NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN BAN
THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY QUẢN LÝ 1.1 Cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý
1.1.1 Khái niệm cán bộ và cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý 1.1.1.1 Khái niệm cán bộ
Thuật ngữ “cán bộ” xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ XX, ban đầu được sử dụng trong quân đội để phân biệt giữa chiến sĩ và người chỉ huy Sau đó, từ “cán bộ” được nhân dân sử dụng rộng rãi để chỉ những người tham gia kháng chiến, nhằm phân biệt với dân thường Hiện nay, cán bộ được hiểu là tất cả những người làm việc trong bộ máy của Đảng, chính quyền, đoàn thể và lực lượng vũ trang.
Trong cuốn từ điển tiếng việt do Hoàng Phê chủ biên năm 2003 giải thích nghĩa của từ “cán bộ” có 2 nghĩa:
1 Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước;
2 Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ” [49]
Danh từ "cán bộ" có hai nghĩa chính: Thứ nhất, chỉ những người làm công việc chuyên môn tại các cơ quan nhà nước, bao gồm cả hệ thống chính trị Thứ hai, ám chỉ những người giữ chức vụ trong các cơ quan, tổ chức, bao gồm cả cán bộ trong hệ thống chính trị, thông qua các hình thức như bầu cử, đề bạt, bổ nhiệm Điều này giúp phân biệt giữa cán bộ có chức vụ và những người làm công việc chuyên môn đơn thuần.
Trong buổi nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa vào ngày 20/02/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng "cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy", cho thấy vai trò quan trọng của cán bộ trong hệ thống Ông chỉ ra rằng nếu dây chuyền không hoạt động hiệu quả, thì dù động cơ có tốt đến đâu cũng không thể phát huy công suất.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN
Cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý
1.1.1 Khái niệm cán bộ và cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý 1.1.1.1 Khái niệm cán bộ
Thuật ngữ “cán bộ” lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ XX, ban đầu được dùng trong quân đội để phân biệt giữa chiến sĩ và chỉ huy Dần dần, từ này được nhân dân sử dụng rộng rãi để chỉ những người tham gia kháng chiến, nhằm phân biệt họ với cộng đồng Hiện nay, “cán bộ” được hiểu là tất cả những người làm việc trong bộ máy của Đảng, chính quyền, đoàn thể và lực lượng vũ trang.
Trong cuốn từ điển tiếng việt do Hoàng Phê chủ biên năm 2003 giải thích nghĩa của từ “cán bộ” có 2 nghĩa:
1 Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước;
2 Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ” [49]
Danh từ "cán bộ" có hai nghĩa chính: Thứ nhất, nó chỉ những người làm công việc chuyên môn tại các cơ quan nhà nước, bao gồm cả hệ thống chính trị (HTCT) Thứ hai, "cán bộ" ám chỉ những cá nhân giữ chức vụ trong các tổ chức, cơ quan, bao gồm cả những người trong HTCT, thông qua các hình thức như bầu cử, đề bạt hoặc bổ nhiệm, nhằm phân biệt với những người chỉ thực hiện công việc chuyên môn mà không có chức vụ.
Trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa ngày 20/02/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò quan trọng của cán bộ, cho rằng họ là "dây chuyền của bộ máy" Ông chỉ ra rằng nếu dây chuyền không hoạt động tốt, thì dù động cơ có mạnh mẽ đến đâu, toàn bộ hệ thống cũng sẽ bị tê liệt Cán bộ là những người thực thi chính sách của Chính phủ và các tổ chức trong cộng đồng; do đó, nếu cán bộ không đủ năng lực, chính sách dù tốt cũng sẽ không thể được thực hiện hiệu quả.
Trong tác phẩm sửa đổi lề lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa cán bộ là những người truyền đạt chính sách của Đảng và chính phủ đến nhân dân, đồng thời báo cáo tình hình của dân chúng để điều chỉnh chính sách cho phù hợp Tại Việt Nam, khái niệm về cán bộ đã được làm rõ hơn từ khi Luật cán bộ công chức có hiệu lực từ ngày 01/01/2010, trong đó quy định cán bộ là công dân Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ trong cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, với chế độ lương từ ngân sách nhà nước.
