đã liên tục tăng từ năm 2011 đến 2014, mặc dù có sự giảm nhẹ vào năm 2015 FDI ròng nội khối trong giai đoạn 2010 – 2015 tăng hơn so với giai đoạn trước, nhưng biến động giữa các năm không đáng kể Cụ thể, từ năm 2012 đến 2013, FDI ròng nội khối giảm 5% và sau đó tăng 25% vào năm 2014, nhưng lại giảm 8,8% vào năm 2015 Điều này cho thấy FDI ròng nội khối của AEC tương đối ổn định Tuy nhiên, giá trị đầu tư nội khối so với tổng dòng vốn FDI vào ASEAN vẫn còn thấp, điều này phản ánh những thách thức trong việc xây dựng cộng đồng kinh tế AEC và thu hút đầu tư từ khi thành lập Cộng đồng ASEAN với các hiệp định như AIGA 1987, AIA 1998 và ACIA 2012.

Việt Nam đang kỳ vọng thu hút mạnh mẽ dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI), đặc biệt là từ các nhà đầu tư trong khu vực, nhằm mở rộng hoạt động sản xuất và kinh doanh Sự phát triển này không chỉ giúp ổn định nguồn vốn nội khối mà còn tạo ra nhiều cơ hội mới cho nền kinh tế Việt Nam.

Nguồn: Báo cáo hàng năm của Asean Statistical Yearbook 2015 và Asean

Biểu đồ 2: Giá trị FDI ròng từ khu vực các nước ASEAN vào Việt Nam giai đoạn từ năm 2005 - 2015

Biểu đồ thể hiện sự biến động của giá trị FDI ròng từ các nước ASEAN vào Việt Nam giai đoạn 2005 – 2015 Luật đầu tư mới năm 2005 đã cải thiện môi trường đầu tư, dẫn đến sự tăng trưởng nhanh chóng của FDI Tuy nhiên, giai đoạn 2005 – 2007 chỉ ghi nhận mức tăng 390 triệu USD, bất chấp tỷ lệ tăng 254% Năm 2008, Việt Nam thu hút được 1,263 tỷ USD nhờ gia nhập WTO và tác động từ khủng hoảng tài chính toàn cầu Đến 2009, FDI từ ASEAN giảm mạnh, với chỉ 207 dự án và 429 triệu USD tăng thêm Giai đoạn 2012 – 2015, tổng giá trị FDI ròng có xu hướng tăng, nhưng không ổn định, mặc dù Hiệp định ACIA có hiệu lực từ 2012 Điều này cho thấy, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện chính sách đầu tư và môi trường kinh doanh để thu hút FDI từ AEC một cách bền vững và hiệu quả.

Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trở thành một ưu tiên hàng đầu FDI không chỉ cung cấp vốn cho sản xuất và kinh doanh mà còn giúp tiếp thu khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới, thúc đẩy công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước Đầu tư FDI tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế Nhờ mở cửa thị trường và giao lưu quốc tế, Việt Nam đã mở rộng phạm vi đối tác đầu tư FDI trên toàn thế giới Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài vào tháng 12/2016, tính đến ngày 20/12/2016, Việt Nam đã thu hút một lượng vốn FDI đáng kể.

Việt Nam thu hút đầu tư từ 116 quốc gia trên nhiều châu lục khác nhau Tỷ trọng giá trị FDI từ từng đối tác đầu tư vào Việt Nam được thể hiện rõ trong biểu đồ 3 dưới đây.

Hàn Quốc Nhật Bản Đài Loan Hồng Kông Trung Quốc ASEAN Khác

Nguồn: Số liệu FDI tháng 12/2016, Cục Đầu tư nước ngoài

Biểu đồ 3: Tỷ trọng số dự án đầu tư và tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam theo đối tác (tính lũy kế đến ngày 20/12/2016)

Ảnh hưởng của FDI từ AEC tới xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc

Việt Nam đang thu hút ngày càng nhiều FDI từ các nước trong khu vực AEC, với sự gia tăng chất lượng dự án đầu tư, đặc biệt trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và sản xuất, xây dựng Sự gia tăng này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, bao gồm kim ngạch, cơ cấu và thị trường xuất, nhập khẩu, phù hợp với chính sách công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

Dưới đây sẽ phân tích dựa trên số liệu thống kê được từ các năm trong giai đoạn 2005 – 2015 về sự ảnh hưởng này.

