1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu lựa chọn một số bài tập nhằm phát triển thể lực cho học sinh khối 7 trường THCS văn phương – nho quan – ninh bình

91 110 2

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Lựa Chọn Bài Tập Nhằm Phát Triển Thể Lực Cho Học Sinh Khối 7 Trường Trung Học Cơ Sở Văn Phương - Nho Quan - Ninh Bình
Tác giả Phạm Ngọc Tỉnh
Người hướng dẫn PGS. TS. Lê Đức Chương
Trường học Trường Đại Học Sư Phạm Thể Dục Thể Thao Hà Nội
Chuyên ngành Giáo dục học
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ Giáo Dục Học
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 91
Dung lượng 1,21 MB

Cấu trúc

  • 1. Đặt vấn đề (11)
  • 2. Mục đích nghiên cứu (14)
  • 3. Mục tiêu nghiên cứu (14)
  • 4. Giả thiết khoa học (15)
  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (16)
    • 1.1. Các quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác giáo dục thể chất cho học (16)
    • 1.2. Công tác Giáo dục thể chất trong trường học (21)
    • 1.3. Đặc điểm của môn học GDTC theo chương trình phổ thông mới (25)
      • 1.3.1. Đặc điểm của môn học GDTC theo chương trình phổ thông mới (25)
      • 1.3.2. Mục tiêu của môn học GDTC theo chương trình phổ thông mới (26)
      • 1.3.3. Giáo dục thể chất với vai trò nâng cao tầm vóc và thể lực (27)
    • 1.4. Cơ sở lý luận về cấu trúc giờ học giáo dục thể chất (29)
      • 1.4.1. Mối quan hệ giữa hình thức và nội dung buổi tập (29)
      • 1.4.2. Cơ sở khoa học tự nhiên của cấu trúc buổi tập (30)
      • 1.4.3. Quan điểm sư phạm của cấu trúc buổi tập (31)
    • 1.5. Đặc điểm hình thức buổi tập chính khoá (31)
      • 1.5.1. Đặc điểm buổi tập chính khoá (31)
      • 1.5.2. Cấu trúc buổi tập TDTT (giờ học TDTT chính khoá) (0)
      • 1.5.3. Công việc chuẩn bị cho giờ học của giáo viên (34)
    • 1.6. Đặc điểm thể lực chung và chuyên môn (35)
      • 1.6.1. Thể lực chung (35)
      • 1.6.2. Thể lực chuyên môn (38)
    • 1.7. Đặc điểm tâm sinh lý đối tượng nghiên cứu (39)
    • 1.8. Những công trình nghiên cứu có liên quan (45)
    • 2.1. Phương pháp nghiên cứu (47)
      • 2.1.1. Phương pháp đọc, phân tích và tổng hợp tài liệu (47)
      • 2.1.2. Phương pháp phỏng vấn (47)
      • 2.1.3. Phương pháp quan sát sư phạm (48)
      • 2.1.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm (48)
      • 2.1.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm (51)
      • 2.1.6. Phương pháp toán học thống kê (51)
    • 2.2. Tổ chức nghiên cứu (53)
      • 2.2.1 Thời gian nghiên cứu (53)
      • 2.2.2. Đối tượng nghiên cứu (53)
      • 2.2.3. Địa điểm nghiên cứu (53)
  • CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN (54)
    • 3.1. Đánh giá thực trạng công tác giáo dục thể chất và trình độ thể lực của học (54)
      • 3.1.1. Thực trạng cơ sở vật chất của trường THCS Văn Phương – Nho Quan – Ninh Bình (54)
      • 3.1.2 Thực trạng đội ngũ giáo viên GDTC của trường THCS Văn Phương – (55)
      • 3.1.3. Thực trạng công tác giáo dục thể chất của trường Văn Phương – Nho (55)
      • 3.1.4. Thực trạng thể lực của học sinh trường THCS Văn Phương – Nho (60)
      • 3.1.5. Nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả công tác GDTC của trường (63)
    • 3.2. Nghiên cứu lựa chọn và đánh giá hiệu quả các bài tập phát triển thể lực cho học sinh khối 7 trường THCS Văn Phương - Nho Quan - Ninh Bình (65)
      • 3.2.1.2. Lựa chọn bài tập phát triển thể lực cho học sinh khối 7 Trường (67)
      • 3.2.2. Đánh giá hiệu quả các bài tập đã lựa chọn nhằm phát triển thể lực cho học sinh khối 7 Trường THCS Văn Phương - Nho Quan - Ninh Bình (69)
    • 1. Kết luận (80)
    • 2. Kiến nghị (80)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (81)

Nội dung

1. Đặt vấn đề Thể dục thể thao (TDTT) là một hoạt động không thể thiếu trong nền văn hoá của mỗi dân tộc, cũng như nền văn minh nhân loại. Tập luyện TDTT giúp con người nâng cao sức khoẻ, phát triển con người cân đối, toàn diện về mọi mặt, mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), sức khỏe con người là vốn quí. Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng vị trí của công tác Thể dục thể thao (TDTT) nhằm bồi dưỡng, nâng cao sức khỏe đối với thế hệ trẻ và xem đó là động lực quan trọng, cần phải có chính sách chăm sóc giáo dục đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam, phát triển hài hòa về mặt thể chất, tinh thần, trí tuệ và đạo đức. Sức khỏe được xem như một bộ phận cấu thành của nền văn hóa, đó là một mặt quan trọng của chất lượng cuộc sống, là nguồn tài sản quí báu của mỗi quốc gia, là sản phẩm phản ánh một cách khách quan thành tựu của nhiều lĩnh vực khoa học trong đó có sự đóng góp quan trọng của ngành TDTT nói chung và ngành khoa học TDTT nói riêng. Ở nước ta, cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác Giáo dục thể chất (GDTC) và hoạt động TDTT trong trường học các cấp, là một mặt giáo dục quan trọng trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, để góp phần thực hiện mục tiêu: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất nước để đáp ứng nhu cầu đổi mới sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng vận mệnh của đất nước gắn liền với sức khoẻ của từng người dân, vì: “Mỗi người dân yếu ớt, tức là làm cả nước yếu ớt một phần, mỗi người dân khoẻ mạnh là làm cho cả nước khoẻ mạnh”. Chỉ thị 36 CTTW ngày 2431994 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về TDTT trong giai đoạn mới đã xác định: “Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người”, “Thực hiện GDTC trong tất cả trường học làm cho việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên”, “Công tác TDTT cần coi trọng nâng cao chất lượng GDTC trong các trường học, tổ chức hướng dẫn và vận động đông đảo nhân dân tham gia rèn luyện thân thể hàng ngày”. 4 Giáo dục thể chất trong trường học là thực hiện mục tiêu phát triển thể chất cho học sinh, sinh viên, nhằm góp phần vào việc đào tạo con người phát triển toàn diện, nâng cao thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần. Thế hệ học sinh, sinh viên, là những người chủ tương lai của đất nước, sứ mệnh lịch sử của dân tộc đều trông mong vào thế hệ này. Giáo dục thể chất cho học sinh phổ thông là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Việc học và tập luyện TDTT đòi hỏi học sinh phải có tinh thần trách nhiệm, có kỷ luật cao và sự ham thích. Tập luyện TDTT tác động trực tiếp đến các hệ cơ quan trong cơ thể con người, nhằm phát triển cân đối hình thái và chức năng cơ thể, phát triển năng lực thể chất, tăng cường sức khỏe và khả năng chống đỡ những tác động có hại của môi trường. Qua đó những đặc điểm tâm sinh lý của các em học sinh dần có sự thích ứng và phát triển. Để nâng cao chất lượng GDTC trong nhà trường phổ thông chính là mong muốn sự phát triển toàn diện năng lực thể chất của con người. Các năng lực này có thể phát triển được thông qua quá trình tập luyện có mục đích, trong đó có năng lực phối hợp vận động cần được xếp lên hang đầu trong các tố chất thể lực. Tuy nhiên lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi đang phát triển, vì vậy việc lựa chọn các các bài tập thể chất như thế nào trong giờ học để nâng cao thể lực, thu hút được sự tham gia của các em học sinh là vấn đề cần đặt ra. Nếu như chúng ta chỉ sử dụng các bài tập thể chất không phong phú, đa dạng chỉ gây cho các em sự căng thẳng, nhàm chán trong giờ học môn GDTC. Hiện nay, các trường THCS trên địa bàn Tỉnh Ninh Bình nói chung và huyện Nho Quan nói riêng, công tác GDTC đã từng bước được các cấp lãnh đạo hết sức quan tâm, thể hiện qua việc thường xuyên đổi mới nâng cao chất lượng dạy và học, trình độ đội ngũ giáo viên, đầu tư mua sắm trang thiết bị dụng cụ, cơ sở vật chất sân bãi, nhà tập…Tuy nhiêm vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: Các giáo viên chỉ chú trọng tập chung giảng dạy môn học GDTC vào các giờ chính khóa theo nội dung, chương trình khung quy định, với lượng thời gian 02 tiết tuần (mỗi tiết học 45 phút), thời gian hoạt động ngoại khóa còn rất ít. Trong các tiết học thời lượng giáo viên đưa các bài tập thể chất vào trong giờ dạy GDTC nhằm phát triển thể lực cho các em học sinh không được nhiều, chưa phong phú, đa dạng, kết quả đánh giá xếp loại trình độ thể lực cuối năm học còn nhiều HS chưa đạt yêu cầu. Một trong những yêu cầu phải luôn đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học GDTC là phát huy tính tự giác tập luyện, nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực, rèn luyện kỹ thuật cho học sinh. Muốn vậy giáo viên cần sử dụng nhiều những bài tập phong phúm, đa dạng, hấp dẫn để giờ học được sinh động, không nhàm chán. Vì vậy muốn nâng cao hiệu quả giảng dạy GDTC, muốn thể lực học sinh ngày càng phát triển, thì cần phai đa dạng hóa các loại hình bài tập thể lực, để các em học sinh hứng thú, tự giác tích cực tập luyện hơn. Tuy nhiên việc lựa chọn các bài tập thể lực mang lại hiệu quả, đòi hỏi quá trình lựa chọn phát rất khoa học và chính xác. Trường THCS Văn Phương nằm trên địa bàn huyện Nho Quan, Tỉnh Ninh Bình, là một địa phương thuộc khu vực 2 nông thôn, cơ sở vật chất trong những năm qua mặc dù được quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học nhưng vẫn còn hạn chế. Chương trình môn học GDTC và các hệ thống các bài tập thể lực cho học sinh chưa phong phú, đa dạng, đội ngũ giáo viên giảng dạy có biểu hiện sự trì trệ trong đổi phương pháp dạy học, do đó phương pháp và hình thức tổ chức dạy học TD chưa được đổi mới nhiều để phát huy tính tự giác, tích cực tập luyện, nâng cao sức khỏe và rèn luyện thể lực cho học sinh. Qua nghiên cứu tài liêu tham khảo cho thấy có một số công trình nghiên cứu hệ thống các bài tập nhằm phát triển thể lực cho học sinh, song công trình nghiên cứu áp dung cho học sinh THCS còn ít, đặc biệt là chưa có đề tài nghiên cứu nào về lựa chọn các bài tập nhằm phát triển thể lực chung cho học sinh của trường Văn Phương – Nho Quan – Ninh Bình. Là một giáo viên dạy môn GDTC của nhà trường, tôi muốn đóng góp một phần vào công tác GDTC nhằm nâng cao nền tảng thể lực cho các em học sinh để các em có thể học tập tốt nhất. Xuất phát từ những lý do trên và tầm quan trọng của vấn đề, tôi mạnh dạn lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu lựa chọn một số bài tập nhằm phát triển thể lực cho học sinh khối 7 trường THCS Văn Phương – Nho Quan – Ninh Bình”

Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu này dựa trên việc phân tích và tổng hợp tài liệu liên quan để lựa chọn bài tập phát triển thể lực cho học sinh lớp 7 tại trường THCS Văn Phương, Nho Quan, Ninh Bình Mục tiêu là đánh giá thực trạng thể lực của học sinh và chương trình giáo dục thể chất hiện tại, đồng thời xác định các nguyên nhân chính ảnh hưởng đến thể lực Từ đó, nghiên cứu đề xuất các bài tập đồng bộ nhằm nâng cao thể lực cho học sinh lớp 7, góp phần cải thiện hiệu quả giáo dục thể chất trong nhà trường.

Mục tiêu nghiên cứu

Để đạt mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài xác định giải quyết các mục tiêu nghiên cứu sau:

Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng công tác GDTC và trình độ thể lực của học sinh trường THCS Văn Phương – Nho Quan – Ninh Bình

- Thực trạng cơ sở vật chất của trường THCS Văn Phương – Nho Quan – Ninh Bình

- Thực trạng đội ngũ giáo viên GDTC của trường THCS Văn Phương – Nho Quan – Ninh Bình

-Thực trạng công tác GDTC trường Văn Phương – Nho Quan – Ninh Bình

- Thực trạng thể lực của học sinh trường THCS Văn Phương – Nho Quan – Ninh Bình

- Nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả công tác GDTC của trường THCS Văn Phương – Nho Quan – Ninh Bình

Mục tiêu 2: Nghiên cứu lựa chọn và ứng dụng các bài tập nhằm phát triển thể lực cho học sinh khối 7 trường THCS Văn Phương – Nho Quan – Ninh Bình

- Lựa chọn bài tập phát triển thể lực cho học sinh khối 7 Trường THCS Văn Phương - Nho Quan - Ninh Bình

-Lựa chọn bài tập phát triển thể lực cho học sinh khối 7 Trường THCS Văn Phương - Nho Quan - Ninh Bình

- Đánh giá hiệu quả các bài tập phát triển thể lực cho học sinh khối 7 Trường THCS Văn Phương - Nho Quan - Ninh Bình.

Giả thiết khoa học

Đánh giá thực trạng công tác giáo dục thể chất (GDTC) và trình độ thể lực của học sinh trường THCS Văn Phương – Nho Quan – Ninh Bình cho thấy còn nhiều hạn chế Việc nghiên cứu và lựa chọn các bài tập phát triển thể lực một cách khoa học và hợp lý cho học sinh khối 7 sẽ nâng cao hiệu quả GDTC, từ đó cải thiện thể lực của học sinh trong những năm học tiếp theo.

TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Các quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác giáo dục thể chất cho học

Nền thể dục thể thao (TDTT) Việt Nam bao gồm hai phần chính: TDTT cho mọi người và thể thao thành tích cao TDTT cho mọi người được chia thành TDTT tự nguyện, không phân biệt lứa tuổi, giới tính hay nghề nghiệp, và giáo dục thể chất (GDTC) bắt buộc dành cho học sinh, sinh viên TDTT trường học không chỉ là một môn học mà còn là một phần của giáo dục toàn diện, bao gồm GDTC bắt buộc với thời lượng 02 tiết mỗi tuần cho học sinh các cấp và 150 tiết cho sinh viên đại học, cao đẳng Ngoài ra, TDTT trường học còn có các hoạt động TDTT ngoại khoá tự nguyện diễn ra ngoài giờ học GDTC bắt buộc thường được gọi là giờ thể dục chính khoá hoặc giờ thể dục nội khoá.

Nhiệm vụ và mục tiêu của thể dục thể thao (TDTT) trường học là nâng cao sức khỏe và đảm bảo sự phát triển bình thường của học sinh Điều này bao gồm việc phát triển các tố chất thể lực, kỹ năng vận động cơ bản và hình thành thói quen rèn luyện thể lực Bên cạnh đó, TDTT cũng góp phần giữ gìn vệ sinh và rèn luyện đạo đức ý chí cho người học Sự phát triển của TDTT trong trường học đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chương II của Luật Thể dục, thể thao được Quốc hội khóa 11 thông qua năm 2006, cùng với Điều 7 Nghị định 122/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này, đã thể chế hoá quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về thể dục thể thao, đặc biệt là trong lĩnh vực thể dục thể thao trường học Dưới đây là một số văn kiện của Đảng liên quan đến thể dục thể thao trong trường học.

Tháng 10/1941 trong chương trình cứu nước của mặt trận Việt Minh đã nêu “Khuyến khích, giúp đỡ nền thể dục quốc dân, làm cho nòi giống ngày càng

7 thêm mạnh Trẻ em được Chính phủ đặc biệt săn sóc về Thể dục, Trí dục và Đức dục”

Vào ngày 27 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 38, thành lập Nha thanh niên và thể dục thuộc Bộ quốc gia Giáo dục, bao gồm Phòng thanh niên trung ương và Phòng thể dục trung ương Đồng thời, Bác Hồ cũng đã viết một bài về tầm quan trọng của thanh niên và thể dục trong sự phát triển của đất nước.

“Sức khoẻ và thể dục” đăng trên báo “Việt Nam Khoẻ” cơ quan vận động phổ thông của Nha thể dục trung ương Việt Nam số 1 ngày 30/3/1946

Tháng 1 năm 1955 trong lễ khai giảng trường Đại học nhân dân Việt Nam, Bác Hồ đã căn dặn: “… Thanh niên phải chuyên tâm đi học và công tác nhưng cũng cần có vui chơi Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh niên Trong vui chơi cũng có giáo dục Cần có những thứ vui chơi văn hoá, thể thao có tinh thần tập thể và quần chúng Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên cần phải chú ý đến giáo dục tư tưởng, thái độ, hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của thanh niên để kịp thời khuyến khích, uốn nắn, sửa chữa…”

Các sự kiện và văn bản đã chỉ ra rằng từ trước Cách mạng Tháng 8 và năm 1946, khi mới giành được chính quyền và phải đối mặt với ba vấn đề lớn: Đói, Dốt và Ngoại xâm, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã xác định quan điểm chỉ đạo về công tác thể dục thể thao (TDTT) cho thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh Họ coi đây là đối tượng trung tâm trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, bao gồm cả giáo dục và đào tạo Cơ quan quản lý nhà nước đầu tiên và cao nhất về TDTT cũng đã được thiết lập để thúc đẩy công tác này.

TDTT đã được chuyển giao về Bộ Quốc gia Giáo dục, trước đây thuộc Bộ Thanh niên, điều này thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược của Đảng đối với giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong trường học.

Từ khi có các kỳ đại hội Đảng toàn quốc, Trung ương Đảng đã liên tục ban hành Nghị quyết, Chỉ thị và Thông tri liên quan đến thể dục thể thao, đặc biệt là thể dục thể thao trong trường học Trong Chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/3/1994, Ban Bí thư trung ương Đảng đã đặt ra mục tiêu cho công tác TDTT trường học đến năm 2000.

Để thực hiện giáo dục thể chất (GDTC) trong tất cả các trường học và biến việc tập luyện thể dục thể thao (TDTT) thành thói quen hàng ngày của học sinh, sinh viên, cần có sự phối hợp giữa Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Ban cán sự Đảng Tổng cục TDTT Hai bên cần chỉ đạo tổng kết công tác GDTC, cải tiến chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thể lực, và đào tạo giáo viên TDTT cho các cấp học Đồng thời, cần tạo điều kiện về cơ sở vật chất cần thiết để thực hiện chế độ GDTC bắt buộc tại tất cả các trường học.

Trong Chỉ thị 17 CT/TƯ ngày 23/10/2002 về phát triển TDTT đến năm

Năm 2010, Ban Bí thư TƯ Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao (TDTT) nhằm nâng cao thể trạng và tầm vóc người Việt Nam Để phát triển phong trào TDTT quần chúng, cần thiết lập mạng lưới cơ sở rộng khắp và đào tạo vận động viên thành tích cao Hoạt động TDTT trong trường học cũng được ưu tiên, với mục tiêu mỗi trường có giáo viên giáo dục thể chất chuyên trách và lớp học thể dục đạt tiêu chuẩn, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục thể chất Đầu tư từ Nhà nước cho TDTT tại trường học, khu vực nông thôn và miền núi cần được tăng cường, coi đây là một tiêu chí quan trọng để công nhận trường chuẩn quốc gia.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X năm 2006 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển thể dục thể thao quần chúng và thể thao nghiệp dư, đặc biệt trong thanh thiếu niên Để đạt được mục tiêu này, cần chú trọng vào giáo dục thể chất trong trường học và khuyến khích toàn xã hội tham gia vào các hoạt động thể thao, từ đó phát triển sự nghiệp thể dục thể thao một cách bền vững.

Dựa trên các chỉ đạo của Đảng về giáo dục thể chất (GDTC) và thể dục thể thao (TDTT) trong trường học, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản nhằm hướng dẫn và triển khai công tác GDTC và TDTT ở các cấp học.

Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, tại điều

Nhà nước và xã hội cần phát triển nền thể dục thể thao (TDTT) dân tộc, khoa học và nhân dân, với sự quản lý thống nhất từ phía nhà nước Quy định chế độ giáo dục thể chất (GDTC) bắt buộc trong trường học là cần thiết Đồng thời, cần khuyến khích và hỗ trợ phát triển các hình thức tổ chức TDTT tự nguyện của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng các hoạt động TDTT quần chúng, chú trọng vào sự tham gia của cộng đồng.

