MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Xã, phường, thị trấn là cấp hành chính cơ sở quan trọng, đóng vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, giúp thực hiện các đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước Đây cũng là nơi phát huy sức mạnh đại đoàn kết và quyền làm chủ của nhân dân, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh Đồng thời, các cấp hành chính này còn giúp đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, phát hiện và giải quyết kịp thời các vấn đề mới trong đời sống xã hội, từ đó kiến nghị điều chỉnh, bổ sung các chính sách của Đảng và Nhà nước Đội ngũ cán bộ chủ chốt tại đây có vai trò quan trọng trong việc đưa nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống.
Sức mạnh của hệ thống chính trị và sự ổn định xã hội phụ thuộc vào năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ Ở những địa phương có đội ngũ cán bộ vững mạnh, tình hình chính trị và xã hội ổn định, kinh tế và văn hóa phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao Ngược lại, nếu đội ngũ cán bộ chủ chốt yếu kém về trình độ và uy tín, phong trào cách mạng sẽ không hiệu quả, dẫn đến sự chậm phát triển kinh tế - xã hội và trật tự xã hội bất ổn.
Huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế và xã hội, đang đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp như quy hoạch, giải tỏa, khiếu kiện, và gia tăng tội phạm Sự phát triển của các cơ quan, doanh nghiệp và dự án trọng điểm yêu cầu một đội ngũ cán bộ cấp xã, thị trấn có năng lực và phẩm chất tốt Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ này còn nhiều hạn chế về trình độ, chất lượng hoạt động và chính sách đãi ngộ chưa hợp lý Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ đã làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng Để khắc phục tình trạng này, cần xây dựng một đội ngũ cán bộ chủ chốt có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn, nhằm góp phần phát triển quê hương Châu Thành A ngày càng giàu đẹp và văn minh.
Vấn đề cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn, đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ nhiều nhà lãnh đạo, quản lý và các cơ quan, đơn vị khác nhau Nhiều bài viết, đề tài nghiên cứu, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ đã được công bố, đóng góp những giải pháp và kiến nghị sâu sắc, có giá trị lý luận và thực tiễn cao về xây dựng đội ngũ cán bộ.
Một số công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến đề tài :
- Công trình "Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo chính trị chủ chốt cấp cơ sở", 1992;
Tiến sĩ Phan Văn Tích là chủ biên của nghiên cứu "Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn)", thuộc nhánh đề tài KT-XH.05-11 Nghiên cứu này tập trung vào việc xác định các tiêu chí và cơ cấu cần thiết để nâng cao hiệu quả lãnh đạo tại các cấp cơ sở, góp phần phát triển bền vững cho cộng đồng.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân Sầm là chủ biên của cuốn sách "Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới", được xuất bản bởi Nhà xuất bản Chính trị quốc gia vào năm 1998 tại Hà Nội Cuốn sách này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các tiêu chí và cơ cấu cho cán bộ lãnh đạo trong bối cảnh đổi mới của hệ thống chính trị Việt Nam.
Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) đã trình bày trong tác phẩm “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2003, Nxb CTQG, Hà Nội) những luận điểm quan trọng về việc cải thiện năng lực của đội ngũ cán bộ Tác phẩm nhấn mạnh vai trò của cán bộ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ này để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
- Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) “Hệ thống chính trị nông thôn nước ta hiện nay”, 2005;
Đoàn Minh Duệ và Hồ Thị Hồng Cúc đã đồng chủ biên tác phẩm “Một số giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở các tỉnh Đồng Bằng sông Cửu Long trong thời kỳ hội nhập và phát triển” vào năm 2014 Tác phẩm này đề xuất các giải pháp thiết thực nhằm nâng cao năng lực lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở, góp phần quan trọng vào quá trình hội nhập và phát triển của khu vực Đồng Bằng sông Cửu Long.
Một số luận văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ đã công bố liên quan đến đề tài :
- Phạm Công Khâm: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học, 2000;
- Nguyễn Mậu Dựng: "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay", Luận án tiến sĩ Lịch sử, 2000;
- Nguyễn Căn Côi: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ lịch sử, 2002;
Phan Thị Thúy Vân trong luận văn thạc sĩ khoa học chính trị năm 2005 đã nghiên cứu về việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường tại thành phố Cần Thơ Bài viết phân tích thực trạng hiện nay và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của đội ngũ này, góp phần phát triển chính quyền địa phương và phục vụ tốt hơn cho cộng đồng.