2.3.1 Giá trị FDI ảnh hưởng đến kim ngạch xuất, nhập khẩu Để xem xét sự ảnh hưởng của giá trị FDI đến kim ngạch xuất, nhập khẩu, ta phân tích mối liên hệ giữa tốc độ tăng trưởng tổng giá trị FDI và tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu và nhập khẩu trong giai đoạn nghiên cứu.

% thay đổi của kim ngạch xuất khẩu

% thay đổi của kim ngạch nhập khẩu

Nguồn: Tổng hợp từ ASEAN Statistics

Biểu đồ 12 thể hiện sự thay đổi phần trăm giá trị FDI từ AEC vào Việt Nam, cùng với sự biến động trong kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước thành viên AEC trong giai đoạn 2005 – 2015 Thông qua biểu đồ, có thể nhận thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa FDI và thương mại quốc tế, cho thấy tác động tích cực của AEC đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ này.

Biểu đồ cho thấy giá trị dòng vốn FDI vào Việt Nam có sự biến động lớn qua các năm, nhưng không ảnh hưởng nhiều đến kim ngạch xuất, nhập khẩu với các quốc gia Trong giai đoạn 2009 – 2012, giá trị vốn FDI và kim ngạch xuất, nhập khẩu có sự tương đồng khi tăng hoặc giảm tương ứng, mặc dù mức độ không hoàn toàn giống nhau Tuy nhiên, từ 2012 – 2015, mặc dù FDI vào Việt Nam có sự dao động mạnh (giảm mạnh năm 2012, tăng lại năm 2013, giảm năm 2014 và tăng năm 2015), nhưng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu lại khá ổn định, không có sự thay đổi đáng kể.

Giai đoạn đầu, dòng vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực xuất khẩu và nhập khẩu, dẫn đến việc tăng cường nhập khẩu nguyên liệu và thiết bị sản xuất Sau khi tiếp nhận công nghệ, các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước sẽ chuyển hướng sản xuất để phục vụ tiêu dùng nội địa, thay thế việc nhập khẩu trước đó, đồng thời mở rộng xuất khẩu sang các thị trường quốc tế thay vì chỉ xuất khẩu trở lại cho các nhà đầu tư.

Hiện nay, trong khu vực AEC, Việt Nam thu hút đầu tư FDI từ bốn quốc gia chính là Singapore, Thái Lan, Malaysia và Indonesia Những quốc gia này không chỉ có số dự án đầu tư lớn mà còn là những đối tác thương mại quốc tế quan trọng của Việt Nam, với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đáng kể Do đó, để đánh giá tác động của FDI đến sự biến động của kim ngạch xuất nhập khẩu, cần phân tích từng quốc gia cụ thể.

Xuất khẩu Nhập khẩu FDI

Xuất khẩu Nhập khẩu FDI

Nguồn: Tổng hợp từ ASEAN Statistics

Biểu đồ 13: Sự thay đổi FDI, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu tại 4 quốc gia Indonesia, Singapore, Thái Lan, Singapore trong giai đoạn 2011 – 2015

Dựa trên biểu đồ, việc đánh giá ảnh hưởng của sự biến động giá trị FDI từ bốn đối tác đầu tư chính đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong khu vực AEC dường như gặp khó khăn Sự thay đổi này ít có tác động đến kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực.

2.3.2 Cơ cấu, lĩnh vực của FDI ảnh hưởng đến cơ cấu hàng xuất, nhập khẩu

Cơ cấu FDI từ AEC vào Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, chế biến, chế tạo, chiếm hơn 50% tổng vốn đầu tư Ngoài ra, đầu tư còn hướng tới kinh doanh bất động sản, sản xuất và phân phối điện, nước, khí, điều hòa, cùng với lĩnh vực xây dựng Theo lý thuyết, cơ cấu FDI có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của quốc gia, và xu hướng này sẽ phụ thuộc vào giai đoạn của quá trình chuyển giao công nghệ khi có FDI.

Sự thay đổi trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang AEC chủ yếu tập trung vào các ngành như điện thoại và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử, sắt thép, và máy móc thiết bị, được ưu tiên thu hút đầu tư FDI Ngành dệt may, mặc dù đứng thứ ba thế giới về kim ngạch xuất khẩu, chủ yếu phục vụ thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Trung Quốc, nhưng không được xem xét do hình thức gia công xuất khẩu và sự cạnh tranh từ các nước trong khu vực Ngoài ra, nông thủy sản cũng chiếm tỷ trọng cao, với gạo, café, chè, và hạt điều là những sản phẩm chủ lực, nhưng FDI vào nông nghiệp vẫn hạn chế, chỉ đạt 2% tổng vốn đầu tư AEC vào Việt Nam tính đến cuối năm 2016.

