1. Trang chủ
  2. » Y Tế - Sức Khỏe

Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021

53 15 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 53
Dung lượng 491,89 KB

Cấu trúc

  • Chương 1: TỔNG QUAN (3)
    • 1.1. Ăn bổ sung (3)
      • 1.1.1. Một số định nghĩa về ăn bổ sung (3)
      • 1.1.2. Vì sao cần ăn bổ sung (4)
      • 1.1.3. Thời điểm cho ăn bổ sung (4)
      • 1.1.4. Bốn nhóm thức ăn bổ sung cơ bản (5)
      • 1.1.5. Thức ăn bổ sung dự phòng thiếu hụt sắt (7)
      • 1.1.6. Thức ăn bổ sung dự phòng thiếu hụt vitamin A (8)
      • 1.1.7. Thức ăn bổ sung có tăng cường vi chất (10)
      • 1.1.8. Nhu cầu nước của trẻ nhỏ (10)
      • 1.1.9. Nguyên tắc khi cho ăn bổ sung (11)
      • 1.1.10. Số lượng và số bữa ăn cho trẻ theo độ tuổi (12)
    • 1.2. Một số nghiên cứu thực trạng về chế độ ăn cho bà mẹ có con < 2 tuổi (16)
      • 1.2.1. Trên thế giới (16)
      • 1.2.2. Tại Việt Nam (18)
  • Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (20)
    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu (20)
    • 2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu (20)
    • 2.3. Thiết kế nghiên cứu (20)
    • 2.4. Cỡ mẫu (20)
    • 2.5. Quy trình thu thập số liệu (20)
    • 2.6. Tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá (22)
    • 2.7. Phương pháp phân tích số liệu: bằng phần mềm SPSS 16.0 (22)
    • 2.8. Đạo đức trong nghiên cứu (22)
  • Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (23)
    • 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu (23)
    • 3.2. Thực trạng ăn bổ sung của trẻ (26)
  • Chương 4: BÀN LUẬN (34)
    • 4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiện cứu (34)
    • 4.2. Thực trạng ăn bổ sung của trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi (37)
    • 4.3. Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chề độ ăn bổ sung (37)
  • KẾT LUẬN (44)
    • 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiện cứu (44)
    • 2. Thực trạng ăn bổ sung của trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi (44)
    • 3. Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chề độ ăn bổ sung (0)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (47)

Nội dung

trên địa bàn huyện Mai Sơn việc thực hành về chế độ ăn cho ở trẻ dưới 24 tháng còn gặp khó khăn liên quan tới kiến thức, thái độ của bà mẹ, sự tiếp cận thông tin. Đặc biệt là ở những vùng có điều kiện khó khăn, vùng sâu xa, vùng dân tộc thiểu số sinh sống, vùng cao biên giới...Do đó để có được bức tranh về kiến thức nuôi dưỡng trẻ của bà mẹ và từ đó có các hoạt động dinh dưỡng phù hợp cho các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi về chế độ ăn bổ sung, thực hiện chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 để làm giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em

TỔNG QUAN

Ăn bổ sung

1.1.1 Một số định nghĩa về ăn bổ sung

Ăn bổ sung, hay còn gọi là ăn dặm, là quá trình cho trẻ ăn các thức ăn khác để bổ sung cho sữa mẹ Những thức ăn này được gọi là thức ăn bổ sung Trong giai đoạn ăn bổ sung, trẻ sẽ dần làm quen với thức ăn gia đình, và đến cuối giai đoạn này, thường là khi trẻ được 2 tuổi, sữa mẹ sẽ hoàn toàn được thay thế bằng thức ăn bổ sung.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), việc ăn bổ sung bắt đầu khi sữa mẹ không còn đủ để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của trẻ Do đó, việc bổ sung các thực phẩm khác cùng với sữa mẹ là rất cần thiết để đảm bảo sự phát triển toàn diện cho trẻ.

- Ăn bổ sung là cho trẻ ăn thêm các thức ăn giàu năng lượng và chất dinh dưỡng khác ngoài sữa mẹ dưới dạng mềm hoặc đặc

Ăn bổ sung (ABS) là quá trình cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi ăn thêm các thức ăn giàu năng lượng và dinh dưỡng khác ngoài sữa mẹ, dưới dạng mềm hoặc đặc Mặc dù sữa mẹ vẫn rất quan trọng trong việc cung cấp năng lượng và chất dinh dưỡng, nhưng từ 6 tháng tuổi trở đi, sữa mẹ không đủ để đáp ứng tổng nhu cầu năng lượng cho sự phát triển của trẻ Do đó, việc bổ sung thực phẩm là cần thiết để hỗ trợ sự phát triển toàn diện của trẻ.

Thức ăn bổ sung là những thực phẩm cung cấp thêm dinh dưỡng cho trẻ em bên cạnh sữa mẹ, nhưng không thể thay thế hoàn toàn sữa mẹ Để trẻ phát triển khỏe mạnh, thức ăn bổ sung cần phải đa dạng, giàu dinh dưỡng và đủ về số lượng.

Thức ăn dạng lỏng như sữa (bao gồm sữa công thức pha với nước hoặc sữa tươi) và nước trái cây không được xem là thức ăn bổ sung cho trẻ Những loại thực phẩm này có thể cạnh tranh và thay thế sữa mẹ, dẫn đến việc giảm lượng sữa mà trẻ đáng lẽ vẫn được bú mẹ.

1.1.2 Vì sao cần ăn bổ sung

Khi trẻ phát triển và hoạt động nhiều hơn, sữa mẹ đơn thuần sẽ không còn đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của trẻ Do đó, việc cho trẻ ăn dặm là cần thiết để bù đắp sự thiếu hụt dinh dưỡng giữa nhu cầu của trẻ và lượng chất dinh dưỡng mà trẻ nhận được từ sữa mẹ.

1.1.3 Thời điểm cho ăn bổ sung

- Thời điểm bắt đầu cho ăn bổ sung hợp lý nhất là khi trẻ 6 tháng tuổi (180 ngày) để giúp trẻ phát triển tốt

Khi trẻ được 6 tháng tuổi, việc cho trẻ ăn dặm (ABS) trở nên quan trọng Do đó, trước khi trẻ tròn 6 tháng, mẹ cần được tư vấn về cách chọn thức ăn và phương pháp cho trẻ ăn bữa ăn bổ sung đầu tiên Điều này giúp mẹ trang bị đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết để thực hiện việc ăn dặm cho trẻ một cách hiệu quả.

- Các dấu hiệu giúp nhận biết trẻ đã sẵn sàng ăn bổ sung:

+ Trẻ thích nhìn người khác ăn và với tay lấy thức ăn;

+ Trẻ thích đưa thứ gì đó vào miệng;

+ Trẻ có thể điều chỉnh lưỡi tốt hơn để đưa thức ăn di chuyển trong miệng; + Trẻ bắt đầu nhai và dịch chuyển hàm lên xuống

*Các nguy cơ khi cho trẻ ăn bổ sung

Bảng 1 1 Các nguy cơ khi cho trẻ ăn bổ sung

Các nguy cơ khi cho trẻ ăn bổ sung quá sớm (trước 6 tháng hay 26 tuần)

Các nguy cơ khi cho trẻ ăn bổ sung quá muộn (sau 6 tháng hay 26 tuần)

- Trẻ giảm bú mẹ vì vậy sẽ làm giảm khả năng tạo sữa mẹ;

Trẻ em có nguy cơ cao mắc các bệnh lý như tiêu chảy, suy dinh dưỡng và dị ứng do việc bổ sung thực phẩm không phù hợp với khả năng tiêu hóa và hệ miễn dịch chưa hoàn thiện của trẻ.

