NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN HUYỆN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ THUỘC TỈNH
1.1 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1 Khái niệm Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương, được quy định tại Điều 113 Hiến pháp 2013 Theo đó, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương cũng như cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do Nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí và quyền làm chủ của họ Nó đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối Nhân dân với các cơ quan nhà nước, quyết định các vấn đề liên quan đến đời sống của Nhân dân trong khuôn khổ pháp luật Hội đồng nhân dân cũng là trung tâm tổ chức thực hiện các quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên, điều hòa hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước tại địa phương, và là cơ sở để thành lập các cơ quan nhà nước địa phương Qua đó, Nhân dân có thể tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội tại địa phương, thể hiện quyền tự tổ chức của mình.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN HUYỆN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ THUỘC TỈNH
Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1 Khái niệm Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương, theo Điều 113 Hiến pháp 2013 Cơ quan này được xác định là đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do chính Nhân dân địa phương bầu ra Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và các cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, được bầu ra bởi Nhân dân địa phương, đại diện cho ý chí và quyền làm chủ của họ Vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân được xác định qua những đặc điểm như: là mắt xích cơ bản kết nối Nhân dân địa phương với các cơ quan nhà nước; là cơ quan do Nhân dân địa phương bầu ra để quyết định các vấn đề liên quan đến đời sống của họ; là trung tâm thực hiện quyết định của các cơ quan nhà nước cấp trên; là nơi điều hòa hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước ở địa phương; là cơ sở thành lập các cơ quan nhà nước địa phương; và là kênh để Nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội Các quyết định của Hội đồng nhân dân có hiệu lực pháp lý trong phạm vi địa phương.
Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho Nhân dân địa phương, được bầu ra bởi cử tri và thể hiện tiếng nói của Nhân dân Đồng thời, Hội đồng cũng mang tính quyền lực nhà nước, được Nhân dân ủy quyền để thực hiện quyền lực tại địa phương Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề quan trọng, biến ý chí và nguyện vọng của Nhân dân thành các chủ trương và biện pháp có tính bắt buộc thi hành.
Hội đồng nhân dân có vai trò quan trọng trong việc quyết định và giám sát, theo quy định tại khoản 2, điều 113 của Hiến pháp năm 2013.
Hội đồng nhân dân có trách nhiệm quyết định các vấn đề địa phương theo quy định của pháp luật, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, cũng như thực hiện nghị quyết của Hội đồng Cụ thể, Hội đồng nhân dân đưa ra các chủ trương và biện pháp quan trọng nhằm phát huy tiềm năng địa phương, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh, đồng thời cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân Ngoài ra, Hội đồng nhân dân cũng thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND, đảm bảo việc thực hiện các nghị quyết và tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế - xã hội, đơn vị vũ trang và công dân tại địa phương.
Hội đồng nhân dân là cơ quan trong bộ máy nhà nước, đồng thời là đại diện quyền lực của Nhân dân địa phương Cơ quan này có trách nhiệm quyết định các vấn đề quan trọng tại địa phương và giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế - xã hội, cũng như công dân Qua đó, Hội đồng nhân dân góp phần phát huy tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
1.1.2 Khái niệm giám sát, giám sát của Hội đồng nhân dân, giám sát chuyên đề
Giám sát: Theo quy định tại khoản 1, điều 2 Luật hoạt động giám sát của
Giám sát là quá trình mà các chủ thể giám sát theo dõi và đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân để đảm bảo tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Họ có trách nhiệm xem xét việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của các đối tượng này, đồng thời xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền can thiệp khi cần thiết.
Giám sát thể hiện tính chủ động trong các hoạt động có mục đích rõ ràng và được thực hiện thường xuyên theo kế hoạch Hoạt động giám sát phải dựa trên các căn cứ pháp luật, đồng thời phản ánh mối quan hệ quyền lực giữa chủ thể giám sát và đối tượng bị giám sát Điều này rất quan trọng, vì nếu không có quy định rõ ràng, chủ thể giám sát sẽ thiếu cơ sở để thực hiện quyền giám sát và đưa ra nhận định về hoạt động của đối tượng.
Giám sát luôn gắn liền với một chủ thể cụ thể và bao gồm hai giai đoạn quan trọng: theo dõi, xem xét, kiểm tra và đánh giá, đưa ra kết luận Giai đoạn theo dõi là nền tảng cho giai đoạn đánh giá Nếu giai đoạn theo dõi được thực hiện hiệu quả, thì kết quả đánh giá sẽ chính xác và cuộc giám sát sẽ đạt được hiệu quả cao.
Giám sát của Hội đồng nhân dân: Tại khoản 6, điều 2, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định: ”Giám sát của
Hội đồng nhân dân thực hiện giám sát qua nhiều cấp độ, bao gồm giám sát tại kỳ họp, giám sát của Thường trực Hội đồng, các Ban của Hội đồng, Tổ đại biểu và các đại biểu Hội đồng nhân dân.
Giám sát của HĐND bao gồm các hoạt động tổng thể của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban, Tổ đại biểu và đại biểu HĐND Mục đích là để xem xét, theo dõi, kiểm tra và đánh giá việc chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, cùng các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân liên quan đến các lĩnh vực địa phương và đối tượng chịu sự giám sát.
Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, Hội đồng nhân dân (HĐND) cùng với Thường trực HĐND, các Ban HĐND và đại biểu HĐND là những chủ thể giám sát chính Đối tượng chịu sự giám sát bao gồm Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân địa phương Điều này cho thấy phạm vi giám sát của HĐND rất rộng lớn, phản ánh vị trí của HĐND trong bộ máy nhà nước, đồng thời đảm bảo việc tuân thủ nghiêm ngặt Hiến pháp, Luật và các Nghị quyết của HĐND trên địa bàn địa phương.
Giám sát chuyên đề, theo Khoản 4, Điều 2 của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, là quá trình theo dõi, xem xét và đánh giá các vấn đề hoặc hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm đảm bảo tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Hình thức giám sát này không chỉ bao hàm các phương thức giám sát khác mà còn tập trung vào những nội dung quan trọng có tác động mạnh đến đời sống người dân và sự phát triển kinh tế.
Giám sát xã hội có đối tượng và địa bàn rộng, cùng với thời gian triển khai dài, cho phép nghiên cứu kỹ lưỡng các vấn đề liên quan Kết quả giám sát sẽ được báo cáo cho đại biểu HĐND, và những kiến nghị sau giám sát có tính pháp lý cao, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và phát triển cộng đồng.
Nghị quyết của HĐND về chương trình giám sát hàng năm có phạm vi rộng nhưng chưa xác định rõ đối tượng và thời gian cụ thể Để thực hiện giám sát chuyên đề hiệu quả, Đoàn giám sát cần nghiên cứu các chính sách liên quan và xây dựng kế hoạch giám sát, xác định rõ mục đích, yêu cầu, đối tượng và thời gian giám sát Đồng thời, cần xây dựng đề cương yêu cầu báo cáo cho từng nhóm đối tượng liên quan, như đối tượng quản lý nhà nước và các bên thực hiện Đề cương chi tiết sẽ hỗ trợ việc phân tích và tổng hợp nội dung giám sát một cách hệ thống, rõ ràng và đạt yêu cầu.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân Huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
xã, thành phố thuộc tỉnh
Hội đồng nhân dân Huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện).
Hội đồng nhân dân, với vai trò là cơ quan đại diện cho dân, có nhiệm vụ thực hiện quyền hạn theo Hiến pháp và pháp luật, đồng thời tuân thủ các nguyên tắc trong tổ chức bộ máy nhà nước Cơ quan này cần phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực như quan liêu, tham nhũng và lãng phí Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Hội đồng nhân dân cấp huyện được giao nhiều nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng nhằm phục vụ lợi ích của cộng đồng.
Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng trong việc tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật, đồng thời đóng vai trò thiết yếu trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và xây dựng chính quyền Việc thực hiện các quyền hạn này giúp Hội đồng nhân dân thực hiện chức năng giám sát và quản lý, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia.
Hội đồng nhân dân huyện đã ban hành nghị quyết nhằm giải quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn của mình, bao gồm việc quyết định các biện pháp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, và phòng chống tội phạm Đồng thời, nghị quyết cũng đề ra các biện pháp ngăn chặn tham nhũng và quan liêu, bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, cũng như bảo hộ quyền lợi hợp pháp của công dân Ngoài ra, Hội đồng cũng quyết định các biện pháp thực hiện nhiệm vụ được phân cấp từ cơ quan nhà nước cấp trên và phân cấp quyền hạn cho chính quyền địa phương và các cơ quan nhà nước cấp dưới trong việc thực hiện nhiệm vụ tại huyện.
Hội đồng nhân dân huyện có nhiệm vụ bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh như Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban, Phó Trưởng ban, cũng như Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên Ủy ban nhân dân huyện Đồng thời, Hội đồng cũng thực hiện việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện và tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo Ngoài ra, Hội đồng có quyền bãi bỏ văn bản trái pháp luật của Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, cũng như văn bản trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp xã Hội đồng cũng quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện và có thể giải tán Hội đồng nhân dân cấp xã nếu gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân, sau khi được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn Cuối cùng, Hội đồng có quyền bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân huyện và chấp nhận đơn xin thôi nhiệm vụ của đại biểu.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân trong lĩnh vực kinh tế, tài nguyên, môi trường:
Huyện thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung hạn và hằng năm, bao gồm quy hoạch sử dụng đất và dự toán ngân sách nhà nước trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt Huyện quyết định chủ trương đầu tư các chương trình, dự án và quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực theo phân quyền Đồng thời, huyện áp dụng biện pháp quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, và phát triển hệ thống giáo dục từ mầm non đến trung học cơ sở Huyện cũng chú trọng đến công tác bảo vệ sức khỏe nhân dân, phòng chống dịch bệnh, thực hiện chính sách dân số, phát triển việc làm, và hỗ trợ các chính sách xã hội nhằm xóa đói, giảm nghèo, cũng như bảo đảm quyền lợi cho các nhóm dân tộc và tôn giáo theo quy định pháp luật.
Giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật tại địa phương, thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện; theo dõi hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân cấp huyện; giám sát các văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân và văn bản của Hội đồng nhân dân cấp xã.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân Huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
1.3.1 Nguyên tắc hoạt động giám sát
Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật là điều cần thiết, đồng thời đảm bảo tính khách quan, công khai, minh bạch và hiệu quả trong quá trình giám sát Việc giám sát không được làm cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, và cá nhân Ngoài ra, cần tuân thủ một số nguyên tắc quan trọng để nâng cao hiệu quả giám sát.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước được quy định trong Hiến pháp năm 2013, nhấn mạnh vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam như là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Đảng không chỉ đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và dân tộc, mà còn lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân và chịu sự giám sát, trách nhiệm trước Nhân dân về các quyết định của mình Các tổ chức và đảng viên của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh việc thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ, đặc biệt là nội dung "Nhân dân làm chủ" và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát" Điều này được coi là phương thức hiệu quả để đưa nghị quyết vào thực tiễn Hội đồng nhân dân cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc này.
Nhân dân có quyền làm chủ trong hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội, như khẳng định tại Đại hội XII của Đảng Để thực hiện quyền này, cần tạo nhiều “kênh” cho Nhân dân tham gia ý kiến, đồng thời phát huy quyền làm chủ về chính trị đối với các vấn đề quan trọng của địa phương và đất nước Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” cần được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo mọi hoạt động của xã hội, Đảng và Nhà nước tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Tuyên truyền và giáo dục người dân thực hiện "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật" là cần thiết, vì mọi cá nhân đều phải tuân thủ các quy định này Nhà nước cần được lãnh đạo bởi Đảng, và sự lãnh đạo này phải được thể chế hóa bằng luật pháp Cần có quy định rõ ràng để bảo đảm quyền lực thuộc về Nhân dân, cho phép họ kiểm soát Nhà nước và có quyền bãi miễn các đại biểu mà họ đã bầu ra nếu những đại biểu này không hoàn thành nhiệm vụ Đây là biểu hiện rõ nhất của nguyên tắc "Nhà nước của dân, do dân, vì dân".
“Nhân dân làm chủ” xã hội.
Theo Điều 6 Hiến pháp 2013, quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, được thực hiện thông qua dân chủ trực tiếp và đại diện qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước khác Điều 7 quy định rằng việc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân phải tuân thủ nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Hội đồng nhân dân có thể bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân Điều này thể hiện hai hình thức mà Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Điều 4 và Điều 9 Hiến pháp năm 2013 khẳng định sự gắn bó giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhân dân, nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng trong việc phục vụ và chịu sự giám sát của Nhân dân Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được xác định là cơ sở chính trị của chính quyền Nhân dân, có nhiệm vụ đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Nhân dân, đồng thời thúc đẩy sự đoàn kết toàn dân, thực hiện dân chủ và giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước và bảo vệ Tổ quốc.
Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân, khẳng định Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định rằng Nhà nước phải bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, đồng thời công nhận và bảo vệ quyền con người, quyền công dân Mục tiêu hướng tới là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, với cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và điều kiện phát triển toàn diện Ngoài ra, khoản 2 điều 8 cũng yêu cầu các cơ quan Nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng quyền lợi của Nhân dân.
Nhân dân là trung tâm phục vụ, cần thiết phải lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát từ họ Đồng thời, cần kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí cũng như các biểu hiện quan liêu, hách dịch và cửa quyền.
Nhân dân đóng vai trò chủ thể quan trọng trong quyền lực Nhà nước, thực hiện dân chủ đại diện qua việc bầu cử đại diện tham gia vào các cơ quan quyền lực Hội đồng Nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực địa phương, thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân.
Hình thức dân chủ đại diện chỉ phát huy hiệu quả khi có sự hiệp thương và giới thiệu ứng cử viên một cách dân chủ và công khai Việc lựa chọn đại biểu Hội đồng nhân dân cần chú trọng đến phẩm chất, đạo đức, trình độ và năng lực của ứng cử viên, đảm bảo họ có khả năng đại diện cho Nhân dân và tham vấn ý kiến trong quá trình xây dựng và thực hiện Nghị quyết HĐND Đồng thời, cần xem xét năng lực đóng góp vào hoạt động tập thể của Hội đồng Nhân dân, tránh nặng về cơ cấu mà xem nhẹ năng lực thực tế của ứng cử viên.
Dân chủ trực tiếp là hình thức thể hiện ý chí của Nhân dân trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước Ngày 25 tháng 11 năm, Nhà nước ta đã ban hành Luật Trưng cầu ý dân, khẳng định vai trò của người dân trong các quyết định chính trị.
Luật này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016, nhằm đảm bảo việc thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp một cách đầy đủ hơn, sau khi Hiến pháp năm 2015 được ban hành.
Luật Tiếp công dân, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2014, được ban hành vào ngày 25 tháng 11 năm 2013, xác lập hình thức dân chủ trực tiếp nhằm đảm bảo vị trí pháp lý của Nhân dân trong quyền lực Nhà nước.