Theo biểu đồ, giá trị xuất khẩu của các lĩnh vực được khảo sát đều có xu hướng tăng qua các năm, ngoại trừ sắt thép, giảm từ 1.556 triệu USD xuống 1.055 triệu USD trong giai đoạn 2014 – 2016 Điều này cho thấy sự tương quan giữa lĩnh vực đầu tư FDI và kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế biến, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế quốc gia, khi ngành công nghiệp nước ta đang tiến tới ứng dụng công nghệ cao và tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật từ nước ngoài.

3500 Điện thoại các loại và linh kiện

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện Sắt thép các loại

Máy móc thiết bị và dụng cụ

Nguồn: Tổng hợp từ nguồn của Tổng cục hải quan, Báo cáo xuất nhập khẩu 2016 của Bộ Công thương

Biểu đồ 14: Sự thay đổi về kim ngạch xuất khẩu theo sản phẩm của Việt Nam vào AEC giai đoạn từ năm 2011 – 2016

 Thay đổi trong cơ cấu hàng nhập khẩu

Việt Nam đang điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu, giảm dần lượng nhập khẩu nhiên liệu và khoáng sản Tuy nhiên, với lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu xăng dầu, giá trị và tỷ trọng nhập khẩu mặt hàng này có thể tăng lên trong tương lai Tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị dụng cụ và sản phẩm từ chất dẻo giữ ổn định, trong khi nhập khẩu sản phẩm điện gia dụng và phụ tùng đang gia tăng, đặc biệt từ năm 2012 đến 2015 Giai đoạn này chứng kiến tỷ trọng nhập khẩu sản phẩm điện gia dụng và phụ tùng tăng lên 9,1% vào năm 2011, do đầu tư FDI từ AEC vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam, dẫn đến nhu cầu nhập khẩu máy móc và thiết bị từ các quốc gia này cho hoạt động xây dựng và sản xuất.

Nhiên liệu và khoáng sản, cùng với chất dẻo và các sản phẩm từ chất dẻo, đóng vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp Máy móc, thiết bị và dụng cụ, bao gồm cả sản phẩm điện gia dụng và phụ tùng, là những yếu tố cần thiết cho sản xuất và đời sống hàng ngày Ngoài ra, phương tiện giao thông và phụ tùng cũng góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế Tất cả những yếu tố này đều tạo nên một hệ sinh thái đa dạng và phong phú.

Nguồn: Tổng hợp từ ASEAN Statistics

Biều đồ 15: Thay đổi về cơ cấu hàng nhập khẩu chủ lực của Việt Nam từ AEC giai đoạn năm 2005 - 2015

Kết luận cho thấy, việc thu hút FDI từ các nước ASEAN không có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên Sự biến động của giá trị FDI ròng ít tương quan với kim ngạch xuất/nhập khẩu, chủ yếu do FDI tập trung vào lĩnh vực dịch vụ như bất động sản, lưu trú và thông tin, ít tác động đến hàng hóa Khoảng 50% giá trị đầu tư thuộc ngành chế biến, với sản phẩm xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường khác, không quay lại nước chủ đầu tư Hơn nữa, chỉ khoảng 10% giá trị xuất khẩu nông lâm, thủy sản vào AEC không phụ thuộc vào FDI do tỷ trọng FDI từ AEC vào nông nghiệp rất thấp (1-2%) Do đó, xuất nhập khẩu có thể chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ các hiệp định thương mại khu vực hơn là từ hoạt động đầu tư nội khối.

Cơ cấu xuất khẩu đã có sự cải thiện rõ rệt với việc giảm tỷ lệ hàng hóa thô và sơ chế như dầu thô, than đá, cá, nông sản và thủy sản có giá trị gia tăng thấp Mặc dù nhóm hàng này vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu, nhưng xu hướng chuyển dịch sang các sản phẩm chế biến sâu đang ngày càng rõ nét.

FDI tại Việt Nam có mối liên hệ chặt chẽ với cơ cấu xuất nhập khẩu, trong đó nước ta chủ yếu nhập khẩu khoáng sản thô, máy móc và nguyên liệu chưa qua gia công để phục vụ sản xuất Đồng thời, Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn như thiết bị, phụ tùng máy móc và linh kiện máy vi tính.

Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên trong AEC

và các quốc gia thành viên trong AEC

2.4.1 Mức độ liên kết giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên AEC

Việc gia nhập AEC mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội xuất nhập khẩu hàng hóa, bao gồm việc mở rộng thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu với các quốc gia thành viên khác Xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng ổn định nhờ vào ưu đãi thuế quan, với hơn 99% dòng thuế của ASEAN-6 đạt mức 0% theo Hiệp định ATIGA Điều này giúp các doanh nghiệp trong nước phát triển mạnh mẽ hơn trong các thị trường nội khối, nơi có nhu cầu và thị hiếu tương đồng với Việt Nam.

So với liên minh kinh tế - tiền tệ của EU, mức độ liên kết kinh tế của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) hiện còn thấp hơn, đặc biệt khi EU đã ra mắt đồng euro vào ngày 01/01/2002 AEC không giống như Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) trước đây, vì EEC khởi đầu từ một thị trường chung cho một số sản phẩm cụ thể Nguyên tắc ra quyết định của AEC là đồng thuận, trong khi EEC áp dụng nguyên tắc đa số Sự khác biệt về thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế và văn hóa – xã hội giữa các quốc gia thành viên khiến quá trình thương lượng để đạt được đồng thuận kéo dài, điều này cản trở khả năng đưa ra quyết định kịp thời trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế cần sự nhanh chóng và linh hoạt.

AEC hướng tới việc trở thành "một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất", nhưng hiện tại chỉ đáp ứng được tự do hóa thương mại và di chuyển yếu tố sản xuất Về lý thuyết, AEC không thuộc bất kỳ hình thức hội nhập kinh tế khu vực nào Là một cộng đồng kinh tế mở, các nước thành viên AEC, bao gồm Việt Nam, vẫn phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu, vốn và công nghệ từ bên ngoài Điều này cho thấy mức độ liên kết và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các quốc gia trong AEC chưa thực sự chặt chẽ.

Các vấn đề còn tồn tại trong mối liên kết giữa các quốc gia thành viên của AEC và giữa Việt Nam với các nước trong khu vực bao gồm sự thiếu đồng bộ trong chính sách, sự khác biệt về mức độ phát triển kinh tế, và những rào cản thương mại còn tồn tại.

Sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước ASEAN thể hiện rõ rệt, với tổng thể các quốc gia trong khu vực đạt mức độ phát triển thấp hơn so với thế giới Trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), có ba nhóm nước chính: ASEAN 6 (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan, Singapore) và nhóm CLMV (Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam) Sự khác biệt này không chỉ thể hiện qua quy mô vốn kinh tế và trình độ khoa học kỹ thuật mà còn ở tay nghề lao động Những quốc gia có nền kinh tế kém phát triển hơn lo ngại về sự cạnh tranh từ các nền kinh tế mạnh, trong khi các thành viên có nền kinh tế phát triển cao hơn sẽ thu được nhiều lợi ích từ các ngành sản xuất hiện đại như công nghiệp nặng, hóa chất, dược phẩm, dịch vụ tài chính và ngân hàng.

Thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia trong khối AEC vẫn còn thấp, với tỷ trọng nhập khẩu chỉ đạt 13,72% và xuất khẩu 9,91% vào năm 2016 Mặc dù được xem là thị trường xuất, nhập khẩu tiềm năng, AEC chưa được coi là một thị trường thương mại lớn đối với Việt Nam.

Liên minh hải quan ASEAN, theo Hiệp định Hải quan ASEAN năm 2012, đang hướng tới việc thực hiện Cơ chế một cửa ASEAN để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu giữa các quốc gia thành viên Hàng hóa xuất khẩu, quá cảnh và chuyển tải sẽ được hưởng lợi từ việc đơn giản hóa thủ tục và quy định kiểm soát hải quan Tuy nhiên, chính sách thương mại chung của ASEAN chưa được xem xét trong AEC, dẫn đến mỗi quốc gia thành viên áp dụng chính sách thương mại và mức thuế suất riêng, gây khó khăn cho thương mại hàng hóa trong khu vực.

Thị trường tài chính và tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia ASEAN đã thực hiện một số hợp tác tài chính và tiền tệ, điển hình là Sáng kiến Chiềng Mai, với quỹ hỗ trợ tài chính từ 13 nước thành viên nhằm cân bằng cán cân thanh toán cho các quốc gia gặp khủng hoảng thanh khoản Mặc dù cơ chế giám sát đã được hình thành, nhưng hiệu quả vẫn chưa đạt yêu cầu Hơn nữa, cơ chế hợp tác về tỷ giá hối đoái và chính sách tiền tệ trong ASEAN vẫn chưa được phát triển đầy đủ.