Luật Thể dục, thể thao và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến TDTT nhấn mạnh vai trò quan trọng của thể thao trong giáo dục Cụ thể, Điều 20 của Luật Thể dục, thể thao năm 2006 quy định rằng giáo dục thể chất (GDTC) là môn học chính khóa, cung cấp kiến thức và kỹ năng vận động, góp phần vào mục tiêu giáo dục toàn diện Hoạt động thể thao trong trường học được tổ chức dưới hình thức ngoại khóa, nhằm đáp ứng sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe của học sinh, tạo điều kiện cho họ thực hiện quyền vui chơi, giải trí và phát triển năng khiếu thể thao.

Luật Thể dục, thể thao quy định rõ trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc phối hợp với Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục thể thao để thực hiện năm nhiệm vụ chính: xây dựng chương trình giáo dục thể chất, đào tạo bồi dưỡng giáo viên thể dục thể thao, hướng dẫn hoạt động ngoại khoá tại các trường học, quy định tiêu chuẩn đánh giá thể lực học sinh và tổ chức thi đấu thể thao cấp quốc gia cho học sinh, sinh viên Đồng thời, các Bộ, Ngành cần xây dựng cơ sở vật chất và bố trí giáo viên thể dục cho các trường thuộc quản lý của mình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quy hoạch đất đai, xây dựng cơ sở vật chất và đảm bảo chỉ tiêu giáo viên thể dục cho các trường công lập Mỗi nhà trường phải thực hiện chương trình thể dục nội khoá, hướng dẫn hoạt động ngoại khoá, quản lý cơ sở vật chất hiệu quả và đảm bảo an toàn cho học sinh trong tập luyện và thi đấu Ngoài ra, còn có quy định về trách nhiệm và quyền lợi của giáo viên thể dục và học sinh.

Trách nhiệm của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức xã hội về TDTT đối với GDTC và thể thao trường học (Điều 26)

Công tác Giáo dục thể chất trong trường học

Giáo dục thể chất trong nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển toàn diện con người, góp phần vào sự tiến bộ của xã hội hiện đại GDTC không chỉ là việc dạy các động tác thể dục mà còn giáo dục các tố chất thể lực, cung cấp kiến thức chuyên môn về thể thao và hình thành nhu cầu tập luyện tự giác trong mỗi cá nhân.

Giáo dục thể chất là một quá trình sư phạm có tổ chức, mục đích và kế hoạch, nhằm truyền đạt tri thức và kỹ năng vận động từ thế hệ này sang thế hệ khác Giống như các loại hình giáo dục khác, giáo dục thể chất cũng có vai trò chủ đạo của nhà sư phạm và cần tổ chức hoạt động phù hợp với người học theo nguyên tắc sư phạm GDTC bao gồm hai mặt độc lập: dạy học động tác và giáo dục các tố chất thể lực, nhưng chúng luôn phải song hành Trong hệ thống giáo dục, nội dung của GDTC được liên kết chặt chẽ với giáo dục trí dục, đạo đức, thẩm mỹ và nghề nghiệp.

Giáo dục thể chất đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển toàn diện thể lực và năng lực thể chất của học sinh, góp phần hoàn thiện thể hình, củng cố sức khỏe và hình thành các kỹ năng cần thiết trong cuộc sống Chương trình giáo dục thể chất tại các trường học nhằm trang bị cho học sinh kiến thức và kỹ năng rèn luyện thể chất, đồng thời giáo dục các phẩm chất đạo đức, ý thức và nhân cách.

Theo Bộ GD&ĐT, công tác giáo dục thể chất trong nhà trường đã có sự phát triển đáng kể nhờ sự nỗ lực của toàn ngành giáo dục và sự hỗ trợ từ Chính phủ cùng chính quyền địa phương Những tiến bộ này đã góp phần quan trọng vào thành công chung của sự nghiệp giáo dục, đồng thời nâng cao thể trạng và tầm vóc của người Việt Nam.

Giáo dục thể chất (GDTC) và thể dục thể thao (TDTT) trong trường học đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nhân cách và phẩm chất cần thiết cho học sinh Chúng không chỉ giúp cải thiện thể chất mà còn góp phần duy trì sức khỏe và phát triển thể lực Ngoài ra, GDTC và TDTT còn giúp học sinh tiếp thu kiến thức và kỹ năng vận động cơ bản, đồng thời chuẩn bị tốt về tâm lý và tinh thần.

Để nâng cao hiểu biết về các phương pháp rèn luyện thân thể, học sinh cần tiếp tục thực hiện các hoạt động thể dục thể thao Việc này không chỉ giúp củng cố sức khỏe mà còn góp phần quan trọng vào việc tổ chức và xây dựng phong trào thể dục thể thao trong trường học.

Nội dung chương trình GDTC trong các nhà trường được tiến hành trong cả quá trình học tập của học sinh bằng hai hình thức:

Giáo dục thể chất (GDTC) là hình thức cơ bản trong kế hoạch học tập của nhà trường, nhằm đào tạo thể chất và thể thao cho học sinh Việc này không chỉ cần thiết để phát triển các tố chất thể lực mà còn giúp các em cải thiện khả năng phối hợp vận động Hơn nữa, GDTC còn trang bị cho học sinh những kỹ năng cần thiết để tiếp thu các kỹ thuật động tác thể dục thể thao một cách hiệu quả.

Mục tiêu chính của việc đào tạo thể chất và thể thao trong trường học là thúc đẩy năng lực thể chất và tinh thần của học sinh, phát triển tố chất thể lực, năng lực tâm lý, và ý thức tập luyện thể dục thể thao thường xuyên Giờ học thể dục thể thao được tổ chức theo quy định pháp lý, với thời gian và tiêu chí đánh giá chất lượng cụ thể cho từng cấp học, nhằm giáo dục đức tính cơ bản và lòng nhân đạo cho học sinh.

Thể dục thể thao ngoại khóa là hình thức tự tập luyện của học sinh nhằm phát triển năng lực thể chất toàn diện và nâng cao thành tích thể thao Giờ học ngoại khóa giúp củng cố các bài học chính khóa, diễn ra dưới sự hướng dẫn của giáo viên hoặc hướng dẫn viên Ngoài ra, các hoạt động thể thao ngoại khóa còn bao gồm luyện tập tại các câu lạc bộ, thực hiện các bài tập thể dục hàng ngày và giờ tự luyện tập Những hoạt động này không chỉ giúp cải thiện sức khỏe mà còn thúc đẩy tinh thần thể thao trong học sinh.

14 viên lôi kéo nhiều người tham gia các môn thể thao yêu thích, khuyến khích rèn luyện thân thể và cổ vũ phong trào tập luyện, góp phần xây dựng nền tảng cho sự nghiệp ngày mai.

Bộ GD&ĐT đã hướng dẫn các trường tổ chức giờ học TDTT ngoại khóa, coi đây là hình thức giáo dục thể chất quan trọng Giờ học này hỗ trợ trực tiếp cho giờ học GDTC nội khóa, giúp học sinh tiếp tục luyện tập, hoàn thiện kỹ thuật các môn thể thao và rèn luyện thể lực theo yêu cầu của chương trình.

Giờ học ngoại khóa thể dục thể thao (TDTT) không bắt buộc cho tất cả học sinh Tùy thuộc vào điều kiện của từng trường và nguyện vọng của học sinh, nhà trường sẽ tổ chức các hoạt động TDTT ngoại khóa, được phân chia thành các nhóm và câu lạc bộ thể thao phù hợp.

Hoạt động ngoại khóa TDTT trong trường học nhằm giải quyết các nhiệm vụ sau đây:

Bài viết cung cấp kiến thức cơ bản về nội dung và phương pháp luyện tập thể dục thể thao, kỹ năng vận động và kỹ thuật cơ bản của một số môn thể thao phù hợp Qua đó, học sinh sẽ được bồi dưỡng khả năng sử dụng các phương tiện này để tự rèn luyện sức khỏe, đồng thời tham gia tích cực vào việc tuyên truyền và tổ chức các hoạt động thể dục thể thao tại địa phương.

Giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa đóng vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tinh thần tập thể và ý thức tổ chức kỷ luật Nó giúp xây dựng niềm tin và lối sống tích cực, lành mạnh, đồng thời khuyến khích tinh thần tự giác trong học tập và rèn luyện thể chất Qua đó, người học sẽ được chuẩn bị tốt hơn để phục vụ sản xuất và bảo vệ Tổ quốc.

Việc duy trì và củng cố sức khỏe cho học sinh không chỉ giúp phát triển cơ thể một cách hài hòa mà còn xây dựng thói quen lành mạnh và khắc phục những thói quen xấu Điều này góp phần quan trọng vào hiệu quả học tập và đạt được các chỉ tiêu thể lực theo quy định cho từng đối tượng và năm học, dựa trên việc rèn luyện thể chất phù hợp với lứa tuổi.

- Giáo dục tính thẩm mỹ cho học sinh và tạo điều kiện để nâng cao trình độ thể thao của bản thân

Đặc điểm của môn học GDTC theo chương trình phổ thông mới

Chương trình phổ thông mới (thông tư 32/2018/TT-BGDĐT) quy định rằng giáo dục thể chất (GDTC) là môn học bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12, với tổng số 840 tiết học (70 tiết/năm) Môn GDTC nhằm phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh, tập trung vào việc trang bị kiến thức và kỹ năng chăm sóc sức khỏe, kỹ năng vận động, cũng như hình thành thói quen tập luyện thể thao Qua đó, học sinh sẽ có khả năng lựa chọn môn thể thao phù hợp để nâng cao sức khỏe và phát triển thể lực, đồng thời nâng cao ý thức và trách nhiệm đối với sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng, giúp họ sống vui vẻ và hòa đồng.

Môn Giáo dục thể chất (GDTC) tập trung vào việc rèn luyện kỹ năng vận động và phát triển thể lực cho học sinh thông qua các bài tập thể chất đa dạng Những hoạt động này bao gồm bài tập đội hình, thể dục, trò chơi vận động, các môn thể thao tự chọn, và kỹ năng phòng tránh chấn thương trong thể thao.

Nội dung GDTC được phân chia theo hai giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp

Môn Giáo dục thể chất (GDTC) trong giai đoạn giáo dục cơ bản giúp học sinh nâng cao ý thức chăm sóc sức khỏe và vệ sinh cá nhân Qua các hoạt động thể thao và trò chơi vận động, học sinh hình thành thói quen tập luyện, phát triển các kỹ năng vận động cơ bản và nâng cao thể lực, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển toàn diện.