- Trẻ giảm bú mẹ sẽ làm tăng nguy cơ mang thai của bà mẹ

Trẻ em cần bổ sung các chất dinh dưỡng thiết yếu mà sữa mẹ không cung cấp đủ, đặc biệt là sắt, để hỗ trợ sự phát triển toàn diện.

- Chậm lớn và chậm phát triển

- Nguy cơ suy dinh dưỡng và thiếu chất dinh dưỡng tăng lên

1.1.4 Bốn nhóm thức ăn bổ sung cơ bản

* Nhóm thức ăn cung cấp chất bột (lương thực)

Lương thực là nguồn cung cấp năng lượng chính trong khẩu phần ăn, chủ yếu chứa tinh bột, nhưng lại ít protein và nghèo vi chất dinh dưỡng Do đó, bên cạnh lương thực, bữa ăn cần bổ sung thêm các thực phẩm khác để đảm bảo trẻ em nhận đủ chất dinh dưỡng cần thiết.

- Gồm các loại gạo, ngô, khoai, củ, các loại đậu, đỗ

* Nhóm thức ăn cung cấp chất đạm

Thức ăn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ thể, tham gia vào quá trình vận chuyển dưỡng chất, kích thích cảm giác thèm ăn, điều hòa các chuyển hóa và bảo vệ sức khỏe.

- Gồm các thức ăn có nguồn gốc động vật và thực vật:

+ Thức ăn nguồn gốc động vật: có giá trị dinh dưỡng cao, bao gồm trứng, sữa, các loại thịt, cá, tôm, cua, lươn, nhộng, phủ tạng (gan, tim )

Thức ăn nguồn gốc thực vật, khi kết hợp với ngũ cốc, tạo ra những bữa ăn giàu dinh dưỡng tương đương với thực phẩm từ động vật nhưng thường có giá thành rẻ hơn Các loại đậu như đậu đen, đậu xanh và đậu nành là những lựa chọn tuyệt vời cho chế độ ăn của trẻ.

* Nhóm thức ăn cung cấp chất béo:

Dầu ăn là nguồn cung cấp năng lượng quan trọng cho bữa ăn của trẻ, giúp trẻ dễ dàng hấp thụ các vitamin tan trong dầu như A, E, D, K Ngoài ra, dầu ăn còn làm cho thức ăn trở nên mềm mại và dễ ăn hơn.

- Gồm dầu, bơ, mỡ, trong đó dầu dễ hấp thu hơn mỡ

* Nhóm thức ăn cung cấp vitamin và chất khoáng:

Rau xanh đậm, quả và rau củ màu vàng là nguồn thực phẩm tuyệt vời cung cấp vitamin và khoáng chất cho trẻ Chúng không chỉ giúp trẻ có đôi mắt sáng khỏe mà còn hỗ trợ phòng ngừa các bệnh nhiễm khuẩn hiệu quả.

- Gồm các loại rau xanh và quả chín

Giàu vitamin và muối khoáng

1.1.5 Thức ăn bổ sung dự phòng thiếu hụt sắt

* Tại sao trẻ nhỏ cần được ăn bổ sung thức ăn giàu sắt

Sắt đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo máu và hỗ trợ sự tăng trưởng, phát triển của trẻ nhỏ Nó còn giúp tăng cường khả năng miễn dịch, giúp trẻ chống lại các bệnh nhiễm khuẩn hiệu quả.

- Sự phát triển của trẻ nhỏ trong năm đầu thường nhanh hơn năm thứ hai

Vì vậy trẻ càng nhỏ thì nhu cầu sắt càng cao

Một số nghiên cứu thực trạng về chế độ ăn cho bà mẹ có con < 2 tuổi

Tại Bangladesh, việc cho trẻ ăn bổ sung thường bắt đầu quá sớm hoặc quá muộn, cùng với việc cung cấp các loại thực phẩm không phù hợp, dẫn đến tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em cao Đáng chú ý, 25% trẻ từ 6 đến 9 tháng tuổi vẫn chỉ tiêu thụ sữa mẹ mà không ăn thêm thực phẩm nào khác Trong số những trẻ đã qua giai đoạn bú mẹ hoàn toàn, chỉ có 42% được tiếp cận chế độ ăn bổ sung hợp lý.

Nghiên cứu của Zongrone.A tại Bangladesh cho thấy rằng việc cho trẻ ăn dặm đúng thời điểm và duy trì chế độ ăn uống đa dạng có thể giúp giảm tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em.

Nghiên cứu của Mahmood.S.E và cộng sự tại Ấn Độ chỉ ra rằng có khoảng 13,8% bà mẹ bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung trước 6 tháng tuổi, trong khi gần 13% khác lại bắt đầu sau 9 tháng tuổi Đáng chú ý, hai phần ba các bà mẹ không nhận được hướng dẫn về cách chế biến thức ăn cho trẻ Việc cho trẻ ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn đều có tác động tiêu cực đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ trong độ tuổi từ 6 đến 24 tháng Sự tăng trưởng kém bắt đầu từ khoảng 6 tháng tuổi, dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng trong những tháng này và có thể kéo dài đến những năm sau.

Nghiên cứu của Ogumba.B.O tại Nigeria chỉ ra rằng chỉ 20% bà mẹ có thái độ đúng về việc cho con ăn bổ sung Thái độ của các bà mẹ này bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm kiến thức, kinh nghiệm và nguồn thông tin họ nhận được Có một mối liên hệ rõ ràng giữa thái độ của bà mẹ và tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm ở trẻ Những bà mẹ có thái độ đúng thường có xu hướng cải thiện tình trạng dinh dưỡng và cân nặng theo độ tuổi của trẻ.

Một nghiên cứu tại Ấn Độ của Aggarwal.A và cộng sự đã khảo sát kiến thức và thực hành cho con ăn bổ sung của các bà mẹ có trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi Kết quả cho thấy trong số 200 trẻ em được nghiên cứu, chỉ có 35 trẻ (17,55%) nhận được thức ăn bổ sung đầy đủ.

Trong 6 tháng đầu đời, kiến thức đúng về thời điểm ăn bổ sung của các bà mẹ chỉ chiếm 46%, trong khi thành phần bữa ăn đủ 4 nhóm thực phẩm đạt 46,5% Đáng chú ý, chỉ có 8% bà mẹ có kiến thức đúng chung về việc cho con ăn bổ sung Nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa kiến thức về thời điểm ăn bổ sung và trình độ học vấn của bà mẹ.