Chính sách kinh tế không công khai và phát triển đa cấp độ đã dẫn đến sự liên kết chưa chặt chẽ giữa các quốc gia thành viên AEC, chủ yếu tập trung vào thị trường bên ngoài thay vì nội khối Điều này đã ảnh hưởng đến khả năng tạo ra sự phát triển và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, không đạt được mục tiêu của AEC Do đó, hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên AEC chưa được khai thác đúng mức tiềm năng của thị trường và các định hướng đã đề ra trước khi AEC chính thức có hiệu lực.

Lao động kỹ năng thấp hiện chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu lao động Việt Nam, dẫn đến việc quốc gia này chủ yếu tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm dưới hình thức gia công và lắp ráp đơn giản Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô, sau đó được chế biến và xuất khẩu trở lại các nước xuất khẩu ban đầu hoặc đến các quốc gia khác Điều này khiến Việt Nam gặp khó khăn trong việc cạnh tranh về chất lượng sản phẩm và quy mô thị trường so với các đối thủ trong AEC, đồng thời tạo ra nguy cơ trở thành thị trường tiêu thụ hấp dẫn cho các doanh nghiệp nước ngoài Các nhà xuất khẩu Việt Nam phải đối mặt với cạnh tranh khốc liệt từ các thị trường lớn hơn, và nếu không có cải thiện đáng kể về chất lượng và đổi mới trong sản xuất, nguy cơ bị đẩy khỏi thị trường là rất cao.

Theo Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam quý 4 năm 2016, lực lượng lao động Việt Nam khoảng 54 triệu người với độ tuổi trung bình thấp, nhưng chỉ có 21,39% lao động có bằng/chứng chỉ Ngành nông, lâm, thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng việc làm với 41,54% Cơ cấu trình độ nhân lực gặp nhiều bất cập khi tỷ lệ lao động gián tiếp (đại học trở lên) cao hơn so với lao động trực tiếp (sơ cấp, trung cấp) Cụ thể, năm 2016, tỷ lệ tốt nghiệp đại học trở lên là 41,51%, cao đẳng 14,99%, trung cấp 27,11% và sơ cấp 16,39%.

Mặc dù là quốc gia thứ ba trong AEC với tỷ lệ lực lượng lao động lớn, chỉ sau Indonesia và Philippines, nhưng Việt Nam còn gặp hạn chế do thiếu lao động có trình độ tay nghề cao, công nhân kỹ thuật bậc cao, cũng như kỹ năng ngoại ngữ và kỹ năng mềm Chất lượng nguồn nhân lực được đánh giá qua sức khỏe, trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật Trong nội bộ AEC, các nước VCLM có mức đánh giá thấp hơn so với các quốc gia khác.

Trong khuôn khổ AEC, các quốc gia thành viên đã ký kết thỏa thuận cho phép tự do di chuyển lực lượng lao động trẻ có trình độ trong 8 lĩnh vực nghề nghiệp như bác sĩ, nha sĩ, hộ lý, kỹ sư, kiến trúc sư, kiểm toán viên, giám sát viên và nhân viên du lịch Điều này không chỉ tạo điều kiện cho dòng vốn FDI và chuyển giao công nghệ mà còn mở ra cơ hội thu hút lao động có chuyên môn cao cho Việt Nam Tuy nhiên, lực lượng lao động Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ lao động chất lượng cao đến từ các quốc gia ASEAN 6, trong khi nhiều lao động Việt Nam chưa đủ năng lực để đảm nhận các vị trí yêu cầu trình độ cao tại các công ty có vốn FDI và TNC Hệ quả là, họ chỉ có thể đảm nhận những công việc đơn giản trong chuỗi cung ứng toàn cầu, chưa thể sản xuất các hàng hóa công nghệ cao hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.

Cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước AEC chủ yếu tập trung vào nông sản, tài nguyên, linh kiện điện tử, máy móc và phụ tùng Những sản phẩm này không yêu cầu cao về chất lượng nguồn nhân lực, phản ánh thực trạng lao động hiện nay Điều này cho thấy nguồn lao động là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và cơ cấu hoạt động xuất khẩu hàng hóa.

2.4.3 Trình độ phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ

Vốn từ khu vực FDI đóng góp quan trọng vào việc nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế Việt Nam Các công nghệ mới như thiết kế, chế tạo máy và dây chuyền tự động lắp ráp được đưa vào, vượt trội hơn so với thiết bị nội địa Doanh nghiệp FDI cung cấp nhiều sản phẩm mới, có kiểu dáng đẹp và chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, được chấp nhận tại các thị trường khó tính Bên cạnh việc chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp FDI mang đến mô hình quản lý tiên tiến và phương thức kinh doanh hiện đại, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh.