Theo quy định, cán bộ được xác định thông qua cơ chế bầu cử, phê chuẩn và bổ nhiệm theo nhiệm kỳ Những người đáp ứng tiêu chí chung và được tuyển dụng vào các cơ quan Đảng, Nhà nước, và tổ chức chính trị - xã hội qua các hình thức này sẽ được công nhận là cán bộ Cán bộ luôn gắn liền với chức vụ và chức danh theo nhiệm kỳ, hoạt động của họ liên quan đến quyền lực chính trị do nhân dân hoặc các thành viên ủy thác, và họ chịu trách nhiệm chính trị trước Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Từ khi Luật cán bộ, công chức được ban hành, khái niệm "cán bộ" đã được xác định rõ ràng Cán bộ là những người được bầu cử, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ trong cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, có nhiệm kỳ và hưởng lương Cán bộ đóng vai trò quan trọng trong tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động và các mối quan hệ lãnh đạo, quản lý, điều hành, từ đó định hướng sự phát triển của tổ chức.
1.1.1.2 Khái niệm cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý
Công tác quản lý cán bộ là một phần quan trọng trong hệ thống quản lý nhà nước, được phân công giữa Trung ương và địa phương tùy theo từng giai đoạn cụ thể Các cán bộ thuộc diện quản lý của Ban Thường vụ tỉnh ủy giữ những chức vụ cao nhất tại cấp tỉnh và huyện, và họ phải tuân thủ các tiêu chuẩn do Ban Thường vụ tỉnh ủy quy định Quy trình này bao gồm việc đề bạt, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, giới thiệu ứng cử, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chính sách cán bộ, tất cả đều dựa trên Điều lệ Đảng, Điều lệ của các đoàn thể và các quy định của Pháp luật.
Theo Từ điển bách khoa toàn thư của Liên Xô (trước đây) thì cán bộ lãnh đạo có hai nghĩa:
Thứ nhất, chỉ người đứng đầu của một tổ chức, một phong trào.
Thứ hai, là người làm thức tỉnh hành vi của người khác.
Cán bộ lãnh đạo được hiểu là những người đảm nhận các vị trí cao trong hệ thống chính trị, có trách nhiệm lớn và ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của tổ chức Họ đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng và điều hành các hoạt động của đơn vị, góp phần vào sự phát triển và hiệu quả của bộ máy trong hệ thống chính trị.
Cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý là những người giữ chức vụ cao nhất trong hệ thống chính trị cấp tỉnh và huyện Ban Thường vụ tỉnh ủy quy định tiêu chuẩn và quyết định các vấn đề liên quan đến cán bộ như đề bạt, điều động, bổ nhiệm, và khen thưởng Các hoạt động này được thực hiện dựa trên Điều lệ Đảng, quy định của pháp luật và các đoàn thể Thông qua cơ quan tham mưu, Ban Thường vụ tỉnh ủy thực hiện chức năng quản lý bao gồm nhận xét, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và giám sát cán bộ, nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ.
"Cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý" là những người giữ chức vụ quan trọng, có vai trò then chốt trong hệ thống chính trị của tỉnh Họ có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của hệ thống chính trị, góp phần quyết định vào sự phát triển và xây dựng địa phương trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng Đảng.
Phân cấp cán bộ là yêu cầu cần thiết để xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị, đảm bảo đáp ứng yêu cầu chính trị ở mỗi cấp Để thực hiện điều này, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 67 - QĐ/TW vào ngày 04/7/2007, quy định về phân cấp quản lý cán bộ; đồng thời, Ban Thường vụ các tỉnh cũng đã ban hành quyết định riêng về phân cấp cán bộ.
Theo Quyết định của Bộ Chính trị và hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, cán bộ do Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý bao gồm những người được bầu cử và bổ nhiệm vào các vị trí chủ chốt tại hệ thống chính trị cấp tỉnh và huyện, cũng như các trưởng, phó sở, ban ngành tương đương Những cán bộ này có trách nhiệm lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cơ quan, ban ngành trong tỉnh một cách trực tiếp và thường xuyên.
Về cơ bản cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý, gồm các chức danh sau:
* Ở các cơ quan cấp tỉnh
Các đồng chí Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Chánh Văn phòng, phó Chánh Văn phòng Tỉnh ủy
Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy
Trưởng, phó Trưởng các Ban Đảng và tương đương của Tỉnh ủy
Tổng Biên tập, phó Tổng biên tập báo tỉnh
Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng trường chính trị
Bí thư, Phó Bí thư các Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn
Chủ tịch, phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh
Bí thư, phó Bí thư Tỉnh đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Chủ tịch và phó Chủ tịch các đoàn thể chính trị - xã hội bao gồm Liên đoàn Lao động, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật tỉnh, Hội Văn học - Nghệ thuật, Liên minh Hợp tác xã tỉnh, Hội Chữ Thập đỏ tỉnh và Hội Nhà báo tỉnh.