Trần Trung Trực đã trình bày trong luận văn thạc sĩ khoa học chính trị năm 2005 về việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cho hệ thống chính trị cấp xã tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ địa phương nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền xã Bài viết cũng đề xuất các giải pháp cụ thể để cải thiện chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Mai Đức Ngọc trong luận án tiến sĩ khoa học chính trị năm 2007 đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc duy trì ổn định chính trị và xã hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay Cán bộ lãnh đạo không chỉ là người định hướng chính sách mà còn là cầu nối giữa chính quyền và người dân, góp phần tạo ra sự đồng thuận và phát triển bền vững cho cộng đồng nông thôn.
- Nguyễn Phi Long: “Quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã ở tỉnh
Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sĩ, 2007;
- Nguyễn Văn Vũ: “Kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay”, Luận văn thạc sĩ, 2008;
Lê Nguyên Đông (2014) trong luận văn thạc sĩ khoa học chính trị của mình đã nghiên cứu về việc xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền xã, phường tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp Nghiên cứu này tập trung vào việc nâng cao năng lực và hiệu quả làm việc của đội ngũ cán bộ, nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu quản lý và phục vụ người dân trong bối cảnh phát triển đô thị hiện nay.
- Lê Thị Phi Yến: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Châu
Thành, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, 2015.
Một số bài viết được đăng trên các tạp chí liên quan đến đề tài :
- Trần Văn Phòng: "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, số 5/2003;
- Vĩnh Trọng:“Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở”, Tạp chí Xây dựng Đảng số 1/2004;
PGS.TS Nguyễn Thị Tâm từ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh khu vực III đã đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tại thành phố Đà Nẵng trong bài viết đăng trên Tạp chí Nhà nước ngày 31/5/2016 Các giải pháp này tập trung vào việc nâng cao năng lực, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu công việc và phục vụ tốt nhất cho sự phát triển của thành phố.
Chính sách xây dựng đội ngũ cán bộ xã từ người dân tộc thiểu số là một yếu tố quan trọng trong việc phát triển địa phương Việc giáo dục lý luận chính trị và đạo đức cho cán bộ hiện nay cần được chú trọng để nâng cao năng lực lãnh đạo và phục vụ cộng đồng Tạp chí đã chỉ ra rằng, việc này không chỉ góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội mà còn tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa cán bộ và người dân.
- Nguyễn Thị Mai Anh: “Yêu cầu và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ hội nhập quốc tế”, Tạp chí Cộng sản số 4/2015.
Các công trình đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở, bao gồm cả cán bộ chủ chốt tại các xã, phường và thị trấn.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
Một số khái niệm cơ bản; Vị trí, vai trò và đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
1.1.1 Khái niệm xã, phường, thị trấn
Trong hệ thống hành chính Việt Nam, cấp xã (gồm xã, phường, thị trấn) là cấp thấp nhất trong bốn cấp hành chính: Trung ương, tỉnh, huyện và xã Theo Điều 110 của Hiến pháp 2013, đất nước được chia thành các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, từ đó tỉnh được chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh Các đơn vị hành chính này tiếp tục được phân chia thành các cấp thấp hơn, với huyện chia thành xã và thị trấn, trong khi thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã, và quận được chia thành phường.
Xã là đơn vị hành chính cấp thấp nhất tại khu vực nông thôn, ngoại thành và ngoại thị của Việt Nam Thuật ngữ này cũng có thể được sử dụng để chỉ toàn bộ các đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm xã, phường và thị trấn.
Phường là đơn vị hành chính cấp thấp nhất tại Việt Nam, tương đương với xã và thị trấn, và là đơn vị nội thị của các thành phố, thị xã, hoặc quận Để quản lý hiệu quả, mỗi phường được chia thành các khu vực, trong khi các khu vực này lại có các tổ Tương tự, xã và thị trấn cũng chia thành xóm và ấp, nhưng các đơn vị nhỏ này không được công nhận là đơn vị hành chính chính thức của Nhà nước Việt Nam.
Xã, phường, thị trấn, hay còn gọi tắt là xã, là đơn vị hành chính cơ sở có đầy đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội Đây là nơi diễn ra hầu hết các hoạt động của đời sống xã hội, nơi tiếp nhận và thực hiện các đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng cùng chính sách, pháp luật của Nhà nước Cấp xã đóng vai trò quan trọng trong việc đưa nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và phục vụ nhân dân.
Cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, đóng vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo và quản lý các hoạt động của Đảng và Nhà nước Họ thực hiện công việc theo các quy định, hướng dẫn và chỉ thị, nhằm tác động đến các giai cấp và tầng lớp trong xã hội, buộc họ phải tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.