Nhận xét về ảnh hưởng của thu hút FDI từ AEC đến xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên

giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên

Bài viết đã phân tích ảnh hưởng của việc thu hút FDI từ AEC đến hoạt động xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên thông qua phương pháp tổng hợp số liệu, phân tích và so sánh Kết quả cho thấy có nhiều nhân tố tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay, từ đó chỉ ra một số thực trạng đáng chú ý.

Nguồn vốn FDI từ AEC hiện nay được coi là chất lượng và có giá trị cao cho nền kinh tế Việt Nam, với tỷ lệ đầu tư đạt 18/19 ngành Đầu tư chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp, chế biến, chế tạo và bất động sản Tuy nhiên, nguồn vốn FDI này không có ảnh hưởng đáng kể đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tới các quốc gia thành viên, mà chỉ tác động đến cơ cấu xuất khẩu, đặc biệt là trong các mặt hàng như điện thoại, linh kiện, máy vi tính và sản phẩm điện tử, phù hợp với định hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Việc thu hút FDI có tác động ngược chiều đến nhập khẩu, khi FDI tăng thì nhập khẩu thường giảm Cơ cấu hàng nhập khẩu chủ yếu bao gồm nhiên liệu, khoáng sản, sản phẩm từ chất dẻo, máy móc, thiết bị và phụ tùng, tất cả đều là yếu tố đầu vào quan trọng cho quá trình sản xuất Bên cạnh đó, còn có các thành phẩm khác như phương tiện giao thông (ô tô) và phụ tùng, cũng như sản phẩm điện gia dụng.

Thực tế cho thấy, ảnh hưởng của FDI lên hoạt động xuất nhập khẩu thường đi ngược lại với các lý thuyết kinh tế cổ điển Mức độ ảnh hưởng này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm tình trạng phát triển của nền kinh tế, chính sách kinh tế của chính phủ, và mối quan hệ giữa nền kinh tế đó với các nền kinh tế khác hoặc với toàn cầu Một số nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng này cần được xem xét kỹ lưỡng.

Cấp độ liên kết thấp của AEC là nguyên nhân chính khiến Việt Nam chưa thu hút được đầu tư tương xứng với tiềm năng và chưa thúc đẩy được xuất khẩu sang các quốc gia thành viên AEC hiện chỉ là sự kết nối giữa các quốc gia trong việc mở cửa kinh tế, trong khi ảnh hưởng của AEC đến đầu tư và thương mại còn phụ thuộc nhiều vào chính sách và mức độ mở cửa thị trường của từng nước thành viên.

Việt Nam đang thu hút đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, nhưng phần lớn dự án chỉ tập trung vào xây dựng nhà máy lắp ráp và sản xuất linh kiện đơn giản, dẫn đến giá trị vốn đầu tư chưa cao Điều này ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của Việt Nam vào các quốc gia trong khu vực, nơi mà sản phẩm chất lượng và công nghệ cao được ưu tiên Ngoài ra, một số quốc gia trong AEC như Myanmar, Lào, và Campuchia có nền kinh tế tương đồng và sẽ cạnh tranh với Việt Nam về sản phẩm tương tự Để phát triển công nghiệp chế biến và nâng cao xuất khẩu, Việt Nam cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng và dịch vụ liên quan, bao gồm logistics và ngành công nghiệp hỗ trợ.

Đầu tư nước ngoài (FDI) đang chuyển hướng mạnh mẽ từ ngành công nghiệp chế tạo sang lĩnh vực bất động sản và dịch vụ tại các quốc gia có tỷ trọng vốn cao Mặc dù ngành công nghiệp chế biến có số lượng dự án và vốn đầu tư vượt trội, nhưng mức vốn đầu tư trung bình cho mỗi dự án công nghiệp vẫn chưa cao và không đạt được kỳ vọng Chẳng hạn, Singapore tập trung vào khách sạn, du lịch và khu công nghiệp Việt Nam - Singapore, trong khi Malaysia chú trọng vào các liên doanh trong cơ sở hạ tầng, bất động sản, giáo dục và dầu khí Thái Lan lại đầu tư vào lĩnh vực bán lẻ và sản xuất đồ nhựa Do đó, ảnh hưởng của FDI đến xuất nhập khẩu hàng hóa vẫn còn hạn chế.