Học sinh có quyền lựa chọn hoạt động thể dục thể thao phù hợp với thể lực cá nhân và khả năng đáp ứng của nhà trường, nhằm đảm bảo sự toàn diện trong quá trình rèn luyện sức khỏe.

Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp thông qua môn GDTC diễn ra qua các câu lạc bộ thể dục thể thao, nơi học sinh có thể lựa chọn hoạt động thể thao phù hợp với nguyện vọng và khả năng của trường Điều này không chỉ giúp phát triển kỹ năng chăm sóc sức khỏe và vệ sinh thân thể mà còn nâng cao nhận thức và năng khiếu thể thao Hơn nữa, việc tham gia các hoạt động này cũng hỗ trợ học sinh có năng khiếu thể thao trong việc định hướng nghề nghiệp phù hợp với sở thích của bản thân.

1.3.2 Mục tiêu của môn học GDTC theo chương trình phổ thông mới Mục tiêu chung: Môn GDTC giúp học sinh hình thành, phát triển kĩ năng chăm sóc sức khoẻ, kĩ năng vận động, thói quen tập luyện thể dục thể thao và rèn luyện những phẩm chất, năng lực để trở thành người công dân phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế, góp phần phát triển tầm vóc, thể lực người Việt Nam; đồng thời phát hiện và bồi dưỡng tài năng thể thao

Môn Giáo dục thể chất ở cấp tiểu học giúp học sinh chăm sóc sức khỏe và vệ sinh cá nhân, hình thành kỹ năng vận động cơ bản và thói quen tập luyện thể dục thể thao Qua đó, học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động thể dục, thể thao, phát triển tố chất thể lực và tạo nền tảng cho sự phát triển toàn diện cũng như phát hiện năng khiếu thể thao.

Mục tiêu của môn Giáo dục thể chất cấp trung học cơ sở là giúp học sinh củng cố và phát triển kỹ năng chăm sóc sức khỏe, vệ sinh cá nhân, và vận động cơ bản Học sinh cũng được khuyến khích xây dựng thói quen tập luyện thể dục thể thao, phát triển lối sống lành mạnh, hòa đồng và có trách nhiệm Đồng thời, môn học này còn nâng cao ý thức tự giác, khuyến khích học sinh tích cực áp dụng những kiến thức đã học để tham gia vào các hoạt động thể dục thể thao, cũng như bồi dưỡng năng khiếu thể thao của các em.

Môn Giáo dục thể chất ở cấp trung học phổ thông giúp học sinh lựa chọn môn thể thao phù hợp để nâng cao sức khỏe và thể chất Học sinh được khuyến khích áp dụng kiến thức đã học để điều chỉnh chế độ sinh hoạt và luyện tập, tham gia tích cực vào các hoạt động thể dục thể thao Qua đó, các em phát triển ý thức tự giác, tự tin, trung thực, dũng cảm và tinh thần thể thao.

17 thần hợp tác thân thiện thể hiện khát vọng vươn lên, từ đó định hướng tương lai phù hợp với năng lực và sở trường Điều này đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.

1.3.3 Giáo dục thể chất với vai trò nâng cao tầm vóc và thể lực

Sức khỏe nhân dân là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Nhờ vào các chính sách hợp lý và sự phát triển kinh tế, thể lực và tầm vóc người Việt Nam đã có những cải thiện tích cực trong những năm gần đây Tuy nhiên, các tiêu chuẩn về thể lực và tầm vóc vẫn thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực Nếu không sớm khắc phục tình trạng này, sức khỏe và thể lực người Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng, từ đó tác động tiêu cực đến công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Theo thống kê của Bộ VH-TT&DL, tầm vóc và thể lực người Việt Nam đã có sự phát triển rõ rệt từ sau năm 1975 Tuy nhiên, thông tin từ Ủy ban Dân số - Gia đình & Trẻ em cho thấy chiều cao nam thanh niên Việt Nam hiện chỉ đạt 163,7cm, thấp hơn 13,1cm so với chuẩn quốc tế, trong khi chiều cao trung bình của nữ giới là 153cm, thấp hơn 10,7cm so với chuẩn Để cải thiện thể lực và tầm vóc người Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Chương trình tổng thể nâng cao thể lực và tầm vóc giai đoạn 2011-2030 theo Quyết định số 641/QĐ-TTg ngày 28/4/2011.

Mục tiêu của đề án là phát triển thể lực và tầm vóc người Việt Nam trong 20 năm tới nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đề án cũng hướng tới việc nâng cao chất lượng giống nòi và gia tăng tuổi thọ khỏe mạnh của người dân Việt Nam.

Đề án đề xuất hai giải pháp chính: triển khai đồng thời chương trình thể dục thể thao và chăm sóc dinh dưỡng học đường, nhằm đạt mục tiêu đến năm 2020, chiều cao trung bình của nam giới đạt 167cm và nữ giới đạt 157cm Đồng thời, về thể lực, đặc biệt là sức bền và sức mạnh, cần phấn đấu thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển ở châu Á.

Đề án nhằm cải thiện tầm vóc thân thể của thanh niên Việt Nam, với mục tiêu đạt được nhịp độ tăng trưởng ổn định theo các tiêu chí đã đề ra.

- Đối với nam 18 tuổi: Năm 2020 chiều cao trung bình 167cm; năm 2030 chiều cao trung bình 168,5cm

- Đối với nữ 18 tuổi: Năm 2020 chiều cao trung bình 156cm; năm 2030 chiều cao trung bình 157,5cm

Cơ sở lý luận về cấu trúc giờ học giáo dục thể chất

1.4.1 Mối quan hệ giữa hình thức và nội dung buổi tập

Mỗi buổi tập thể dục thể thao là một bước tiến quan trọng trong việc phát triển và hoàn thiện thể chất Trong quá trình tập luyện, giáo viên và học sinh cần thực hiện những nhiệm vụ cụ thể liên quan đến giáo dục, giáo dưỡng và phát triển Sự thành công trong việc hoàn thành những nhiệm vụ này phụ thuộc vào nội dung và hình thức của buổi tập.

Là các hoạt động vận động của bài tập, động tác trong buổi tập nhằm giải quyết các nhiệm vụ GDTC

Là cách thức tổ chức buổi tập, là phương pháp tổ chức hoạt động người tập là sợi dây liên kết các nội dung buổi tập

* Hình thức và nội dung bài tập có quan hệ chặt chẽ với nhau

Hình thức bài tập cần phải phù hợp với nội dung để tối ưu hóa hiệu quả tập luyện Khi hình thức và nội dung tương thích, hoạt động của người tập sẽ trở nên hợp lý hơn Việc lặp đi lặp lại một hình thức bài tập có thể kìm hãm sự phát triển thể lực, do đó, việc thay đổi hình thức bài tập một cách hợp lý sẽ mang lại hiệu quả cao trong giáo dục thể chất.

1.4.2 Cơ sở khoa học tự nhiên của cấu trúc buổi tập

Dựa trên những thành tựu nghiên cứu sinh lý vận động, các nhà lý luận giáo dục thể chất của Nga đã đề xuất một cấu trúc buổi tập thể dục thể thao hợp lý, được công nhận rộng rãi Họ cho rằng cơ sở khoa học để xác định cấu trúc buổi tập là quy luật biểu diễn khả năng hoạt động trong quá trình tập luyện.

Nghiên cứu khả năng hoạt động trong buổi tập là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc tập luyện tiền GDTC Việc hiểu rõ trạng thái sinh lý của người tập là cần thiết để có thể điều chỉnh và phát triển hiệu quả quá trình tập luyện.

Phương pháp theo dõi nhịp tim trong quá trình tập luyện là một cách hiệu quả để đánh giá hoạt động của hệ tuần hoàn và khả năng thể lực của người tập Việc đếm nhịp tim không chỉ giúp theo dõi sức khỏe mà còn cung cấp thông tin đáng tin cậy về đường cong sinh lý, từ đó giúp tối ưu hóa quá trình rèn luyện thể chất.

Nghiên cứu diễn biến tâm lý trong buổi tập bao gồm sự chú ý, trạng thái cảm xúc và phản xạ, đồng thời phân tích các kết quả về tiêu hao năng lượng, thành phần máu và nhiều chỉ số sinh hóa khác.

Có thể đánh giá khách quan khả năng hoạt động thể lực của người tập thông qua việc quan sát các yếu tố bên ngoài như mồ hôi, màu da, nhịp thở và độ chính xác trong việc thực hiện động tác thể dục.

Diễn biến khả năng hoạt động thể lực trong buổi tập thể dục thể thao có những đặc điểm chung và quy luật nhất định, áp dụng cho mọi loại hình tập luyện Do đó, giáo viên thể dục cần nắm vững các biến đổi này để tổ chức buổi tập một cách hợp lý và hiệu quả.

1.4.3 Quan điểm sư phạm của cấu trúc buổi tập

Các buổi tập trong giáo dục thể chất cần được chia thành ba phần chính: phần chuẩn bị, phần cơ bản và phần kết thúc, tương ứng với ba giai đoạn trong diễn biến khả năng hoạt động thể lực của con người.

Việc chia buổi tập thành ba phần có vai trò sư phạm quan trọng, giúp giáo viên chủ động tổ chức các buổi tập một cách hợp lý, phù hợp với khả năng của người tập và nâng cao hiệu quả luyện tập.

Cấu trúc buổi tập trong giáo dục thể chất (GDTC) bị ảnh hưởng bởi quy luật của quá trình sư phạm, yêu cầu mỗi buổi tập phải đáp ứng các nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng và phát triển khác nhau.

Các nhiệm vụ nhẹ cần dựa vào phần đầu và phần cuối của buổi tập, trong khi những nhiệm vụ chính cần được giải quyết trong phần cơ bản, phù hợp với khả năng cao nhất của người tập.

Quy luật diễn biến khả năng hoạt động thể lực trong buổi tập là cơ sở khoa học tự nhiên để phân chia buổi tập thành ba phần Cấu trúc này còn phụ thuộc vào các quan điểm sư phạm nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục và giáo dưỡng khác nhau.

Đặc điểm hình thức buổi tập chính khoá

1.5.1 Đặc điểm buổi tập chính khoá Đó là buổi tập tổ chức theo hình thức lớp - bài trong đó có sự hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của người dạy và người học Ưu thế của buổi tập này bao giờ cũng bao gồm một lượng học sinh cụ thể, đồng nhất về trình độ, lứa tuổi nên rất thuận lợi về mặt giáo dục, giáo dưỡng

22 Được thực hiện theo quy luật chung của quá trình GDTC đồng thời phải đảm bảo các yêu cầu sau:

- Giờ học phải tác động toàn diện đến cơ thể

- Các nhiệm vụ phải được cụ thể theo từng phần của buổi tập, tránh tình trạng chỉ coi trọng phần cơ bản

- Đa dạng hoá phương pháp luyện tập, giảng dạy

- Nội dung của giờ học phải phù hợp với mặt bằng chung của cả lớp có tính đến đặc điểm cá nhân

1.5.2 Cấu trúc buổi tập TDTT (giờ học GDTC chính khoá)

Cấu trúc buổi tập thể dục thể thao gồm ba phần chính: chuẩn bị, cơ bản và kết thúc Việc phân chia này giúp giáo viên thể chất xây dựng một giờ học khoa học và hợp lý.