Cấp xã là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền 4 cấp của Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Tại đây, các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị được triển khai Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng cấp xã là cấp gần gũi với dân nhất, là nền tảng của hành chính, và khi cấp xã hoạt động hiệu quả, mọi công việc sẽ được hoàn thành.
Xã, phường, thị trấn là cấp chính quyền địa phương thấp nhất trong hệ thống 4 cấp ở Việt Nam, thực hiện quyền lực Nhà nước và đại diện cho nguyện vọng của nhân dân Các đơn vị này có nhiệm vụ quyết định và tổ chức thực hiện các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, cũng như xây dựng hệ thống chính trị tại cơ sở Họ cũng có trách nhiệm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của người dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa cán bộ một cách rõ ràng: "Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng và báo cáo tình hình dân chúng để chính sách được thực hiện đúng đắn." Theo Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, cán bộ được hiểu là người làm việc trong cơ quan nhà nước và những người giữ chức vụ trong các tổ chức nhà nước, phân biệt với những người không giữ chức vụ.
Theo Từ điển tiếng Việt - 2000 của Nhà xuất bản Đà Nẵng, "cán bộ" được định nghĩa là những người có chuyên môn trong các cơ quan nhà nước, như cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học và cán bộ chính trị Thuật ngữ này cũng chỉ những cá nhân có chức vụ trong một tổ chức, phân biệt với những người không có chức vụ Sự đoàn kết giữa cán bộ và chiến sĩ, cũng như việc họp mặt giữa cán bộ và công nhân nhà máy, là những yếu tố quan trọng trong hoạt động của cán bộ Đoàn Thanh niên.
Cán bộ là thuật ngữ phổ biến ở Việt Nam và một số quốc gia khác, chỉ những cá nhân được bầu hoặc bổ nhiệm vào các vị trí trong tổ chức để thực hiện nhiệm vụ theo chức năng được giao Đối tượng này bao gồm nhân viên nhà nước, các thành viên trong cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị, xã hội, doanh nghiệp nhà nước, và các lực lượng vũ trang từ trung ương đến địa phương và cơ sở.
Cán bộ có bốn đặc trưng cơ bản sau:
Cán bộ được ủy nhiệm bởi Đảng, Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện các hoạt động dưới danh nghĩa của những tổ chức này.
Hai là, Cán bộ giữ chức vụ, trọng trách nào đó trong một tổ chức của hệ thống chính trị.
Cán bộ cần phải trải qua quá trình tuyển chọn hoặc phân công công việc sau khi hoàn thành chương trình đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề Việc bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử cán bộ cũng là một phần quan trọng trong quy trình này.
Bốn là, Cán bộ được hưởng lương và chính sách căn cứ vào nội dung, tính chất hoạt động và thời gian công tác của họ.
Cán bộ bao gồm những người lãnh đạo, quản lý, chuyên môn, nhà khoa học, công chức và viên chức, làm việc và nhận lương từ ngân sách nhà nước hoặc các nguồn khác Họ được hình thành thông qua quy trình tuyển dụng, phân công công tác sau khi tốt nghiệp, bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
1.1.3 Khái niệm đội ngũ cán bộ chủ chốt
Theo Sách tra cứu các mục từ về tổ chức, "đội ngũ" được định nghĩa là một nhóm đông người được tập hợp để thực hiện công việc cụ thể, chẳng hạn như đội ngũ binh sĩ trong quân đội Ngoài ra, "đội ngũ" còn chỉ những tập hợp người có chung lý tưởng, mục tiêu hoặc nghề nghiệp, như đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn viên, những người viết báo, giai cấp công nhân và trí thức.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của một địa phương, cơ quan, hay đơn vị là tập hợp các cán bộ lãnh đạo quan trọng từ các tổ chức trụ cột trong hệ thống tổ chức của đơn vị đó Họ cùng nhau lãnh đạo và điều hành để hoàn thành nhiệm vụ chung, đảm bảo sự phát triển bền vững cho địa phương hoặc cơ quan.
Theo Từ điển tiếng Việt - 2000, “chủ chốt” là tính từ chỉ “quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt Cán bộ chủ chốt của phong trào” [47, tr.174].
Quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ
1.2.1 Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vai trò của cán bộ trong hoạt động cách mạng, vì họ là người truyền đạt chính sách của Đảng và Chính phủ đến với nhân dân Người nhấn mạnh rằng cán bộ là gốc rễ của mọi công việc, có trách nhiệm báo cáo tình hình của dân chúng để Đảng và Chính phủ điều chỉnh chính sách cho phù hợp Bên cạnh đó, Người cũng khẳng định rằng sự thành công hay thất bại của chính sách phụ thuộc vào cách tổ chức công việc, sự lựa chọn cán bộ và quy trình kiểm tra Nếu ba yếu tố này không được chú trọng, thì ngay cả những chính sách đúng đắn cũng sẽ trở nên vô ích.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định rằng việc cải cách tổ chức, bộ máy và cán bộ là nhiệm vụ trọng tâm Văn kiện Đại hội VI nhấn mạnh rằng “Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất để thúc đẩy các cuộc cải cách mang tính cách mạng.”
Trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt, để đáp ứng yêu cầu mới của thời kỳ này Nghị quyết Trung ương khẳng định rằng cán bộ là yếu tố quyết định sự thành bại của cách mạng và là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng Đội ngũ cán bộ cơ sở có vai trò quan trọng trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước, đồng thời phải có năng lực tổ chức, vận động quần chúng, đảm bảo quyền lợi cho nhân dân Họ là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ Do đó, việc xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ cơ sở là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn cách mạng.
1.2.2 Quan điểm của Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ
Từ đầu những năm 1980, Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp quy được áp dụng thống nhất trên toàn quốc Sau gần 37 năm, chính sách đối với hệ thống chính trị cơ sở và đội ngũ cán bộ cơ sở đã trải qua nhiều điều chỉnh và bổ sung, được phân thành 04 giai đoạn cơ bản dựa trên các Nghị định của Chính phủ.
Giai đoạn thứ nhất: từ 1981 đến 1992
Vào ngày 13/10/1981, Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 111-HĐBT nhằm sửa đổi, bổ sung một số chính sách đối với cán bộ xã, phường trong bối cảnh đất nước sau chiến tranh và đang trong quá trình tái thiết Quyết định này phù hợp với cơ chế kinh tế tập trung kế hoạch hóa thời bấy giờ, khi mà các chức danh hành chính chỉ đảm nhiệm vai trò quản lý, trong khi Hợp tác xã chịu trách nhiệm điều hành các lĩnh vực kinh tế, xã hội Chính sách quy định chế độ phụ cấp sinh hoạt phí cho cán bộ một cách đồng đều và bảo đảm rằng cán bộ có đủ 15 năm công tác liên tục sẽ được hưởng chế độ bảo hiểm khi nghỉ việc, từ đó tạo điều kiện cho cán bộ yên tâm công tác và dễ dàng trong việc điều động, thuyên chuyển.
Từ cuối năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện đổi mới kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp và xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường Năm 1989, nông dân được giao quyền sử dụng đất, trong khi các hợp tác xã chuyển giao chức năng quản lý kinh tế, xã hội cho Ủy ban nhân dân Trước những yêu cầu thực tiễn mới, các quy định của Quyết định số 111-HĐBT đã trở nên bất cập, đòi hỏi cần có chính sách mới cho đội ngũ cán bộ cơ sở.
Giai đoạn thứ hai: từ 1993 đến 1997
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 46/NĐ-CP vào ngày 26 tháng 3 năm 1993, quy định chế độ sinh hoạt phí cho cán bộ Đảng và chính quyền, cũng như kinh phí hoạt động của các đoàn thể nhân dân tại xã, phường và thị trấn.
Nghị định này mang lại nhiều lợi ích, thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội, đặc biệt là việc áp dụng chế độ kiêm nhiệm và giao trách nhiệm cụ thể cho cán bộ, giúp tinh giảm bộ máy và giảm chi phí hoạt động của các đoàn thể Điều này đã làm tăng quỹ ngân sách hoạt động của cơ sở, tạo điều kiện cho các phong trào địa phương phát triển Tuy nhiên, khi cơ chế thị trường phát triển mạnh, khối lượng công việc gia tăng đã khiến cán bộ cơ sở không thể đáp ứng hết Hơn nữa, cán bộ nghỉ công tác chỉ được hưởng chế độ bảo hiểm một lần, không có chế độ hưu trí, dẫn đến tâm lý bất an về quyền lợi và tương lai Thực tế cho thấy nhiều cán bộ "sống gấp", tranh thủ trục lợi khi còn đương chức, gây ra tiêu cực Tình trạng cán bộ xa dân và công việc bị trì hoãn đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực trong bộ máy chính quyền, gây bức xúc trong nhân dân Để điều chỉnh tình hình, ngày 26/7/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 50-CP về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn, bổ sung cho Nghị định số 46-CP nhằm điều chỉnh mức phụ cấp sinh hoạt phí cho phù hợp với thu nhập chung.