Việc thu hút FDI từ AEC vào ngành nông nghiệp Việt Nam hiện vẫn còn thấp, trong khi kim ngạch xuất khẩu nông sản chỉ chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào AEC Ngành nông nghiệp chủ yếu phát triển và xuất khẩu nhờ vào đầu tư trong nước, dẫn đến việc FDI dường như không có ảnh hưởng đáng kể đến xuất khẩu Tuy nhiên, các quốc gia trong khu vực như Thái Lan và Singapore đã có kinh nghiệm trong đầu tư nông nghiệp, cho thấy Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng để tăng cường thu hút FDI trong lĩnh vực này từ các nước trong khối.

Khi thu hút FDI vào lĩnh vực sản xuất, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu và nguyên liệu đầu vào như xăng dầu, máy móc, thiết bị, và linh kiện điện tử Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế, Việt Nam đã giảm dần giá trị nhập khẩu các mặt hàng nhiên liệu và khoáng sản, đồng thời gia tăng tỷ trọng hàng hóa tiêu dùng nhờ vào sự đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực dịch vụ và bán lẻ từ các nhà đầu tư đến từ Thái Lan và Singapore.

Chương tiếp theo sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm tối ưu hóa tác động tích cực và giảm thiểu những tác động tiêu cực của FDI từ AEC đối với hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên Những giải pháp này sẽ tập trung vào việc cải thiện hoạt động xuất nhập khẩu và thu hút FDI hiệu quả hơn vào Việt Nam, dựa trên những đánh giá về nguyên nhân, tồn tại, hạn chế và các nhân tố ảnh hưởng đã được phân tích trong chương 2.

GIẢI PHÁP THU HÚT FDI VÀ ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TRÊN CƠ SỞ ẢNH HƯỞNG CỦA FDI TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN AEC