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; Ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh
Trưởng, phó Ban chuyên trách Hội đồng nhân dân tỉnh
Chánh, phó Chánh Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh, Chánh, phó Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh
Giám đốc, phó Giám đốc các sở, ngành và tương đương thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh
Chánh, phó Chánh Thanh tra Nhà nước tỉnh
Chánh, phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tỉnh
Trưởng, phó Trưởng ban Quản lý Các khu công nghiệp tỉnh, Ban quản lýKhu đô thị mới tỉnh
Giám đốc, phó Giám đốc Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Đại biểu Quốc hội do tỉnh giới thiệu ứng cử
Giám đốc Bệnh viện Đa khoa tỉnh
Hiệu trưởng các trường Đại học, Cao đẳng công lập thuộc tỉnh
* Ở huyện, thị, đảng ủy trực thuộc
Bí thư, phó Bí thư, và Ủy viên Ban Thường vụ huyện ủy, thị ủy, cùng với các đảng ủy khối trực thuộc tỉnh, Đảng ủy Công an, Quân sự, và Bộ đội biên phòng tỉnh đóng vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo và quản lý các hoạt động chính trị, đảm bảo an ninh trật tự và phát triển địa phương.
Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện, thị
Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch công ty, Chủ tịch kiêm Giám đốc, Tổng Giám đốc, Giám đốc và Kiểm soát viên của các công ty TNHH một thành viên và công ty cổ phần có vốn Nhà nước chi phối được phân loại thành các hạng I và II.
Giám đốc hoặc phó Giám đốc là đại diện cho vốn cổ phần nhà nước ở các công ty liên doanh với nước ngoài
Chuyên viên cao cấp, chuyên gia cao cấp
Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý
1.2.1 Công tác xây dựng quy hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý
Theo Từ điển tiếng Việt (2003) do Hoàng Phê chủ biên, "quy hoạch" được định nghĩa là việc bố trí và sắp xếp một cách hợp lý toàn bộ các yếu tố trong một khoảng thời gian nhất định, từ đó tạo nền tảng cho việc lập kế hoạch dài hạn.
Quy hoạch là quá trình bố trí và sắp xếp hợp lý theo thời gian, tạo nền tảng cho việc lập kế hoạch cụ thể, dài hạn và ngắn hạn Quy hoạch cán bộ, do đó, là việc dự kiến sắp xếp tổng thể cán bộ theo một ý đồ nhất định, với trình tự hợp lý trong một khoảng thời gian xác định, nhằm xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực hiệu quả.
Công tác xây dựng quy hoạch là một phần thiết yếu trong công tác cán bộ, bao gồm việc thực hiện đồng bộ các chủ trương và biện pháp nhằm tạo nguồn và phát triển cán bộ Quy hoạch cần dựa trên dự báo nhu cầu cán bộ để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chính trị và công việc được giao Khi đề cập đến quy hoạch, cần xác định rõ yêu cầu, căn cứ, phạm vi, nội dung và phương pháp thực hiện quy hoạch.
Xây dựng đội ngũ cán bộ thông qua công tác quy hoạch là một nhiệm vụ quan trọng mà Đảng ta luôn chú trọng Để đảm bảo đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài, cần thực hiện tốt quy hoạch nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo số lượng và cơ cấu hợp lý Việc này giúp duy trì tính liên tục, kế thừa và phát triển, đồng thời tránh tình trạng hẫng hụt và không đồng bộ trong công tác cán bộ Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII nhấn mạnh rằng quy hoạch cán bộ là yếu tố then chốt, giúp công tác cán bộ trở nên chủ động và có tầm nhìn dài hạn Để thực hiện tốt công tác quy hoạch và dự nguồn cán bộ, cần quán triệt tinh thần quy hoạch theo Nghị quyết Trung ương ba khóa VIII và Hướng dẫn số 15 - HD/BTCTW.
Phải đảm bảo đạt một số cơ cấu định hướng như sau:
- Cơ cấu độ tuổi: Dưới 40 tuổi: không dưới 15%; từ 40 đến 50 tuổi: khoảng 55-65%; trên 50 tuổi: khoảng 20-30%.
- Cơ cấu nữ: không dưới 15% so với danh sách quy hoạch.
- Cơ cấu ngành nghề, theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng, xây dựng HTCT và đặc điểm của từng địa phương.