Nghiên cứu của Joshi.N và cộng sự tại Ấn Độ cho thấy, trong số 100 bà mẹ nông thôn tuổi 20-30 với tình trạng kinh tế xã hội thấp, có khoảng 8% bà mẹ mù chữ Thông tin về dinh dưỡng trẻ em chủ yếu đến từ ti vi (77%), tiếp theo là nhân viên y tế (72%) và đài phát thanh (59%) Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng việc cải thiện giáo dục sức khỏe có tác động tích cực đến kiến thức của các bà mẹ, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của các chương trình giáo dục sức khỏe trong việc loại trừ tình trạng suy dinh dưỡng hiệu quả.

Nghiên cứu của Lê Ngọc Dung và Nguyễn Phước Hưng tại Bệnh viện Nhi Đồng Thành Phố Hồ Chí Minh cho thấy hầu hết các bà mẹ có kiến thức đúng về thời điểm bắt đầu cho ăn dặm và cai sữa mẹ, nhưng còn thiếu hiểu biết về 4 nhóm thức ăn, chế độ ăn trong 4 tháng đầu và khi trẻ ốm, với tỷ lệ lần lượt là 33,3% và 36,6% Đặc biệt, chỉ có 11,7% bà mẹ biết sử dụng biểu đồ tăng trưởng.

Nghiên cứu của Đoàn Thị Ánh Tuyết và Lê Thị Hương về tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 2 tuổi tại huyện Hướng Hóa và Dakrong cho thấy rằng 36,5% trẻ được ăn bổ sung trước 4 tháng tuổi, trong khi 43,6% trẻ bắt đầu tập ăn bổ sung từ 6-8 tháng tuổi Đặc biệt, chỉ có 21% trẻ được cung cấp đủ 4 nhóm thực phẩm cần thiết.

Nghiên cứu của Lê Thị Năng tại Bình Định cho thấy tỷ lệ kiến thức đúng của bà mẹ về cho con ăn dặm đạt 66,2%, trong khi tỷ lệ thái độ đúng là 57,4% Kết quả cho thấy có mối liên hệ giữa kiến thức và thái độ của bà mẹ với tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) của trẻ Cụ thể, những bà mẹ có kiến thức đúng về ăn dặm có tỷ lệ trẻ bị SDD nhẹ cân thấp hơn 0,42 lần so với những bà mẹ có kiến thức sai, và tỷ lệ trẻ bị SDD thấp còi cũng giảm 0,43 lần ở nhóm bà mẹ có kiến thức đúng.

Nghiên cứu của Hà Ngọc Linh tại quận 12 - Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy 73% bà mẹ có kiến thức đúng về cho con ăn dặm Hai nguồn thông tin quan trọng nhất mà các bà mẹ tin cậy là từ nhân viên y tế (74,6%) và ông bà, cha mẹ (73,6%) Trong khi đó, chỉ có 43,2% bà mẹ nhận thông tin từ các cộng tác viên chương trình suy dinh dưỡng hay đoàn thể Tuy nhiên, khi cần thiết, đa số bà mẹ vẫn tìm kiếm thông tin từ các nhân viên y tế.

Nghiên cứu của tác giả Trương Thị Thu Thủy tại Đồng Tháp cho thấy, chỉ có 36,7% bà mẹ có kiến thức đúng về thời điểm cho trẻ ăn dặm, trong khi đó tỷ lệ bữa ăn dặm đủ 4 nhóm thức ăn đạt 80,4%.

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Trân tại Hà Giang chỉ ra rằng thời điểm và thành phần bữa ăn dặm có ảnh hưởng lớn đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ Cụ thể, trẻ ăn dặm không đúng thời điểm có nguy cơ suy dinh dưỡng (SDD) cao gấp 1,43 lần so với trẻ ăn dặm đúng thời điểm Ngoài ra, trẻ ăn dặm thiếu 4 nhóm thực phẩm có nguy cơ SDD cao gấp 2,22 lần so với trẻ ăn đủ 4 nhóm thực phẩm Đặc biệt, những bà mẹ không tiếp nhận thông tin dinh dưỡng có tỷ lệ trẻ bị SDD gấp 2,27 lần so với những bà mẹ được cung cấp thông tin đầy đủ.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

2.1.1 Tiêu chuẩn chọn đối tượng nghiên cứu

- Các bà mẹ có con từ 6 tháng đến 2 tuổi đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa khoa huyện Mai Sơn từ tháng 10 năm 2020 đến tháng 9 năm 2021.

- Mẹ trẻ có thể nghe, hiểu, nói được và không có bất thường về ngôn ngữ.

- Các bà mẹ đồng ý hợp tác tham gia nghiên cứu

- Bà mẹ không hợp tác tham gia nghiên cứu.

Thời gian và địa điểm nghiên cứu

2.2.1 Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10 năm 2020 đến tháng 9 năm 2021

2.2.2 Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại khoa Nhi bệnh viện đa khoa huyện Mai Sơn.

Quy trình thu thập số liệu

- Soạn thảo bộ câu hỏi làm phiếu điều tra

- Trực tiếp bản thân và cộng sự đi thu thập số liệu theo phiếu điều tra

Từ tháng 10 năm 2020 đến tháng 9 năm 2021, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ có con trong độ tuổi từ 6 tháng đến 2 tuổi đang điều trị tại khoa Nhi của Bệnh viện Đa khoa huyện Mai Sơn.

* Các chỉ tiêu nghiên cứu

+ Thời điểm ăn bổ sung

+ Nhóm thực phẩm (thành phần thức ăn)

+ Kiến thức về chế độ ăn bổ sung:

/ Kiến thức của bà mẹ về định nghĩa ăn bổ sung

/ Kiến thức của bà mẹ về các nguy cơ khi cho trẻ ăn ABS sớm

/ Kiến thức của bà mẹ về các nguy cơ khi cho trẻ ăn ABS muộn

Kiến thức của bà mẹ về 4 nhóm thức ăn cơ bản trong bữa ăn dặm (ABS) cho trẻ là rất quan trọng, giúp đảm bảo trẻ nhận đủ dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển Đối với trẻ 6-8 tháng tuổi, chế độ ăn hàng ngày cần bao gồm các nhóm thực phẩm như ngũ cốc, rau củ, trái cây và protein để hỗ trợ sức khỏe và tăng cường hệ miễn dịch Bà mẹ cần hiểu rõ cách kết hợp các loại thực phẩm này để tạo ra những bữa ăn phong phú và hấp dẫn, đồng thời chú ý đến việc giới thiệu từng loại thực phẩm mới một cách từ từ để trẻ làm quen.

/ Kiến thức của bà mẹ về chế độ ăn hàng ngày cho trẻ 9-11 tháng

/ Kiến thức của bà mẹ về chế độ ăn hàng ngày cho trẻ 12-24 tháng

Tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá

- Nội dung đánh giá kiến thức được xây dựng bộ câu hỏi gồm 36 câu

+ Tổng số điểm tối đa là 61 điểm, thấp nhất 0 điểm, điểm càng cao kiến thức càng tốt và ngược lại

+ Kiến thức đúng: Khi bà mẹ đạt từ 70% tổng số điểm trở lên (> 43 điểm) + Kiến thức chưa đúng khi bà mẹ đạt dưới 70% tổng số điểm (< 43 điểm)

Đạo đức trong nghiên cứu

Nghiên cứu chỉ được tiến hành khi có sự đồng ý tự nguyện từ các đối tượng tham gia Tất cả thông tin thu thập được sẽ chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu, không phục vụ cho bất kỳ mục đích nào khác.