Ngày đăng: 30/03/2022, 11:01

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Ngọc Ánh, Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước ASEAN: thực trạng, khuyến nghị cho Việt Nam sau khi gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội năm 2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước ASEAN: thựctrạng, khuyến nghị cho Việt Nam sau khi gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN
2. Ban thư ký ASEAN, Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA)– Sách hướng dẫn cho Doanh nghiệp và Nhà đầu tư, Ja-ka-ta, tháng 12/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA)– Sáchhướng dẫn cho Doanh nghiệp và Nhà đầu tư
3. Biểu cam kết của Việt Nam, Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) 4. Cục xuất nhập khẩu – Bộ Công thương, Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam2016, Hà Nội, 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam"2016
5. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật thương mại Việt Nam 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
6. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định quy định điều kiện đầu tư kinh doanh về bảo vệ và kiểm dịch thực vật; giống cây trồng; nuôi động vật rừng thông thường; chăn nuôi; thủy sản; thực phẩm, số 66/2016/NĐ-CP, ngày 01/07/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định quy địnhđiều kiện đầu tư kinh doanh về bảo vệ và kiểm dịch thực vật; giống câytrồng; nuôi động vật rừng thông thường; chăn nuôi; thủy sản; thực phẩm, số66/2016/NĐ-CP
8. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quyết định số 2471/2011/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 – 2020, định hướng đến năm 2030 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
9. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quyết định số 68/QĐ- TTg về Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025 , ngày 18/01/2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, "Quyết định số 68/QĐ-TTg về Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm2025
11. Lại Thị Thu Huyền, Mối quan hệ giữa FDI và hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Ngoại thương, Hà Nội năm 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mối quan hệ giữa FDI và hoạt động xuất nhập khẩu ởViệt Nam
12. Vũ Chí Lộc, Giáo trình đầu tư quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012 13. Nghị định thư sửa đổi ACIA năm 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình đầu tư quốc tế
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
14. Phùng Xuân Nhạ, Nguyễn Thị Minh Phương, Dự báo tác động của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương tới đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, số 1 (2016) trang 1-10 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dự báo tác động của Hiệpđịnh Đối tác xuyên Thái Bình Dương tới đầu tư trực tiếp nước ngoài tại ViệtNam
15. Đào Định Phương, Mối quan hệ giữa FDI và các yếu tố kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Kinh tế TP.HCM, Tp.HCM năm 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mối quan hệ giữa FDI và các yếu tố kinh tế vĩ mô ở ViệtNam
16. Nguyễn Thị Minh Phương, Tự do hóa đầu tư trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và sự tham gia của Việt Nam, Trường đại học Kinh tế, ĐHQGHN, 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tự do hóa đầu tư trong Cộng đồng kinh tếASEAN (AEC) và sự tham gia của Việt Nam
19. Đinh Trung Thành, Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước ASEAN vào Việt Nam trong bối cảnh hình thành AEC năm 2015, Nghiên cứu kinh tế, số 3 (454) 03/2016, trang 51-55 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước ASEAN vào ViệtNam trong bối cảnh hình thành AEC năm 2015
20. Vũ Thị Vịnh, Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nhân tố kinh tế vĩ mô tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Kinh tế TP.HCM, Tp.HCM năm 2013Tài liệu tiếng anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nhân tốkinh tế vĩ mô tại Việt Nam
21. ASEAN Secretariat, ASEAN Statistical Yearbook 2008, Jakarta, July 2009 22. ASEAN Secretariat, ASEAN Statistical Yearbook 2015, 2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: ASEAN Statistical Yearbook 2008", Jakarta, July 200922. ASEAN Secretariat, "ASEAN Statistical Yearbook 2015
23. Culem, The Locational determinants of direct investments among industrialized countries, 1988 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Locational determinants of direct investments amongindustrialized countries
26. Pain & Wakelin, Export Performace and the Role of Foreign Direct Investment, 1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Export Performace and the Role of Foreign DirectInvestment
27. Peter Wilamoski and Sarah Tinkler, The Trade Balance Effects of U.S Foreign Direct Investment in Mexico, 1999, Weber State University, USA 28. Sharma, K (2003), Factor’s Determining India’s Export Performance,Journal off Asian Economics Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Trade Balance Effects of U.SForeign Direct Investment in Mexico, "1999, Weber State University, USA 28. Sharma, K (2003), "Factor’s Determining India’s Export Performance
Tác giả: Peter Wilamoski and Sarah Tinkler, The Trade Balance Effects of U.S Foreign Direct Investment in Mexico, 1999, Weber State University, USA 28. Sharma, K
Năm: 2003
29. UNCTAD, World Investment Report 1998: Trend and Determinants, New York and Geneva: United Nations, 1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: World Investment Report 1998: Trend and Determinants
32. Cục đầu tư nước ngoài, Số liệu FDI tháng 12/2016, tại địa chỉ:http://fia.mpi.gov.vn/tinbai/5178/Tinh-hinh-thu-hut-Dau-tu-nuoc-ngoai-12-thang-nam-2016, truy cập ngày 08/03/2017 Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1: FDI tại Việt Nam theo đối tác trong AEC (Lũy kế các dự án hiệu lực đến ngày 20/12/2016) - (LUẬN văn THẠC sĩ) thu hút FDI từ cộng đồng kinh tế ASEAN và ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa việt nam và các quốc qia thành viên
Bảng 1 FDI tại Việt Nam theo đối tác trong AEC (Lũy kế các dự án hiệu lực đến ngày 20/12/2016) (Trang 52)
Bảng 2: FDI tại Việt Nam theo đối tác đầu tư (Lũy kế các dự án hiệu lực đến ngày 20/12/2016) - (LUẬN văn THẠC sĩ) thu hút FDI từ cộng đồng kinh tế ASEAN và ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa việt nam và các quốc qia thành viên
Bảng 2 FDI tại Việt Nam theo đối tác đầu tư (Lũy kế các dự án hiệu lực đến ngày 20/12/2016) (Trang 54)
Bảng 3: FDI từ AEC vào Việt Nam theo hình thức đầu tư lũy kế đến 31/12/2016 - (LUẬN văn THẠC sĩ) thu hút FDI từ cộng đồng kinh tế ASEAN và ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa việt nam và các quốc qia thành viên
Bảng 3 FDI từ AEC vào Việt Nam theo hình thức đầu tư lũy kế đến 31/12/2016 (Trang 55)
ảnh hưởng nhất định đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong tình hình đây cũng là các ngành Việt Nam đang đầu tư, phát triển phù hợp với chính sách công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước như hiện nay, ảnh hưởng đó bao gồm kim ngạch xuất, nhập khẩ - (LUẬN văn THẠC sĩ) thu hút FDI từ cộng đồng kinh tế ASEAN và ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu giữa việt nam và các quốc qia thành viên
nh hưởng nhất định đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong tình hình đây cũng là các ngành Việt Nam đang đầu tư, phát triển phù hợp với chính sách công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước như hiện nay, ảnh hưởng đó bao gồm kim ngạch xuất, nhập khẩ (Trang 69)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w