Việc xác định cấu trúc giờ học hợp lý là quá trình quan trọng giúp giáo viên sắp xếp trật tự giải quyết các nhiệm vụ trong thời gian phù hợp Đây là một nhiệm vụ thường xuyên mà mỗi giáo viên cần thực hiện để nâng cao hiệu quả giảng dạy.

* Phần chuẩn bị (10 - 12% số thời gian):

Nhiệm vụ chính của phần này là tạo ra tâm thế và cảm xúc cần thiết cho học sinh trước khi bước vào giờ học, đảm bảo rằng họ có tâm lý thoải mái và sẵn sàng để tiếp thu kiến thức.

Vào đầu buổi học, giáo viên cần tổ chức các hoạt động như chuẩn bị dụng cụ, sân bãi, nhắc lớp và phổ biến nhiệm vụ học tập Thời gian này cũng có thể được sử dụng để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục - giáo dưỡng, bao gồm việc rèn luyện đội hình đội ngũ, hình thành tư thế đúng và thực hiện khẩu lệnh một cách chính xác.

Nhiệm vụ chính của phần chuẩn bị trong giờ học là khởi động cung và khởi động chức năng thông qua các bài tập dễ định lượng và tiết kiệm thời gian Nội dung khởi động cần phải phù hợp với các hoạt động trong phần cơ bản của tiết học, do đó, cần căn cứ vào nội dung phần cơ bản để lựa chọn phương tiện, phương pháp và hình thức tổ chức cho phù hợp.

* Phần cơ bản: (80 - 85% thời gian):

Trong buổi học, 23% thời gian được dành để giải quyết các nhiệm vụ phức tạp nhất, chiếm khoảng 80-85% tổng thời gian Thời gian này có thể được chia thành nhiều phần nhỏ, bao gồm ôn tập động tác cũ, dạy động tác mới và phát triển tố chất thể lực, tùy thuộc vào nội dung cụ thể của phần cơ bản.

- Nếu buổi tập là dạy học động tác thì trình tự của các nhiệm vụ như sau: Làm quen, học sâu từng phần và hoàn thiện các động tác

- Nếu buổi tập nhằm giáo dục các tố chất thể lực thì thông thường thực hiện theo trình tự như sau: Tốc độ - Sức mạnh - Sức bền

Trong buổi tập, nếu phần rèn luyện thân thể tập trung vào sức khỏe tổng thể, thì phần chuyên môn chủ yếu là thực hiện các bài tập cụ thể Chẳng hạn, trong buổi tập cử tạ, các yếu tố cốt lõi bao gồm sức mạnh và sức mạnh tốc độ.

Trong cuộc sống, con người thường phải thực hiện các nhiệm vụ vận động trong nhiều điều kiện khác nhau, vì vậy trình tự bài tập cần linh hoạt để tối ưu hóa năng lực thể chất Để nâng cao trạng thái cảm xúc và tác động tích cực đến cơ thể, ngoài việc áp dụng các bài tập định mức, việc sử dụng phương pháp trò chơi và thi đấu là cần thiết nhằm hoàn thiện kỹ thuật động tác và phát triển tố chất thể lực.

Phần kết thúc của buổi tập thể dục, chiếm 5-10% thời gian, là giai đoạn giảm dần cường độ hoạt động để giúp cơ thể trở về trạng thái nghỉ ngơi và phục hồi Để tăng cường hiệu quả hồi phục, người tập thường thực hiện các bài tập nhẹ nhàng như chạy bộ, đi bộ hoặc tham gia các trò chơi vận động, trong đó, luyện tập với mức độ vận động nhỏ là phương tiện chính.

Trong phần này, cần thực hiện các nhiệm vụ giáo dục và giáo dưỡng như dạy khả năng giảm dần lực vận động và cách chuyển hướng vận động Cuối cùng, giáo viên phải nhận xét kết quả buổi tập, giao bài tập về nhà, thu dọn dụng cụ và xuống lớp.

1.5.3 Công việc chuẩn bị cho giờ học của giáo viên

Tổ chức giờ học thể dục thể thao là một hoạt động đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ giáo viên Để nâng cao chất lượng giờ học, giáo viên cần chú trọng đến việc chuẩn bị các yếu tố cần thiết một cách chu đáo.

- Xác định nhiệm vụ giờ học

- Lập kế hoạch cụ thể cho giờ học (soạn giáo án)

- Chuẩn bị trước trang bị vật chất cần thiết

Các công việc chuẩn bị cho giờ học có mối liên hệ chặt chẽ và mỗi nhiệm vụ yêu cầu công nghệ riêng biệt Để xác định nhiệm vụ giờ học, cần làm rõ vị trí của nó trong hệ thống giảng dạy và hình dung kết quả mong đợi Việc này phải dựa trên tiến trình biểu và điều chỉnh theo diễn biến thực tế của quá trình giảng dạy Mỗi lần xác định nhiệm vụ, cần phân tích kết quả trước đó và tính toán thời gian còn lại cho các giờ học nhằm đảm bảo tính kế thừa Độ chính xác trong việc xác định nhiệm vụ và thứ tự giải quyết phụ thuộc vào kinh nghiệm và khả năng sáng tạo của giáo viên, nhưng không nên quá phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân Cần nghiên cứu tài liệu phương pháp mới nhất để có cơ sở khoa học cho việc điều chỉnh nhiệm vụ và kế hoạch giảng dạy.

Việc soạn giáo án là bước quan trọng trong công tác chuẩn bị cho giờ học, bao gồm lập kế hoạch chi tiết cho từng tiết học Quá trình này bắt đầu bằng việc xác định trình tự hợp lý để giải quyết các nhiệm vụ trong giờ học Để giảng dạy nội dung mới hiệu quả, học sinh cần tập trung cao độ và ở trong trạng thái hoạt động tối ưu, do đó nhiệm vụ này cần được thực hiện trong phần cơ bản của giờ học.

Trong quá trình soạn giáo án, bước thứ hai là xác định nội dung phần cơ bản, bao gồm việc xác định trình tự thực hiện và lượng vận động của mỗi bài tập Ngoài ra, cần định phương pháp giảng giải và chỉ dẫn người tập, cũng như xác lập sơ đồ tổ chức cho việc thực hiện bài tập Tất cả các thông tin này đều cần được ghi chú rõ ràng trong giáo án để đảm bảo tính hiệu quả và dễ dàng theo dõi.

Đặc điểm thể lực chung và chuyên môn

Thể lực là một phần quan trọng trong khái niệm sức khỏe, đại diện cho sức mạnh của con người Chuẩn bị thể lực là hoạt động chuyên môn nhằm giúp con người sẵn sàng cho việc học tập, lao động, bảo vệ Tổ quốc và tham gia các hoạt động thể chất khác Việc chuẩn bị thể lực chung bao gồm quá trình giáo dục thể chất không chuyên hóa hoặc chuyên môn hóa ở mức độ thấp, nhằm tạo ra nền tảng thể lực vững chắc, từ đó đạt được hiệu quả tốt trong các hoạt động khác nhau.

Giáo dục thể lực chung là quá trình phát triển toàn diện các tố chất thể lực và chức năng khác nhau, không chỉ tập trung vào một hoạt động cụ thể nào Quá trình này tạo điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả giáo dục thể lực chuyên môn, giúp phát triển năng lực thể chất toàn diện và làm phong phú kỹ năng của vận động viên.

Giáo dục thể lực chung là quá trình phát triển các tố chất thể lực thông qua các bài tập thể dục thể thao được thực hiện một cách liên tục và có kế hoạch Quá trình này không chỉ tác động đến hệ thần kinh và cơ bắp mà còn ảnh hưởng đến các cơ quan nội tạng của con người Đặc biệt, đối với lứa tuổi sinh viên từ 18 đến 22, việc phát triển các tố chất thể lực cần được điều chỉnh theo đặc điểm sinh lý và từng giai đoạn tập luyện, nhằm tối ưu hóa hiệu quả và phù hợp với tuổi sinh học trong thời kỳ nhạy cảm.

Quá trình giáo dục thể lực cần đảm bảo sự phù hợp giữa các phương tiện và phương pháp giáo dục với quy luật phát triển của đối tượng, bao gồm lứa tuổi và trình độ tập luyện Khi nói về thể lực chung và giáo dục các tố chất thể lực chuyên môn, chúng ta nhận thấy rằng hoạt động cơ bắp đóng vai trò trung tâm trong mọi hoạt động của con người Hoạt động cơ bắp được thể hiện qua ba phương diện chính.

- Sự co cơ (phụ thuộc chủ yếu vào tỉ lệ cấu trúc sợi cơ, số lượng sợi cơ và thiết diện cơ)

- Sự trao đổi chất (tức là quá trình sản sinh năng lượng)

- Sự dẫn truyền kích thích (hoạt động thần kinh cơ)

Ba phương diện trên đây luôn có mối tương quan với khả năng hoạt động của tố chất thể lực (theo Ozolin 1970, Philin 1974, Vaixekhovxki 1976, Phomin

Năm 1979 đã chỉ ra rằng ba tố chất thể lực cơ bản là sức nhanh, sức mạnh và sức bền có mối tương quan chặt chẽ với nhau Đặc biệt, sức mạnh chủ yếu liên quan đến khả năng co cơ và được thể hiện qua sự thay đổi trong thời gian duy trì.

Sức mạnh cơ bắp được phân chia thành ba loại chính: sức mạnh tối đa, sức mạnh nhanh và sức mạnh bền Sức mạnh nhanh liên quan đến khả năng dẫn truyền của hệ thần kinh và thành phần sợi cơ, bao gồm sức nhanh phản ứng, sức nhanh vận động và sức nhanh động tác Trong khi đó, sức bền chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động trao đổi chất, với hai cơ chế sinh năng lượng là yếm khí và ưa khí Do đó, sức bền cũng được phân loại thành sức bền cự ly ngắn, cự ly trung bình và cự ly dài.