- Mọi thông tin về đối tượng nghiên cứu sẽ được giữ bí mật

Kết quả nghiên cứu sẽ làm nền tảng cho việc đề xuất mở rộng chương trình giáo dục dinh dưỡng, tập trung vào chế độ ăn bổ sung cho trẻ em, nhằm hỗ trợ các bà mẹ trong quá trình nuôi con tại tỉnh Sơn La.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu

Nhận xét: Con của bà mẹ là trẻ nam chiếm 61%, nữ giới là 39%

Bảng 3.2 Nhóm tuổi của con

Nhận xét: Tuổi con từ 6-8 tháng tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất chiếm 52%

Bảng 3.3 Một số thông tin chung của bà mẹ

Đánh giá cho thấy, nhóm bà mẹ dưới 24 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 50% Đồng thời, 73% các bà mẹ có trình độ học vấn là trung học cơ sở.

Biểu đồ 3.1 Phân bố nghề nghiệp

Công nhân Làm ruộng Công chức, viên chức

Nhận xét: Trên biểu đồ 3.1 cho thấy các bà mẹ có nghề nghiệp làm ruộng chiếm tỷ lệ cao nhất là 93%

Biểu đồ 3 2 Nguồn tiếp cận thông tin

Biểu đồ 3.2 chỉ ra rằng, nguồn thông tin chính mà các bà mẹ tiếp cận chủ yếu là từ tivi và mạng xã hội, chiếm 31% Theo sau đó, 30% bà mẹ nhận thông tin từ nhân viên y tế.

Biểu đồ 3 3 Nguồn thông tin bà mẹ mong muốn kiếm được

Tivi, MXH Nhân viên y tế Gia đình, bạn bè Sách báo

Tivi, MXH Nhân viên y tế Gia đình, bạn bè Sách báo

Nhân viên y tế Tivi, MXH Gia đình, bạn bè Sách báo

Nhận xét: Biểu đồ 3.3 cho thấy đa phần đối tượng đều mong muốn nhận được thông tin thông qua nhân viên y tế (39%).

Thực trạng ăn bổ sung của trẻ

Bảng 3.4 Thực trạng ăn bổ sung của trẻ

Thời điểm ăn bổ sung n Tỷ lệ (%)

Số bữa ăn chính/ ngày

Trẻ có được ăn đầy đủ theo 4 nhóm thức ăn cơ bản không? 82 93

Trẻ có được thay đổi chế độ ăn dặm theo tháng tuổi không? 84 95

Khi trẻ ốm vẫn tiếp tục cho trẻ ăn bổ sung? 74 84

Ngoài các bữa ăn chính trẻ có được ăn thêm các bữa ăn phụ không? 86 98

Nhận xét: Trên bảng cho thấy:

- Tỷ lệ bà mẹ cho trẻ ăn dặm đúng thời điểm 6 tháng tuổi là 65 %

- Số bữa trẻ được ăn chính từ 2-3 bữa /ngày là 84%

- Lượng thức ăn trong một bữa của trẻ từ 6-8 thỏng ăn ẵ bỏt chỏo là 92%

- Trẻ được ăn đầy đủ theo 4 nhóm thức ăn cơ bản và được thay đổi chế độ ăn dặm theo tháng tuổi là 95%

- Khi trẻ ốm vẫn tiếp tục cho trẻ ăn bổ sung là 84%, ngoài các bữa ăn chính trẻ có được ăn thêm các bữa ăn phụ là 98%

3 3 Kiến thức của bà mẹ về ăn bổ sung

Bảng 3.5 Thời gian và khái niệm cho ăn bổ sung

Hiểu đúng về thời gian ăn bổ sung 51 58

Hiểu đúng khái niệm về ăn bổ sung 86 98

Bảng 3.5 cho thấy rằng 58% các bà mẹ có hiểu biết đúng về thời gian cho con ăn bổ sung Đặc biệt, có 86 bà mẹ, chiếm 98%, hiểu đúng khái niệm ăn bổ sung.

Bảng 3 6 Kiến thức của bà mẹ về nguy cơ khi ăn bổ sung không đúng

Biết đúng, đầy đủ các nguy cơ khi cho ăn bổ sung sớm 33 38

Biết không đầy đủ nguy cơ cho ABS sớm 55 63

Biết được nguy cơ khi cho ăn bổ sung muộn 33 38

Biết không đầy đủ nguy cơ cho ABS muộn 55 63

Nhận xét: Bảng 3.6 cho thấy, tỷ lệ bà mẹ biết đúng và đầy đủ các nguy cơ khi cho trẻ ăn bổ sung sớm chỉ có 38%

- Các bà mẹ biết không đầy đủ các nguy cơ khi cho trẻ ABS muộn chiếm tỷ lệ 63%

Bảng 3 7 Kiến thức của bà mẹ nhóm thức ăn cơ bản khi ăn bổ sung

Nhận xét: Bảng 3.7 cho thấy, các bà mẹ biết đầy đủ về 4 nhóm thức ăn cơ bản khi ABS chiếm tỷ lệ khá cao (76%)

Bảng 3 8 Kiến thức của bà mẹ về nguồn thức ăn bổ sung

Nguồn thức ăn Kiến thức bà mẹ n %

Nguồn thức ăn chất bột

Nguồn thức ăn chất đạm

Nguồn thức ăn vitamin và chất khoáng

Nguồn thức ăn cung cấp vitamin

Loại thức ăn trong bữa ăn phụ cho trẻ khi ăn bổ sung

Nhận xét : Với nguồn thức ăn chất bột: Tỷ lệ bà mẹ biết đầy đủ 4 loại thức ăn cung cấp chất bột chiếm 44%

Với nguồn thức ăn chất đạm: Tỷ lệ bà mẹ biết đầy đủ 4 loại thức ăn cung cấp chất đạm chiếm 49%

Với nguồn thức ăn vitamin và chất khoáng: Tỷ lệ bà mẹ biết đầy đủ 4 loại thức ăn chứa vitamin và chất khoáng chiểm 49%

Tỷ lệ bà mẹ hiểu biết đầy đủ về 4 loại thực phẩm cung cấp vitamin A chỉ đạt 34% Trong khi đó, có đến 75% bà mẹ nắm rõ 5 loại thức ăn bổ sung cho trẻ trong bữa ăn phụ.