- Cơ cấu dân tộc: phù hợp với cơ cấu dân tộc của tỉnh.
Thực hiện quy hoạch cán bộ cần tuân thủ nguyên tắc "động" và "mở", đảm bảo tính đồng bộ từ cấp lãnh đạo đến cơ sở Quy trình này phải mang tính khoa học và thực tiễn, đồng thời công khai để tăng cường tính minh bạch trong công tác cán bộ.
Ban Thường vụ tỉnh ủy đã tiến hành đánh giá và rút kinh nghiệm từ công tác quy hoạch cán bộ qua các nhiệm kỳ trước, nhấn mạnh sự cần thiết của quy hoạch hệ thống đồng bộ ở cả ba cấp từ tỉnh đến cơ sở Quy hoạch cấp dưới đã phục vụ làm căn cứ cho quy hoạch cấp trên, trong khi quy hoạch cấp trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho quy hoạch cấp dưới Số lượng cán bộ được đưa vào diện quy hoạch đã được rà soát và đánh giá một cách dân chủ, khách quan, phù hợp với tiêu chuẩn chức danh Kết quả này đã giúp khắc phục những hạn chế trong công tác quy hoạch cán bộ so với những năm trước.
1.2.2 Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (2003), "đào tạo" là quá trình giúp một người trở thành có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định, trong khi "bồi dưỡng" là việc tăng cường năng lực hoặc phẩm chất của cá nhân Nghị định số 18/2010/NĐ cũng quy định rõ về các khái niệm này trong lĩnh vực giáo dục và phát triển nguồn nhân lực.
Theo CP ngày 05/3/2010, đào tạo công chức là quá trình truyền thụ và tiếp nhận tri thức, kỹ năng một cách hệ thống, phù hợp với từng cấp học, bậc học Bồi dưỡng công chức là hoạt động nhằm trang bị, cập nhật và nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc.
Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ là quá trình trang bị kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cần thiết, giúp người học đạt tiêu chuẩn nhất định để thực hiện công việc cụ thể Bồi dưỡng không chỉ đơn thuần là việc học hỏi, mà còn là sự tác động nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng dựa trên nền tảng kiến thức đã có trước đó.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ đóng vai trò quan trọng và là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu của giai cấp cầm quyền, như V.I Lênin đã chỉ rõ.
Trong lịch sử, không có giai cấp nào có thể giành quyền thống trị nếu không có những lãnh đạo chính trị đủ khả năng tổ chức và dẫn dắt phong trào Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, "Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng" Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, Đảng ta đã luôn chú trọng đến việc này trong suốt quá trình lãnh đạo bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội Mỗi kỳ Đại hội Đảng đều nhấn mạnh đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước, như đã được nêu trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.
Nhân tài cần được phát hiện và bồi dưỡng một cách có hệ thống, vì nếu không, nhiều tài năng có thể bị lãng quên Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức với các chương trình phù hợp Điều này bao gồm việc quan tâm đến đào tạo cho cả lãnh đạo, quản lý, doanh nhân và chuyên gia, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị, với trọng tâm là phát triển cả đức và tài Đảng ta tiếp tục khẳng định sự cần thiết của công tác đào tạo, với các chương trình đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ công chức.
Cán bộ đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định và thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết định sự thành công hay thất bại của các đường lối, chính sách Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ then chốt trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã chú trọng công tác này, với Nghị quyết số 32/NQ-TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của việc không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ và phẩm chất chính trị, đồng thời đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực như chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng và lãng phí.
Để thực hiện quan điểm của Đảng, Chính phủ và các cơ quan quản lý cán bộ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, tiêu biểu như Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 và Nghị định số 18/2010/NĐ-CP Những văn bản này đóng vai trò then chốt trong việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều quyết định quan trọng nhằm phát triển nguồn nhân lực và đào tạo công chức, bao gồm CP ngày 05/3/2010 về đào tạo, bồi dưỡng công chức; Quyết định số 579/QĐ - TTg ngày 19/4/2011 phê duyệt chiến lược phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020; Quyết định số 1216/QĐ - TTg ngày 22/7/2011 quy hoạch nguồn nhân lực cho giai đoạn này; và Quyết định số 1374/QĐ - TTg ngày 12/8/2011 về kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức giai đoạn 2011-2015 Gần đây, Quyết định số 163/QĐ - TTg ngày 25/01/2016 cũng đã được phê duyệt để tiếp tục nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức, viên chức trong giai đoạn 2016.