Trong quá trình huấn luyện thể lực, các tố chất vận động luôn tương tác lẫn nhau và không tồn tại độc lập Người tập cần phát triển thể lực một cách toàn diện, được gọi là năng lực thể chất, bao gồm sức nhanh, sức mạnh, sức bền và sự linh hoạt Sự phát triển này không chỉ nâng cao sức khỏe mà còn cải thiện các hệ thống cơ quan và chức năng của cơ thể Nhờ đó, khả năng tiếp nhận vận động của người tập cũng được cải thiện, dẫn đến sự phát triển tố chất thể lực ở mức cao hơn.

Huấn luyện thể lực chung cần đạt được khả năng làm việc tối ưu của các cơ quan chức năng Quá trình này bao gồm việc thực hiện các bài tập có và không có dụng cụ, cũng như áp dụng bài tập từ các môn thể thao khác Việc lựa chọn bài tập là rất quan trọng, yêu cầu huy động nhiều nhóm cơ và các cơ quan trong cơ thể, chẳng hạn như các bài tập chạy và thể dục Ngoài ra, cần có những bài tập tập trung phát triển một bộ phận cụ thể hoặc tổng hợp các tố chất vận động, nhằm nâng cao khả năng thể chất tổng thể Đặc biệt, quá trình này còn giúp củng cố những điểm yếu và phát triển các cơ quan chưa phát triển đầy đủ trong cơ thể.

Các nhà khoa học đã chứng minh rằng các tố chất thể chất (TCTL) có mối quan hệ mật thiết với nhau và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình phát triển Nếu tách rời bất kỳ một TCTL nào, sự phát triển thể chất sẽ không còn ý nghĩa TCTL chung bao gồm năm tố chất cơ bản: sức nhanh, sức mạnh, sức bền chung, sự mềm dẻo và khả năng linh hoạt khéo léo Mỗi tố chất trong năm tố chất này đều có tác dụng và ý nghĩa riêng trong việc phát triển thể trạng và thể chất.

Tố chất sức nhanh đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện khả năng hoạt động nhanh chóng của người tập, đồng thời phát triển linh hoạt cho hệ thống thần kinh và cơ bắp.

- Tố chất sức mạnh: Giúp cho các hoạt động của người tập với sự nỗ lực ý trí cao để khắc phục được lực cản bên ngoài lớn

Sức bền chung đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các cơ quan hệ thống trong cơ thể Đối với tim, sức bền giúp buồng tim mở rộng, cho phép chứa nhiều máu hơn, trong khi thành cơ tim dày lên và có tính đàn hồi tốt hơn Hệ tuần hoàn cũng được cải thiện, giúp máu lưu thông dễ dàng và duy trì huyết áp ổn định Ngoài ra, sức bền còn tăng cường tính đàn hồi của hệ cơ bắp và dây chằng, giúp con người vận động hiệu quả hơn.

Tố chất mềm dẻo và linh hoạt khéo léo giúp các cơ quan tổ chức hoạt động hiệu quả hơn thông qua việc thả lỏng và sử dụng sức đúng lúc, đồng thời thực hiện các hoạt động với biên độ khớp lớn Để phát triển tốt các tố chất này, cần áp dụng hệ thống bài tập phù hợp với từng đối tượng tập luyện Tố chất sức bền chung không chỉ hỗ trợ phát triển sức nhanh và sức mạnh mà còn nâng cao hiệu quả của việc phát triển tố chất mềm dẻo và linh hoạt.

Theo Nôvicốp và Mátvêép, thể lực chuyên môn bao gồm các yếu tố như sức nhanh, sức mạnh, sức bền và khả năng phối hợp vận động Những tố chất này giúp người tập nắm bắt kỹ thuật và nâng cao thành tích trong môn thể thao chuyên sâu mà họ đang luyện tập.

Theo các tác giả Trung Quốc như Điền Mạnh Cửu, Hình Văn Hoa và Diễn Phong, thể lực được thể hiện qua các tố chất thể lực chung và tố chất thể lực đặc thù.

Tố chất thể lực chung bao gồm các yếu tố như nhanh, mạnh, bền và khéo léo, nhằm nâng cao khả năng hoạt động thể chất trong cuộc sống hàng ngày Ngược lại, tố chất thể lực chuyên môn, cũng với các yếu tố tương tự nhưng mang tính chất hẹp hơn, phục vụ cho từng ngành nghề, môn thể thao và các động tác kỹ thuật cụ thể Những tố chất này không chỉ hỗ trợ trong quá trình luyện tập mà còn góp phần quan trọng vào việc nâng cao thành tích thi đấu của người tập.

Đặc điểm tâm sinh lý đối tượng nghiên cứu

Sự phát triển của cơ thể ở lứa tuổi học sinh phổ thông trung học cơ sở (12-15 tuổi) diễn ra phức tạp và chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố Quá trình này không đồng đều, với tốc độ phát triển khác nhau giữa các hệ thống cơ quan, tạo nên sự phát triển hài hòa Các em gái thường chuẩn bị bước vào giai đoạn dậy thì sớm hơn so với các em trai, dẫn đến sự khác biệt về sinh lý và tâm lý Khi kết thúc giai đoạn học phổ thông trung học cơ sở, một số em đã trải qua giai đoạn tiền dậy thì, trong khi các em trai có thể vẫn chưa chính thức dậy thì Đây là giai đoạn đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của cơ thể, với sự gia tăng hoạt động của các tuyến nội tiết như tuyến hạ não và tuyến giáp trạng.

Trong giai đoạn phát triển, cơ thể sẽ kích thích sự tăng trưởng chiều cao, chủ yếu ở chân tay, với tốc độ 6 - 8 cm mỗi năm Các dấu hiệu giới tính phụ xuất hiện, như râu và thay đổi giọng ở nam, cùng với sự phát triển của ngực và hông ở nữ Khi tuyến sinh dục hoạt động mạnh, sự phát triển chiều cao sẽ chậm lại, và thay vào đó, cơ thể sẽ tăng cường sức mạnh và kích thước các vòng cơ thể Hiểu rõ đặc điểm phát triển và khai thác đúng năng lực trong độ tuổi này sẽ giúp các em phát triển tài năng, đặc biệt là trong thể thao.

Hệ thần kinh của trẻ ở độ tuổi 12 - 15 đã hoàn thiện về cấu trúc tế bào, nhưng chức năng sinh lý vẫn đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ với sự hưng phấn chiếm ưu thế Điều này giúp các em dễ dàng tập trung vào việc học, nhưng nếu thời gian học quá dài, nội dung nghèo nàn và hình thức hoạt động đơn điệu sẽ dẫn đến mệt mỏi và phân tán sự chú ý Đặc điểm hoạt động thần kinh linh hoạt giúp các em dễ tiếp thu kiến thức mới, vì vậy trong giờ học thể dục, cần có hình thức và nội dung phong phú, cùng với phương pháp tổ chức và giảng dạy linh hoạt để tránh sự cứng nhắc và đơn điệu.

Hệ vận động của em đang trong giai đoạn phát triển mạnh, với xương đã cứng nhưng vẫn tiếp tục dài ra Các xương nhỏ ở cổ tay và cổ chân đã hình thành nhưng chưa vững chắc, vì vậy lao động nặng có thể gây ra đau nhức kéo dài ở các khớp này.

Từ 14 đến 15 tuổi, cột sống của trẻ em đã tương đối ổn định về hình dạng và đường cong, nhưng việc đi, đứng, ngồi sai tư thế vẫn có thể dẫn đến cong vẹo cột sống Các em gái thường tăng chiều cao nhanh chóng từ 12 đến 14 tuổi, trong khi các em trai tăng nhanh từ 14 đến 15 tuổi Trong độ tuổi 12 đến 16, trẻ em thường ưa thích hoạt động thể chất và thể thao, nhưng vẫn chưa hoàn toàn qua giai đoạn cốt hóa, do đó cần chú ý đến tư thế và dáng điệu Đặc biệt, các em gái cần lưu ý sự phát triển của xương chậu và xương hông, vì chúng dễ bị méo lệch Bên cạnh đó, không nên yêu cầu các em mang vác nặng.

Việc nâng vác vật nặng hoặc thực hiện các động tác tĩnh tại có thể gây ra sự phát triển dị hình ở xương và cản trở sự phát triển chiều dài xương một cách nhanh chóng.

Cơ bắp của trẻ em ở lứa tuổi 14-15 phát triển chậm hơn xương, chủ yếu về chiều dài trước khi chuyển sang chiều ngang Các cơ co và cơ to phát triển nhanh hơn cơ duỗi và cơ nhỏ, dẫn đến sự gia tăng lực cơ nhưng không đồng đều, gây ra mệt mỏi Do đó, cần tổ chức các hoạt động thể dục thể thao phong phú để phát triển toàn diện cho trẻ em, đặc biệt chú trọng vào sự phát triển sức mạnh cơ bắp.

Hệ tuần hoàn của trẻ từ 12 đến 15 tuổi phát triển chậm hơn so với mạch máu, dẫn đến hoạt động của tim chưa ổn định và sức co bóp yếu Trẻ dễ bị kích thích, với những tác động nhẹ cũng khiến tim đập mạnh và nhanh Do đó, giáo viên cần dựa vào các chỉ tiêu kiểm tra hệ tuần hoàn như huyết áp và mạch đập, cùng với các chỉ tiêu khác như biến đổi sinh hóa và thể lực, để lập kế hoạch và điều chỉnh lượng vận động phù hợp với sức lực và đặc điểm cơ thể của trẻ.

Hệ hô hấp của trẻ em chưa phát triển đầy đủ, với các buồng phổi và túi phổi còn nhỏ, cùng với cơ ngực và cơ hô hấp chưa hoàn thiện, dẫn đến khối lượng khí lưu thông hạn chế Vòng ngực của các em gái phát triển nhanh từ 12 đến 14 tuổi, trong khi các em trai tăng trưởng mạnh từ 14 đến 15 tuổi Nhịp thở của trẻ em nhanh hơn người lớn, thường thở nông và nhanh khi vận động Tập luyện thể dục thể thao giúp cải thiện khả năng hô hấp, do đó, cần hướng dẫn trẻ cách thở sâu và đúng cách.

Trong giai đoạn dậy thì, các em gái từ 13-14 tuổi và các em trai từ 14-15 tuổi sẽ trải qua sự gia tăng về sức mạnh cơ bắp, nhưng sức bền vẫn chưa phát triển tương xứng Do đó, ở độ tuổi này, không nên áp dụng các bài tập sức mạnh quá mức để đảm bảo sự phát triển an toàn và hiệu quả.