Bảng 3 9 Kiến thức của bà mẹ về thành phần ăn bổ sung

Hiểu đúng về bữa ăn hàng ngày của trẻ phải có nhóm chất bột như gạo, bắp, khoai 77 88

Hiểu đúng về bữa ăn hàng ngày của trẻ phải có nhóm chất đạm như thịt, cá, trứng, các loại đậu

Hiểu đúng về bữa ăn hàng ngày của trẻ phải có nhóm chất béo như dầu, mỡ, bơ 63 72

Hiểu đúng về bữa ăn hàng ngày của trẻ phải bổ sung thêm các thức ăn dự phòng thiếu sắt như: các loại rau xanh và quả chín

Nhận xét: Bảng 3.9 cho thấy tỷ lệ bà mẹ hiểu đúng về bữa ăn hàng ngày của trẻ phải có nhóm chất bột chiếm rất cao là 88%

Có 59 bà mẹ hiểu đúng về bữa ăn hàng ngày của trẻ phải có nhóm chất đạm chiếm tỷ lệ 67%

Tỷ lệ bà mẹ hiểu đúng về bữa ăn hàng ngày của trẻ phải có nhóm chất béo chiếm 72%

Tỷ lệ bà mẹ hiểu đúng về bữa ăn hàng ngày của trẻ phải bổ sung thêm các thức ăn dự phòng thiếu sắt chiếm 90%

Bảng 3 10 Kiến thức của bà mẹ về cách cho ăn bổ sung

Kiến thức đúng khi cho trẻ ăn những thức ăn như thịt, cá, rau xanh 75 85

Kiến thức đúng về bữa ăn hàng ngày của trẻ cần phải thay đổi thức ăn thường xuyên

Kiến thức đúng khi cho trẻ ăn phải khuyến khích trẻ ăn, không nên ép 85 97

Kiến thức đúng khi trẻ bị ốm vẫn tiếp tục cho ăn bổ sung 76 86

Kiến thức đúng khi cho trẻ ăn bổ sung phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm 86 98

Kiến thức đúng khi chế biến riêng thức ăn cho trẻ 85 97

Kiến thức đúng về chế độ ăn phải phù hợp với từng lứa tuổi 84 95

Kiến thức được bữa ăn hàng ngày của trẻ ngoài bữa ăn chính, nên cho thêm các bữa ăn phụ 83 94

Kiến thức đúng cách cho trẻ phải ăn từ loãng đến đặc, từ ít đến nhiều 85 97

Bảng 3.10 cho thấy 85% bà mẹ có kiến thức đúng về việc cho trẻ ăn thực phẩm như thịt, cá và rau xanh Hơn nữa, 92% bà mẹ nhận thức được rằng bữa ăn hàng ngày của trẻ cần phải thay đổi thường xuyên Đáng chú ý, 97% bà mẹ hiểu rằng nên khuyến khích trẻ ăn mà không ép buộc, và 86% cho rằng vẫn cần tiếp tục bổ sung dinh dưỡng cho trẻ khi bị ốm.

Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về vệ sinh an toàn thực phẩm khi cho trẻ ăn bổ sung đạt 98% Ngoài ra, 97% bà mẹ biết cách chế biến thức ăn riêng cho trẻ và 95% hiểu rõ chế độ ăn phù hợp với từng lứa tuổi Đặc biệt, 83 bà mẹ có kiến thức về việc bổ sung các bữa ăn phụ cho trẻ ngoài bữa chính, với phương pháp cho trẻ ăn từ loãng đến đặc và từ ít đến nhiều, chiếm 97%.

Bảng 3 11 Kiến thức của bà mẹ về loại thức ăn và số bữa ăn hàng ngày cho con theo độ tuổi

Nội dung Kiến thức bà mẹ n Tỷ lệ %

Loại thức ăn cho trẻ từ 6-8 tháng tuổi

Biết đầy đủ 3 loại thức ăn 49 56

Số bữa/ngày cho trẻ 6 - 8 tháng tuổi

Biết đầy đủ các bữa ăn chính, ăn phụ, bú mẹ 62 70

Loại thức ăn cho trẻ từ 9 - 11 tháng tuổi

Biết đầy đủ 3 loại thức ăn 66 76

Số bữa/ngày cho trẻ 9 - 11 tháng tuổi

Biết đầy đủ 2-3 bữa ăn/ngày 69 78

Loại thức ăn cho trẻ từ 12 - 24 tháng tuổi

Biết đầy đủ 2 loại thức ăn 76 86

Bảng 3.12 cho thấy tỷ lệ bà mẹ nắm vững thông tin về 3 loại thức ăn cho trẻ từ 6-8 tháng tuổi đạt 56%, trong khi tỷ lệ này ở nhóm trẻ từ 9-11 tháng tuổi là 66% và nhóm trẻ từ 12-24 tháng tuổi tăng lên 86%.

Tỷ lệ bà mẹ biết được đầy đủ 3 bữa thức ăn cho trẻ từ 6-8 tháng tuổi chiếm 70%; ở nhóm 9-11 tháng tuổi chiếm 78%.

BÀN LUẬN

Đặc điểm chung của đối tượng nghiện cứu

Nghiên cứu cho thấy rằng trong số con cái của các bà mẹ, tỷ lệ con trai chiếm 61%, trong khi con gái chỉ chiếm 39% Điều này cho thấy tỷ lệ con trai cao hơn con gái trên địa bàn.

Nhóm tuổi con từ 6-8tháng tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 59%, tiếp đó là 9- 11tháng tuổi chiếm 27%, nhóm từ 12-24 tháng tuổi chiếm 14%

Nghiên cứu trên 88 bà mẹ cho thấy 50% thuộc nhóm tuổi dưới 24, 31% từ 25-29, 14% từ 30-34 và 6% từ 35 tuổi trở lên, cho thấy đa phần bà mẹ trong độ tuổi sinh đẻ Độ tuổi sinh con chủ yếu tập trung ở 25-35 tuổi do phụ nữ ngày nay tham gia học tập và làm việc nhiều hơn, cùng với việc độ tuổi kết hôn tăng Tỷ lệ sinh đẻ giảm ở nhóm tuổi trên 35, phù hợp với kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Thành và Phạm Thị Hằng Nga, cho thấy 81,7% bà mẹ trong độ tuổi 20-35 Nghiên cứu của Tạ Thị Lạc cũng chỉ ra rằng tỷ lệ bà mẹ dưới 20 tuổi chỉ chiếm 3,4%, trong khi nhóm 20-40 tuổi chiếm 94,5%, và trên 40 tuổi chỉ 2,1%, cho thấy tỷ lệ sinh đẻ ở độ tuổi cao rất thấp do các yếu tố sinh lý, công việc và tâm lý.

Nghiên cứu cho thấy trình độ học vấn của đối tượng có sự chênh lệch rõ rệt, trong đó nhóm trung học cơ sở chiếm tỷ lệ cao nhất với 73%, tiếp theo là nhóm phổ thông trung học trở lên với 17%, và nhóm tiểu học chiếm tỷ lệ thấp nhất là 10%.

Nghiên cứu về nghề nghiệp cho thấy 93% đối tượng làm ruộng, trong khi công chức, viên chức chiếm 5% và công nhân chỉ 2% Kết quả này phản ánh đúng tình hình kinh tế địa phương và cả nước hiện nay Theo nghiên cứu của Phạm Thị Thành và Phạm Thị Hằng Nga, tỷ lệ công chức, viên chức là 10,3% Nghiên cứu của Lê Thị Năng chỉ ra rằng 69,2% đối tượng làm ruộng, trong khi tỷ lệ công nhân chỉ đạt 7,5%.