Giai đoạn thứ ba: từ 1998 đến 2002
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 09/1998/NĐ-CP vào ngày 23/01/1998, nhằm sửa đổi và bổ sung Nghị định số 50-CP ngày 26/07/1995 liên quan đến chế độ sinh hoạt phí cho cán bộ tại xã, phường và thị trấn.
Ngày 19/05/1998, Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) và
Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành Nghị định số 09.
Nghị định số 09-CP đã điều chỉnh và tăng số lượng chức danh trong bộ máy từ 21 lên 25, đồng thời yêu cầu 04 chức danh chuyên môn phải được đào tạo cơ bản Nghị định cũng quy định rằng cán bộ có 15 năm công tác và 5 năm hưởng sinh hoạt phí sẽ được hưởng bảo hiểm sau khi nghỉ, và nếu chưa đủ tuổi theo quy định, họ có thể chờ để nhận Ngoài ra, ngân sách cho các đoàn thể cơ sở cũng được tăng cường Như vậy, Nghị định số 09-CP đã giải quyết cơ bản một số vấn đề bất hợp lý và mâu thuẫn của Nghị định số 46-CP.
Giai đoạn thứ tư: từ 2003 đến nay
Tháng 10 năm 2003, Chính phủ đã ban hành 02 Nghị định về chính sách đối với cán bộ cơ sở, đó là: Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về công tác cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và Nghị định số 121/2003/NĐ-
CP ngày 21/10/2003 về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.
Luật cán bộ công chức, được Quốc hội khóa XII thông qua vào ngày 13/11/2008, quy định rõ ràng về các vấn đề liên quan đến cán bộ và công chức Luật này đề cập đến quy trình bầu cử, tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức, cũng như xác định nghĩa vụ và quyền lợi của họ Đồng thời, luật cũng nêu rõ các điều kiện cần thiết để đảm bảo việc thi hành công vụ hiệu quả.
Luật tổ chức chính quyền địa phương, được Quốc hội khoá XIII thông qua ngày 19/6/2015, quy định nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền địa phương ở xã, bao gồm việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật, quyết định các vấn đề trong phạm vi phân quyền, thực hiện nhiệm vụ được ủy quyền từ cơ quan cấp trên, và chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp huyện Đồng thời, chính quyền xã cũng có trách nhiệm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động nguồn lực xã hội để phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn.
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, ban hành ngày 22/10/2009 bởi Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định về chức danh và số lượng cán bộ, công chức tại xã, phường, thị trấn, cùng với chế độ và chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Nghị định 112/2011/NĐ-CP, ban hành ngày 05/12/2011, quy định các tiêu chuẩn liên quan đến tuyển dụng, điều động, tiếp nhận công chức tại xã, phường, thị trấn Nghị định cũng hướng dẫn trình tự và thủ tục đánh giá, thôi việc, nghỉ hưu, cùng với quy định về xử lý kỷ luật và quản lý công chức trong các đơn vị hành chính này.
Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Ở HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG
2.1 Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hóa của huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang
2.1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên huyện Châu Thành A
Huyện Châu Thành A nằm gần thành phố Cần Thơ, cách trung tâm thành phố khoảng 30 km về phía Nam và cách tỉnh Hậu Giang khoảng 24 km về phía Bắc Huyện giáp với huyện Châu Thành và huyện Vị Thủy (tỉnh Hậu Giang) ở phía Đông và Tây, huyện Phụng Hiệp và huyện Vị Thủy ở phía Nam, và Quận Cái Răng, huyện Phong Điền (thành phố Cần Thơ) ở phía Bắc Với diện tích 160,63 km² và dân số 104.193 người, huyện có mật độ dân số đạt 648,65 người/km², bao gồm 10 đơn vị hành chính trực thuộc, trong đó có 6 xã và 4 thị trấn, với tổng cộng 80 ấp.
Huyện Châu Thành A, nằm trong vùng kinh tế phía Bắc của tỉnh, sở hữu Khu công nghiệp Tân Phú Thạnh và Cụm công nghiệp Nhơn Nghĩa A Giao thông tại huyện rất thuận lợi với hệ thống đường bộ dài 378 km và đường thủy dài 180 km, bao gồm các sông như Xáng Xà No, Ba Láng cùng nhiều kênh đào Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển giữa huyện và các khu vực lân cận, đồng thời giúp cây trồng phát triển tốt nhờ khả năng tiêu rút nước hiệu quả và ít bị ảnh hưởng bởi mưa lũ.