Trong giai đoạn chuyển tiếp quan trọng này, trẻ em cần sự hướng dẫn sư phạm đặc biệt từ những người làm công tác giáo dục để phát triển nghị lực và tập trung vào việc học tập nghệ thuật, thể thao và tham gia tích cực vào đời sống xã hội Nếu không có sự chỉ dẫn đúng đắn, những ham thích tình dục có thể gây hại cho sức khoẻ và tâm lý của các em Ở độ tuổi này, trẻ em trải qua sự phát triển mạnh mẽ cả về thể chất lẫn tinh thần, đang dần tách khỏi thời thơ ấu để tiến tới giai đoạn trưởng thành, không còn là trẻ em nhưng cũng chưa hoàn toàn là người lớn.

Thời kỳ quá độ từ trẻ con lên người lớn là giai đoạn quan trọng, trong đó trẻ em phát triển các phẩm chất trí tuệ, tình cảm và ý chí Giai đoạn này có sự phức tạp trong phát triển tâm lý, với nhiều mâu thuẫn và thay đổi đột biến Hiểu rõ đặc điểm tâm lý của trẻ ở lứa tuổi này là điều cần thiết để giáo dục, nhằm giúp các em hình thành nhân cách lành mạnh Hoạt động học tập trở thành trọng tâm, đòi hỏi trẻ tự lập hơn với nội dung kiến thức và phương pháp giảng dạy đa dạng Nếu học sinh không nỗ lực, kết quả học tập sẽ giảm sút, dẫn đến suy giảm động cơ và ý chí trong học tập.

Trí nhớ của trẻ em ở lứa tuổi này trải qua nhiều biến đổi quan trọng, với năng lực ghi nhớ có chủ định tăng rõ rệt Cách thức ghi nhớ được cải thiện, dẫn đến hiệu suất ghi nhớ cao hơn Học sinh phát triển khả năng thu lượm tri thức một cách hệ thống thông qua việc thiết lập những mối liên tưởng phức tạp và sâu sắc Trí nhớ có ý thức ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt là trí nhớ lô gích ngôn ngữ, phát triển mạnh mẽ hơn cả Do đó, việc dạy trẻ em cách ghi nhớ có chọn lọc là rất cần thiết.

Tư duy của trẻ em thường mang tính hình ảnh cụ thể, vì vậy tài liệu trực quan đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp thu kiến thức, giúp các em học nhanh chóng hơn qua các khái niệm có minh họa Trong giáo dục thể chất, ngoài việc phân tích kỹ thuật động tác, cần sử dụng đa dạng hình thức trực quan Khi lớn lên, tư duy của các em trở nên lô gic và có căn cứ hơn, với khả năng tự phân tích, so sánh và tổng hợp phát triển rõ rệt Ở lứa tuổi này, các em thể hiện khát vọng tìm hiểu bản chất và nguyên nhân của hiện tượng, đồng thời phát triển tư duy trừu tượng Các phẩm chất tâm lý như tính tự lập và tính phê phán cũng xuất hiện, với yêu cầu được chứng minh và có căn cứ, giúp các em phân biệt đúng sai và đưa ra thắc mắc cần giải đáp.

Ngôn ngữ của học sinh ở độ tuổi này đã trở nên phong phú và chính xác hơn so với học sinh tiểu học nhờ vào việc học tập có hệ thống và các hoạt động đa dạng trong trường và xã hội Tuy nhiên, vẫn còn những thiếu sót trong ngôn ngữ, với nhiều em mắc lỗi ngữ pháp khi viết và nói Về mặt cảm xúc, các rung động của các em đã thay đổi về chất, tạo ra mối quan hệ phức tạp hơn với người lớn và bạn bè, đặc biệt là với bạn khác giới Thái độ đối với học tập cũng có sự đổi mới, với những cảm xúc phong phú, đa dạng và đôi khi mâu thuẫn Mặc dù khả năng cảm xúc của các em đã phát triển cao, nhưng sự bền vững của chúng chưa được đảm bảo, dẫn đến tâm trạng thay đổi nhanh chóng và trạng thái xúc động thường xuyên xuất hiện.

Những công trình nghiên cứu có liên quan

Đánh giá thể dục thể thao (TĐTL) chủ yếu dựa vào các chỉ tiêu chức năng vận động, thường được áp dụng bởi các nhà sư phạm Các tác giả thường sử dụng các chỉ tiêu như sức nhanh, sức mạnh và sức bền để đánh giá năng lực vận động và TCTL của đối tượng nghiên cứu.

Một số tác giả, như Cooper và các nghiên cứu liên quan, đã phát triển các bài kiểm tra để đánh giá thể dục thể thao, bao gồm test Cooper, test PWC 170 và Step test Harvard Cooper (1950) cho rằng sức bền chung trong hoạt động thể dục thể thao không chỉ phản ánh khả năng thể lực mà còn thể hiện trình độ thể lực của con người.

Nhiều tác giả đã áp dụng từ 3 đến 5 chỉ tiêu để đánh giá TĐTL, thường theo cách mỗi TCTL tương ứng với một chỉ tiêu riêng Cụ thể, trong trường hợp của Vôncốp V.I, chỉ một chỉ tiêu được sử dụng để thực hiện đánh giá.

Năm 1987, các chỉ tiêu như chạy 100m, chạy 1000m và bật xa tại chỗ được sử dụng để đánh giá trình độ thể lực của nam và nữ ở độ tuổi 17 Tại Tiệp Khắc, cùng năm, bốn bài kiểm tra đã được áp dụng để đánh giá thể lực của người dân từ 6 đến 60 tuổi, bao gồm: nằm ngửa ngồi dậy, bật xa tại chỗ, nằm sấp co duỗi tay và test Cooper Đến năm 1993, Nhật Bản quy định các bài kiểm tra thể lực cho mọi người từ 4 đến 64 tuổi, bao gồm bật xa tại chỗ, ngồi gập thân trong 30 giây, nằm sấp co duỗi tay, chạy con thoi cự ly 5m trong 15 giây và chạy 5 phút tính quãng đường Nhiều tác giả đã chỉ ra rằng việc sử dụng tổ hợp từ bốn bài kiểm tra trở lên giúp đánh giá chính xác và khách quan về trình độ thể lực Thông thường, hai bài kiểm tra sức mạnh được áp dụng, một cho sức mạnh tay và một cho sức mạnh chân Ở Việt Nam, các nhà sư phạm như Lê Định Du và cộng sự (1973), Phạm Khắc Học, Vũ Bích Huệ, Đỗ Trọng Xanh (1978 - 1980), Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Hồng Minh đã nghiên cứu và áp dụng các tổ hợp bài kiểm tra để đánh giá trình độ thể lực.

(1984), Trần Đồng Lâm, Vũ Đào Hùng, Vũ Bích Huệ (1984)…

Vũ Đức Thu (1989) đã nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm cải tiến chương trình giáo dục thể chất tại các trường đại học, từ đó xây dựng tổ hợp chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá thể dục thể thao cho sinh viên Dựa trên các chuẩn mực này, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp đã ban hành tiêu chuẩn rèn luyện thể lực cho học sinh tại các trường đại học và cao đẳng trên toàn quốc theo quyết định 203/QĐ - TDTT ngày 23/1/1989.

Một số tác giả như: Nguyễn Xuân Sinh (1993), Nguyễn Đại Dương

Từ năm 1999 đến 2003, nhiều nghiên cứu của các tác giả như Lưu Quang Hiệp và Bùi Quang Hải đã chỉ ra những đặc điểm phát triển thể lực của học sinh, sinh viên Việt Nam theo lứa tuổi và giới tính Dựa trên các chỉ tiêu chức năng vận động, họ đã xây dựng "Tổ hợp test" để đánh giá trình độ thể lực Vào năm 2008, Bộ GD-ĐT đã ban hành bảng đánh giá thể lực cho học sinh, sinh viên từ 6 đến 20 tuổi, hiện nay, bảng này được sử dụng rộng rãi trong các trường học để đánh giá thể lực của học sinh, sinh viên.

Tóm lại: Qua nghiên cứu đề tài đi đến một số nhận xét sau:

Giáo dục thể chất (GDTC) đã nhận được sự quan tâm đặc biệt từ Đảng và Nhà nước, với việc ban hành nhiều văn bản, chính sách và chiến lược nhằm phát triển nguồn nhân lực cho học sinh và sinh viên.

Để phát triển thể chất hiệu quả, cần lựa chọn bài tập phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của từng đối tượng Việc áp dụng phương pháp tập luyện đúng cách và tuân thủ các nguyên tắc giáo dục thể chất là rất quan trọng Bên cạnh đó, điều kiện môi trường tập luyện và vệ sinh cũng cần được đảm bảo để tối ưu hóa kết quả.

Nghiên cứu đã phân tích các quan điểm về trình độ thể lực của học sinh, sinh viên và các phương pháp đánh giá quan trọng hiện đang được áp dụng tại Việt Nam.

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP

VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU

Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết các mục tiêu nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

2.1.1 Phương pháp đọc, phân tích và tổng hợp tài liệu Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học Phương pháp này giúp cho việc hệ thống hoá các kiến thức có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã thu thập và phân tích hơn 40 tài liệu liên quan, bao gồm các văn bản pháp luật của nhà nước, văn bản pháp luật về công tác giáo dục thể chất trong trường học, sách, tài liệu khoa học và kết quả nghiên cứu của các tác giả, nhà khoa học trong và ngoài nước Dựa trên các tài liệu tham khảo, đề tài đã tiến hành khảo sát công tác giáo dục thể chất trong nhà trường nhằm đánh giá thực trạng công tác này và thể lực của học sinh Danh mục tài liệu được trình bày chi tiết trong phần “Tài liệu tham khảo”.

Phương pháp nghiên cứu khoa học này thu thập thông tin thông qua quá trình hỏi và trả lời giữa nhà nghiên cứu và các cá nhân liên quan đến các vấn đề quan tâm Đây là một phương pháp phổ biến trong nghiên cứu khoa học thể dục thể thao Trong đề tài này, phương pháp này được áp dụng với hai hình thức khác nhau.

Phỏng vấn trực tiếp là phương pháp giao tiếp hiệu quả với các nhà quản lý, cán bộ và giáo viên có kinh nghiệm tại Trường THCS Huyện Nho Quan, Tỉnh Ninh Bình, cũng như Trường ĐHSP TDTT Hà Nội Mục tiêu của các cuộc phỏng vấn này là nhằm tìm hiểu về công tác thể dục thể thao tại địa phương và trong nhà trường, đồng thời thảo luận về các giải pháp nâng cao thể lực và phát triển thể chất cho học sinh.

Phỏng vấn gián tiếp sử dụng phiếu hỏi với các vấn đề được sắp xếp khoa học và liên quan đến đề tài nghiên cứu Phương pháp này giúp giảm bớt căng thẳng cho người được hỏi bằng cách cung cấp các phương án trả lời rõ ràng.