Nghiên cứu cho thấy các bà mẹ chủ yếu tiếp cận thông tin qua tivi và mạng xã hội (MXH) với tỷ lệ 31%, tiếp theo là nhân viên y tế (30%) và gia đình, bạn bè (29%), trong khi báo chí, sách, tạp chí chỉ chiếm 9% Mặc dù nguồn thông tin rất đa dạng, tivi và MXH vẫn là lựa chọn phổ biến nhất do tính khả dụng cao Nhân viên y tế cũng đóng vai trò quan trọng, cần khuyến khích tăng cường nhận thông tin từ nguồn này để đảm bảo thông tin kịp thời và chính xác Sách báo có tỷ lệ tiếp cận thấp, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa, nơi mà điều kiện tiếp cận thông tin hạn chế Gia đình, bạn bè cũng không thường xuyên chia sẻ thông tin do bận rộn với công việc nông nghiệp Nghiên cứu của Đặng Thị Hà và Lê Thị Năng tại huyện Phù Mỹ, Bình Định chỉ ra rằng 70,4% bà mẹ nhận thông tin từ nhân viên y tế, 39,3% từ tivi và MXH, 18,1% từ gia đình, bạn bè, và 9,3% từ sách báo.

Tivi và mạng xã hội là hai nguồn thông tin phổ biến nhất, nhưng 39% các bà mẹ lại ưu tiên nhận thông tin từ nhân viên y tế Điều này cho thấy sự tin tưởng của các bà mẹ vào nguồn thông tin này, vì nhân viên y tế là những chuyên gia được đào tạo bài bản Họ có khả năng tư vấn và giải quyết các vấn đề cụ thể của từng gia đình, mang lại thông tin thiết thực và chọn lọc Ngược lại, nguồn thông tin từ sách báo có mức độ tiếp cận thấp nhất, thường chỉ được những người có trình độ văn hóa cao mới tìm kiếm và mong muốn.

Thực trạng ăn bổ sung của trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi

Nghiên cứu cho thấy, 65% trẻ em bắt đầu ăn bổ sung khi đủ 6 tháng tuổi, trong khi 20% dưới 6 tháng và 15% trên 6 tháng Điều này cho thấy phần lớn các bà mẹ nhận thức được rằng ăn bổ sung (ABS) là cần thiết cho trẻ sau 6 tháng để bổ sung năng lượng thiếu hụt do sữa mẹ cung cấp Thời điểm lý tưởng để bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung là khi trẻ tròn 6 tháng tuổi, khi cơ thể trẻ đã phát triển đầy đủ để tiếp nhận thức ăn mới.

Trong một khảo sát về chế độ ăn uống của trẻ em, có 84% trẻ được cung cấp từ 2-3 bữa ăn chính mỗi ngày Chỉ có 6% trẻ nhận được hơn 3 bữa ăn bổ sung, trong khi 7% trẻ chỉ được ăn 1 bữa chính mỗi ngày Đáng chú ý, có 3 bà mẹ không nắm rõ số bữa ăn chính mà trẻ cần trong ngày.

Trẻ 6-8 tháng tuổi thường được mẹ cho ăn với lượng 1/2 bát cháo, chiếm 92% (81/88 trẻ) Trong giai đoạn 9-11 tháng, 71% trẻ (17/24 trẻ) được mẹ cho ăn với lượng từ 1/2 đến 3/4 bát cháo.

Có 82 trẻ được ăn đầy đủ theo 4 nhóm thức ăn cơ bản chiếm 93%; 84 trẻ được thay đổi chế độ ăn dặm theo tháng tuổi chiếm 95% và 98% trẻ ngoài các bữa ăn chính trẻ có được ăn thêm các bữa ăn phụ đồng thời 84% trẻ khi ốm vẫn được bà mẹ tiếp tục cho trẻ ăn bổ sung.

Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chề độ ăn bổ sung

Nghiên cứu cho thấy 98% bà mẹ hiểu đúng về khái niệm ăn bổ sung (ABS), trong khi 58% nhận thức đúng về thời gian bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung Đa số các mẹ biết rằng ABS là cho trẻ ăn thêm thức ăn ngoài sữa mẹ, bắt đầu từ tháng thứ 6 để bù đắp sự thiếu hụt năng lượng Thời điểm lý tưởng để bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung là khi trẻ tròn 6 tháng tuổi, khi cơ thể trẻ đã phát triển đủ để tiếp nhận thức ăn mới, thể hiện qua các dấu hiệu của trẻ.

Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng chỉ có 38% bà mẹ nhận thức đúng và đầy đủ về các nguy cơ khi cho trẻ ăn dặm sớm, trong khi 63% bà mẹ không nắm rõ thông tin này Kết quả này phù hợp với thực tế và tương đồng với nghiên cứu của Đặng Thị Hà và Lê Thị Năng, trong đó 61,1% bà mẹ hiểu rằng việc cho trẻ ăn dặm sớm sẽ làm giảm khả năng tận dụng nguồn sữa mẹ, và 84,3% trẻ có nguy cơ bị rối loạn tiêu hóa Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi đã cải thiện phương pháp bằng cách yêu cầu bà mẹ liệt kê các nguy cơ trước khi đánh giá, giúp hiểu rõ hơn về kiến thức của họ Tiêu chuẩn của nghiên cứu là bà mẹ phải biết đầy đủ 4 nguy cơ khi cho trẻ ăn dặm sớm, dẫn đến kết quả kiến thức của bà mẹ thấp hơn so với nghiên cứu của Đặng Thị Hà.

Nghiên cứu cho thấy 63% bà mẹ không nhận thức đầy đủ về nguy cơ khi cho trẻ ăn dặm muộn, trong khi chỉ 38% biết rõ các rủi ro này Thêm vào đó, nghiên cứu của Đặng Thị Hà chỉ ra rằng 76,9% bà mẹ có kiến thức sai lệch về việc cho trẻ ăn dặm muộn hoặc không đúng cách, dẫn đến nguy cơ suy dinh dưỡng cho trẻ.

Mỗi loại thực phẩm cung cấp dinh dưỡng khác nhau, vì vậy cần phối hợp khoa học để đảm bảo cung cấp đủ dưỡng chất cho cơ thể Trong bữa ăn hàng ngày của trẻ, có 4 nhóm thực phẩm chính: chất bột đường, chất béo, chất đạm và rau củ, trái cây, mỗi nhóm đều có vai trò quan trọng riêng Nghiên cứu cho thấy 76% bà mẹ hiểu biết đầy đủ về 4 nhóm thức ăn cơ bản trong bữa ăn bổ sung cho trẻ, tỷ lệ này tương đương với 75,5% theo nghiên cứu của Đặng Thị Hà Điều này cho thấy cần tiếp tục tăng cường tuyên truyền về dinh dưỡng để đảm bảo bữa ăn của trẻ đầy đủ và cân bằng, giúp trẻ hấp thụ tốt hơn.

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chỉ có 44% bà mẹ hiểu biết đầy đủ về 4 nguồn thức ăn chất bột, bao gồm gạo, ngô, khoai và sắn, trong khi 56% còn lại không nắm rõ thông tin này Tất cả các bà mẹ đều biết ít nhất 1 nguồn thức ăn là gạo, do đây là thực phẩm phổ biến trong gia đình Tuy nhiên, ngô, khoai và sắn ít được biết đến hơn, mặc dù chúng cũng là nguồn tinh bột tốt cho mẹ và trẻ Việc nâng cao kiến thức về các nguồn thức ăn này sẽ giúp các bà mẹ tận dụng được thực phẩm có sẵn tại nhà, đồng thời khuyến khích họ thay đổi thực đơn hàng ngày để bữa ăn trở nên phong phú và dinh dưỡng hơn.

Tỷ lệ bà mẹ biết đầy đủ 4 nguồn thức ăn chứa chất đạm chỉ đạt 49%, cho thấy còn 51% mẹ chưa nắm rõ các nguồn thực phẩm như thịt, cá, tôm, cua, lươn, và ếch Tương tự, tỷ lệ bà mẹ hiểu biết về 4 nguồn thức ăn vitamin và khoáng chất cũng chỉ đạt 49% Điều này cho thấy cần thiết phải bổ sung kiến thức dinh dưỡng cho các bà mẹ, nhằm giúp họ thay đổi thực đơn cho con và đảm bảo cung cấp đủ dinh dưỡng cần thiết.

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 66% bà mẹ không nắm rõ nguồn thực phẩm cung cấp vitamin A Thiếu vitamin A trong chế độ ăn của trẻ em là một trong những nguyên nhân chính gây ra các bệnh lý về mắt ở trẻ.

Mặc dù tỷ lệ này nhỏ, nhưng cần thiết phải can thiệp kịp thời để đảm bảo tất cả trẻ em đều nhận được sự chăm sóc tốt nhất, dựa trên những kiến thức khoa học hiện đại từ người mẹ.

Trong một nghiên cứu về thức ăn phụ cho trẻ, có đến 75% bà mẹ không biết đầy đủ về 5 loại thức ăn cần thiết Thức ăn phụ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dinh dưỡng cho trẻ, bao gồm những món ăn yêu thích như bim bim, phô mai, sữa bột, sữa chua, bánh kẹo và hoa quả Những loại thực phẩm này cần được bổ sung hàng ngày để cung cấp vi chất, vitamin và lợi khuẩn cho đường ruột, hỗ trợ sự phát triển toàn diện của trẻ Tuy nhiên, chỉ có 25% bà mẹ được khảo sát có kiến thức đầy đủ về các loại thức ăn này.

5 loại thức ăn còn 75% các bà mẹ thiếu kiến thức về vấn đề này

Nghiên cứu về thành phần dinh dưỡng cho trẻ cho thấy 88% bà mẹ hiểu rằng bữa ăn hàng ngày cần có nhóm chất bột, trong khi 67% nhận thức đúng về sự cần thiết của nhóm chất đạm và 72% về nhóm chất béo Đặc biệt, 90% bà mẹ biết rằng cần bổ sung thực phẩm dự phòng thiếu sắt Tuy nhiên, sự hiểu biết này chưa được thực hiện hiệu quả trong thực tế do ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó điều kiện kinh tế đóng vai trò quan trọng.

Nghiên cứu cho thấy 85% bà mẹ có kiến thức đúng về việc cho trẻ ăn bổ sung các thực phẩm như thịt, cá và rau xanh Đến 92% bà mẹ nhận thức được rằng bữa ăn hàng ngày của trẻ cần thay đổi thường xuyên Tỷ lệ bà mẹ biết rằng việc khuyến khích trẻ ăn mà không ép buộc là 97%, trong khi 86% hiểu rằng trẻ ốm vẫn cần tiếp tục được cho ăn bổ sung Ngoài ra, 86% bà mẹ có kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm khi cho trẻ ăn bổ sung Tỷ lệ bà mẹ chế biến thức ăn riêng cho trẻ là 97% và 95% biết rằng chế độ ăn cần phù hợp với từng độ tuổi Hơn nữa, 94% bà mẹ nhận thức được rằng ngoài bữa chính, trẻ cũng cần các bữa phụ, và 97% hiểu cách cho trẻ ăn từ lỏng đến đặc, từ ít đến nhiều Nhìn chung, kiến thức của các bà mẹ về cách cho ăn bổ sung khá tốt, nhưng cần lưu ý một số vấn đề như tiếp tục cho trẻ ăn khi ốm, chế độ ăn phù hợp với độ tuổi và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm Để trẻ phát triển toàn diện, các bà mẹ nên tìm hiểu thực đơn và chế độ dinh dưỡng, đặc biệt là cho trẻ từ 6-8 tháng tuổi, giai đoạn chuyển từ bú sữa mẹ sang ăn dặm.

Chế độ ăn đầy đủ ba loại thức ăn hàng ngày cho trẻ từ 6-8 tháng tuổi là rất quan trọng cho sự phát triển của trẻ Thiếu hụt chất dinh dưỡng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển, dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) Nhiều gia đình có điều kiện kinh tế khá giả vẫn gặp phải tình trạng này do thiếu kiến thức dinh dưỡng, khiến trẻ không được cung cấp đủ chất cần thiết Trong giai đoạn này, trẻ phát triển nhanh và sữa mẹ thường không đủ dinh dưỡng, do đó cần bổ sung thêm các chất dinh dưỡng khác Ngược lại, một số gia đình lại cho trẻ ăn quá nhiều, dẫn đến tình trạng trẻ chưa hấp thu kịp, gây ra các vấn đề về tiêu hóa hoặc thừa cân, béo phì.

Nghiên cứu cho thấy rằng 56% bà mẹ hiểu biết đầy đủ về ba loại thức ăn cần thiết cho trẻ từ 6-8 tháng tuổi, trong khi 42% còn lại không nắm rõ thông tin này.

Chỉ có 2% bà mẹ biết đến ba loại thức ăn quan trọng cho trẻ em Đây là một vấn đề cần được chú trọng và phân loại trong các chương trình y tế sắp tới tại địa phương.

Nghiên cứu cho thấy 70% bà mẹ có kiến thức đúng về số lượng bữa ăn hàng ngày cho trẻ 6-8 tháng tuổi, với 2-3 bữa chính và 1-2 bữa phụ, cùng việc cho trẻ bú mẹ thường xuyên Tuy nhiên, vẫn cần nâng cao kiến thức này Đối với trẻ 9-11 tháng tuổi, tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về số lượng bữa ăn đạt 78%, cho thấy sự hiểu biết ngày càng tăng.

9-11 tháng tuổi thì hàng ngày nên cho trẻ ăn bột, cháo, thức ăn thái nhỏ hoặc nghiền và sữa mẹ