Bài khảo sát bao gồm 38 câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn, được trình bày trong phiếu hỏi Người tham gia chỉ cần suy nghĩ và lựa chọn những đáp án mà họ cho là phù hợp, có thể điền vào ô trống hoặc gạch chân những ý kiến mà họ tin là đúng.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát đối tượng gồm học sinh, giáo viên giảng dạy giáo dục thể chất và cán bộ quản lý ở các cấp Các phiếu hỏi đã được xử lý bằng phương pháp toán học thống kê để rút ra những kết luận cần thiết Kết quả phỏng vấn sẽ được trình bày chi tiết ở chương 3, trong khi phiếu hỏi sẽ được dẫn chứng trong phần phụ lục của luận văn.

2.1.3 Phương pháp quan sát sư phạm Đề tài sử dụng phương pháp này để quan sát, tiếp cận với đối tượng nghiên cứu của đề tài, tiến hành quan sát ghi nhận các dấu hiệu sư phạm từ cả 2 phía: người dạy và người học để làm cơ sở xác định các yếu tố và điều kiện đảm bảo cho việc nâng cao hiệu quả GDTC cho học sinh Trường THCS Văn Phương

Nho Quan - Ninh Bình là địa điểm nghiên cứu với đối tượng là học sinh và giáo viên GDTC tại Trường THCS Văn Phương Việc áp dụng phương pháp quan sát sư phạm giúp xác định hiệu quả của các bài tập đã được lựa chọn.

2.1.4 Phương pháp kiểm tra sư phạm

Phương pháp kiểm tra đánh giá thể lực được áp dụng cho đối tượng nghiên cứu bao gồm các yếu tố như sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khéo léo và mềm dẻo Các bài kiểm tra được lựa chọn chủ yếu từ bộ tiêu chuẩn đánh giá thể lực theo Quy định do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, cụ thể là Quyết định số 53/2008/QĐ-BGĐT ngày 18 tháng 9 năm 2008 Ngoài ra, các tiêu chuẩn này còn dựa trên chương trình “Điều tra, đánh giá tình trạng thể chất và xây dựng chỉ tiêu thể lực chung của người Việt Nam giai đoạn I.”

6 - 20 tuổi” của Uỷ ban TDTT Đề tài sử dụng 04 test nhằm đánh giá trình độ

39 thể lực của học sinh trường THCS Văn Phương - Nho Quan - Ninh Bình, bao gồm:

Chạy 30m xuất phát cao: Đơn vị đo - Giây

- Dụng cụ: Đồng hồ điện tử Casio PC 940 (Nhật) có độ chính xác 0.01 giây, cờ hiệu Đường chạy bằng phẳng

Để chuẩn bị cho cuộc thi, đối tượng điều tra cần lưu ý không chạy bằng dép hoặc guốc, mà chỉ bằng chân không hoặc giày Khi có hiệu lệnh "vào chỗ", hãy tiến vào vạch xuất phát, đứng với chân trước và chân sau cách nhau một vai, trọng tâm hơi nghiêng về phía trước Hai tay cần thả lỏng tự nhiên, với bàn chân trước đặt ngay sau vạch xuất phát, đảm bảo tư thế thoải mái để sẵn sàng cho cuộc đua.

Khi nghe lệnh “Sẵn sàng - chạy”, người tham gia nhanh chóng rời khỏi vạch xuất phát và sử dụng kỹ thuật chạy cự ly ngắn để đạt tốc độ tối đa Đồng hồ bấm giờ sẽ được khởi động khi có lệnh xuất phát và dừng lại khi người chạy chạm vào dây đích, theo đúng quy định của luật Điền kinh.

+ Kết thúc: Khi đối tượng chạm dây đích

- Kết quả: Thực hiện một lần và lấy kết quả (tính bằng giây)

Chạy con thoi 4 x 10m: Đơn vị đo - giây

- Dụng cụ : Đường chạy có kích thước 10 x 1,2 m cho 1 đường chạy, 4 góc có vật chuẩn để quay đầu, đường chạy bằng phẳng, không trơn Để an toàn,

2 đầu đường chạy có khoảng trống ít nhất 2 m Dụng cụ gồm đồng hồ bấm giây, cờ lệnh, cọc tiêu

+ Thực hiện và kết thúc: Đối tượng điều tra thực hiện theo khẩu lệnh

"Vào chỗ, sẵn sàng, chạy" là quy trình khởi động trong cuộc thi chạy 30m xuất phát cao Khi đến vạch 10m, chỉ cần một chân chạm vạch, ngay lập tức quay 180 độ và chạy trở về vạch xuất phát Sau khi chân chạm vạch xuất phát, vận động viên hoàn thành bài thi.

Thực hiện 40 phát, sau đó quay lại và lặp lại quá trình này cho đến khi hoàn thành quãng đường, tổng cộng 4 lần, mỗi lần cách nhau 10m Hướng quay có thể là bên trái hoặc bên phải, tùy thuộc vào thói quen của từng người.

- Kết quả: Thực hiện một lần và xác định thành tích (tính bằng giây)

Bật xa tại chỗ: Đơn vị đo - cm

Để tiến hành kiểm tra, cần chuẩn bị dụng cụ bao gồm thảm cao su giảm chấn kích thước 1x3m và một thước đo dài bằng thanh hợp kim có kích thước 3x0.3m Thước đo này được đặt trên mặt phẳng nằm ngang và ghim chặt xuống thảm để tránh xê dịch trong quá trình kiểm tra Sau đó, kẻ vạch giới hạn với mốc 0 của thước chạm vào vạch xuất phát.

Tổ chức nghiên cứu

2.2.1 Thời gian nghiên cứu Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 11 năm 2019 đến tháng 12 năm

- Chủ thể nghiên cứu: Là các bài tập phát triển thể lực cho học sinh khối 7 Trường THCS Văn Phương - Nho Quan - Ninh Bình

- Khách thể nghiên cứu: Là 200 học sinh khối 7 Trường THCS Văn Phương - Nho Quan - Ninh Bình (Trong đó Nam 100 HS; Nữ 100HS)

- Địa điểm nghiên cứu: Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội

- Địa điểm thực nghiệm: Trường THCS Văn Phương - Nho Quan - Ninh Bình

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

Ngày đăng: 02/03/2022, 11:01

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2008) Quyết định số 53 ngày 18-9-2008 ban hành Quy định về việc đánh giá “Xếp loại thể lực cho học sinh - sinh viên” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xếp loại thể lực cho học sinh - sinh viên
12. Nguyễn Trọng Hải, Vũ Đức Thu (Bộ giáo dục- đào tạo) “Nghiên cứu đánh giá thực trạng phát triển các tố chất thể lực của sinh viên” Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế Đông Nam Á Việt Nam - 2003. NXB TDTT, Trang 87 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu đánh giá thực trạng phát triển các tố chất thể lực của sinh viên
Nhà XB: NXB TDTT
13. Lê Văn Lẫm (2000), “Tình hình phát triển thể chất của học sinh - sinh viên trước thềm thế kỷ 21”. NXB TDTT, Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình hình phát triển thể chất của học sinh - sinh viên trước thềm thế kỷ 21
Tác giả: Lê Văn Lẫm
Nhà XB: NXB TDTT
Năm: 2000
18. Vũ Đức Thu, Vũ Bích Huệ “Tình hình phát triển thể chất của học sinh phổ thông ở nước ta trong những thập kỷ qua” Kỷ yếu Hội nghị khoa học Đông Nam Á Việt nam - 2003. NXB TDTT, Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình hình phát triển thể chất của học sinh phổ thông ở nước ta trong những thập kỷ qua
Nhà XB: NXB TDTT
19. Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Quang Vinh: “Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá thể chất cho sinh viên trường Đại học sư phạm TDTT thành phố Hồ Chí Minh”Tuyển tập nghiên cứu khoa học TDTT. Trường Đại học TDTT Đà nẵng. Đà nẵng 2007. Trang 74 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá thể chất cho sinh viên trường Đại học sư phạm TDTT thành phố Hồ Chí Minh
22. Đề tài khoa học “Điều tra thể chất nhân dân 6 đến 20 tuổi” Viện khoa học TDTT - 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều tra thể chất nhân dân 6 đến 20 tuổi
2. Chỉ thị 133/TTg của Thủ tướng chính phủ về xây dựng và quy hoạch phát triển ngành thể thao ngày 07/03/1995 Khác
3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) - NXB Chính trị Quốc gia - Hà nội Khác
5. Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục của Bác Hồ (1981) tài liệu Đảng và nhà nước với TDTT - NXB TDTT, Hà nội 2006 Khác
11. 26. Lưu Quang Hiệp, Phạm Thị Uyên (1995), Sinh lý học TDTT, NXB, TDTT, Hà Nội Khác
14. Hồ Đắc Sơn, Vũ Đức Thu: Nghiên cứu thực trạng thể lực của sinh viên trường Đại học sư phạm Hà nội” Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế Đông Nam Á - Việt nam 2003” Trang 112. NXB TDTT. Hà nội 2003 Khác
15. Vũ Đức Thu. Báo cáo hoạt động của hội thể thao Đại học chuyên nghiệp Việt nam (2002). (Nội bộ) Khác
16. Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn (2000), Lý luận và phương pháp TDTT, NXB, TDTT, Hà Nội Khác
17. Đồng Văn Triệu, Lê Anh Thơ (2000), Lý luận và phương pháp GDTC trong trường học, NXB, TDTT, Hà Nội Khác
20. Nguyễn Đức Văn (2001). Phương pháp thống kê trong TDTT, NXB TDTT 21. Lê Văn Xem và Phạm Ngọc Viễn (2002), tài liệu tham khảo về lý luận, phươngpháp GDTC trong trường học, (tài liệu giảng dạy tâm lý TDTT dành cho cao học TDTT) Khác
23. Viên Vĩ Dân (2002), từ điển khoa học TDTT, NXB, giáo dục cao đẳng Bắc kinh Khác
24. Dietrich Harre (1983 - 1995), Học thuyết huấn luyện, NXB, TDTT, Hà Nội. Dịch: Trương Anh Tuấn Khác
25. I.M Iabladonxki (1996), Kỹ năng vận động và sự phát triển của chúng trong tập luyện TDTT, Matxcơva, NXB TDTT Khác
26. V.X. Ivanôp (1996). Những cơ sở toán học thống kê, NXB, TDTT, Hà Nội. Dịch: Trần Đức Dũng Khác
27. A.G. Novikov, G.P. Matveep (1980). Lý luận phương pháp giáo dục thể chất, NXB, TDTT, Hà Nội Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w