Ngày đăng: 24/03/2022, 14:30

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đặng Thị Hà, Lê Thị Năng (2013). Kiến thức, thái độ của bà mẹ cho con dưới 24 tháng tuổi ăn dặm tại xã Mỹ Lợi, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.Y học TP. Hồ Chí Minh, 1 (810), 12 -15 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức, thái độ của bà mẹ cho con dưới 24 tháng tuổi ăn dặm tại xã Mỹ Lợi, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định
Tác giả: Đặng Thị Hà, Lê Thị Năng
Nhà XB: Y học TP. Hồ Chí Minh
Năm: 2013
2. Đoàn Thị Ánh Tuyết, Lê Thị Hương (2011).Tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 2 tuổi và thực hành nuôi dưỡng trẻ của bà mẹ tại Hướng Hóa và Dakrong. Tạp Chí y học Thành Phố Hồ Chí Minh, 4, 70 – 75 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 2 tuổi và thực hành nuôi dưỡng trẻ của bà mẹ tại Hướng Hóa và Dakrong
Tác giả: Đoàn Thị Ánh Tuyết, Lê Thị Hương
Nhà XB: Tạp Chí y học Thành Phố Hồ Chí Minh
Năm: 2011
3. Hà Ngọc Linh, Đỗ Văn Dũng (2011). Kiến thức nuôi và chăm sóc ở bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại quận 12 Thành phố Hồ Chí Minh năm 2011. Tạp chí y học thành phố Hồ Chí Minh, (4), 25-29 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức nuôi và chăm sóc ở bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại quận 12 Thành phố Hồ Chí Minh năm 2011
Tác giả: Hà Ngọc Linh, Đỗ Văn Dũng
Nhà XB: Tạp chí y học thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2011
4. Lê Ngọc Dung, Nguyễn Phước Hưng (2012). Kiến thức, thái độ thực hành về nuôi dưỡng của bà mẹ có con suy dinh dưỡng tại Bệnh viện Nhi Đồng I. Tạp Chí y học Thành Phố Hồ Chí Minh,5, 203 – 208 5. Lê Thành Đạt (2012). Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố ảnhhưởng ở trẻ dưới 24 tháng tuổi tại Huyện Văn Chấn, Tỉnh Yên Bái năm 2012, Trường Đại học y Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức, thái độ thực hành về nuôi dưỡng của bà mẹ có con suy dinh dưỡng tại Bệnh viện Nhi Đồng I
Tác giả: Lê Ngọc Dung, Nguyễn Phước Hưng
Nhà XB: Tạp Chí y học Thành Phố Hồ Chí Minh
Năm: 2012
6. Lê Thị Năng (2013). Kiến thức, thái độ của bà mẹ cho con dưới 24 tháng tuổi ăn dặm tại Xã Mỹ Lợi, Huyện Phú Mỹ, Tỉnh Bình Định, Trường Đại học Y dược Thành Phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức, thái độ của bà mẹ cho con dưới 24 tháng tuổi ăn dặm tại Xã Mỹ Lợi, Huyện Phú Mỹ, Tỉnh Bình Định
Tác giả: Lê Thị Năng
Nhà XB: Trường Đại học Y dược Thành Phố Hồ Chí Minh
Năm: 2013
10. Nguyễn Thị Vũ Thành, Lê Bạch Mai (2015). Tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi năm 2015 tại xã Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây, Trường Đại học Y tế Công cộng Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi năm 2015 tại xã Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây
Tác giả: Nguyễn Thị Vũ Thành, Lê Bạch Mai
Nhà XB: Trường Đại học Y tế Công cộng Hà Nội
Năm: 2015
11. Nguyễn Văn Trân (2010). Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ năm 2010, Trường Đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ năm 2010
Tác giả: Nguyễn Văn Trân
Nhà XB: Trường Đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2010
12. Trương Thị Tân và cộng sự (2015). Tài liệu đào tạo Nuôi dưỡng trẻ nhỏ cho Cán bộ Y tế công tác trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em tại các tuyến. Tạp chí YH Thực hành, 4, (985), 205 - 210 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu đào tạo Nuôi dưỡng trẻ nhỏ cho Cán bộ Y tế công tác trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em tại các tuyến
Tác giả: Trương Thị Tân, cộng sự
Nhà XB: Tạp chí YH Thực hành
Năm: 2015
13. Trương Thị Thu Thủy (2013). Các yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng của trẻ bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã Mỹ Xương – huyện Cao Lảnh, tỉnh Đồng Tháp 2013, Trường Đại Học y tế Công cộng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng của trẻ bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã Mỹ Xương – huyện Cao Lảnh, tỉnh Đồng Tháp
Tác giả: Trương Thị Thu Thủy
Nhà XB: Trường Đại Học y tế Công cộng
Năm: 2013

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1.1. Các nguy cơ khi cho trẻ ăn bổ sung Các  nguy  cơ  khi  cho  trẻ  ăn  bổ  sung - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
Bảng 1.1. Các nguy cơ khi cho trẻ ăn bổ sung Các nguy cơ khi cho trẻ ăn bổ sung (Trang 5)
Bảng 1: Tỷ giá danh nghĩa giữa USD/VND: - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
Bảng 1 Tỷ giá danh nghĩa giữa USD/VND: (Trang 21)
Bảng 3.2. Nhóm tuổi của con - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
Bảng 3.2. Nhóm tuổi của con (Trang 23)
Bảng 3.1. Giới tính con - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
Bảng 3.1. Giới tính con (Trang 23)
Bảng 3.3. Một số thông tin chung của bà mẹ - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
Bảng 3.3. Một số thông tin chung của bà mẹ (Trang 24)
Bảng 3.4. Thực trạng ăn bổ sung của trẻ - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
Bảng 3.4. Thực trạng ăn bổ sung của trẻ (Trang 26)
Nhận xét: Trên bảng cho thấy: - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
h ận xét: Trên bảng cho thấy: (Trang 27)
Bảng 3. 5. Thời gian và khái niệm cho ăn bổ sung - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
Bảng 3. 5. Thời gian và khái niệm cho ăn bổ sung (Trang 27)
Nhận xét: Bảng 3.6 cho thấy, tỷ lệ bà mẹ biết đúng và đầy đủ các nguy cơ khi - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
h ận xét: Bảng 3.6 cho thấy, tỷ lệ bà mẹ biết đúng và đầy đủ các nguy cơ khi (Trang 28)
Bảng 3. 6. Kiến thức của bà mẹ về nguy cơ khi ăn bổ sung không đúng - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
Bảng 3. 6. Kiến thức của bà mẹ về nguy cơ khi ăn bổ sung không đúng (Trang 28)
Bảng 3. 8. Kiến thức của bà mẹ về nguồn thứcăn bổ sung - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
Bảng 3. 8. Kiến thức của bà mẹ về nguồn thứcăn bổ sung (Trang 29)
Bảng 3. 9. Kiến thức của bà mẹ về thành phần ăn bổ sung - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
Bảng 3. 9. Kiến thức của bà mẹ về thành phần ăn bổ sung (Trang 30)
Bảng 3. 10. Kiến thức của bà mẹ về cách cho ăn bổ sung - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
Bảng 3. 10. Kiến thức của bà mẹ về cách cho ăn bổ sung (Trang 31)
Bảng 3. 11. Kiến thức của bà mẹ về loại thứcăn và số bữa ăn hàng ngày cho con theo độ tuổi - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
Bảng 3. 11. Kiến thức của bà mẹ về loại thứcăn và số bữa ăn hàng ngày cho con theo độ tuổi (Trang 32)
Nhận xét: Bảng 3.10 cho thấy tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng khi cho trẻ ăn những thức ăn như thịt, cá, rau xanh chiếm 85% và về bữa ăn hàng ngày của trẻ  cần phải thay đổi thức ăn thường xuyên chiếm 92% - Thực trạng kiến thức của bà mẹ có con dưới 2 tuổi về chế độ ăn bổ sung đang điều trị tại khoa Nhi bệnh viện đa huyện Mai Sơn từ tháng 102020 đến tháng 92021
h ận xét: Bảng 3.10 cho thấy tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng khi cho trẻ ăn những thức ăn như thịt, cá, rau xanh chiếm 85% và về bữa ăn hàng ngày của trẻ cần phải thay đổi thức ăn thường xuyên chiếm 92% (Trang 32)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w