1.1. Đặt vấn đề Nhà trường là cơ sở quan trọng, là nơi đào tạo những chuyên gia có trí thức khoa học, những công dân có vai trò xứng đáng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng xã hội công bằng, văn minh. Để có những công dân như vậy, ở mỗi một quốc gia trước tiên phải chăm lo chu đáo từ lúc còn nhỏ và mọi người đều được hưởng chế độ giáo dục toàn diện. Trong đó có giáo dục thể chất, chăm sóc sức khỏe cho học sinh, sinh viên là một mặt giáo dục quan trọng. Giáo dục thể chất (GDTC) trong trường học các cấp là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện, đồng thời là một bộ phận quan trọng trong hệ thống GDTC của mỗi quốc gia. GDTC trong trường học đang góp phần cùng với Thể thao thành tích cao, đảm bảo cho nền Thể dục thể thao (TDTT) Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào phát triển cân đối và đồng bộ, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược củng cố, xây dựng và phát triển TDTT theo định hướng của đất nước, đưa nền TDTT của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hoà nhập và đua tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong trường học, GDTC là một phương tiện có hiệu quả để phát triển hài hòa cân đối hình thể, nhằm nâng cao năng lực thể chất và tố chất thể lực của người học. Đây là một lĩnh vực sư phạm chuyên biệt có tác động tích cực đối với việc rèn luyện và bồi dưỡng những phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức thẩm mỹ trong việc hình thành nhân cách cho người học sinh (người học), đồng thời làm tinh thần sáng khoái, chống mệt mỏi, bệnh tật... Nâng cao chất lượng GDTC trong trường học không chỉ là yêu cầu cấp bách trước tình hình giảm sút nghiêm trọng về sức khỏe, trình độ thể lực, chất lượng học văn hóa và rèn luyện nhân cách của người học trong những năm gần đây, mà còn là sự đòi hỏi thiết thực của việc mở rộng và phát triển TDTT trong nhà trường, nhằm thu hút thế hệ trẻ tự giác tham gia rèn luyện thân thể, đáp ứng yêu cầu xây dựng con người mới phát triển toàn diện. Trong công tác giáo dục trẻ em nói chung và giáo dục học sinh Tiểu học nói riêng thì việc hiểu biết và vận dụng các trò chơi, đối với từng nhóm tuổi cần phải được trang bị những kiến thức khoa học và phương pháp thực hiện một cách chu đáo và đầy đủ mới có thể nâng cao được hiệu quả của trò chơi. Thông qua đó giúp cho việc nâng cao có hiệu quả giáo dục đối với các em. Trò chơi vận động (TCVĐ) được coi là phương tiện hoàn thiện thể chất, rèn luyện các phẩm chất đạo đức, tâm lý, ý chí và làm phong phú thêm đời sống tinh thần, giúp các em có tình cảm gắn bó với nhau hơn. Thông qua trò chơi, các em củng cố các kỹ năng kỹ xảo cần thiết cho cuộc sống, hoàn thiện bản thân cả về thể chất và nhân cách. Trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn là một trong những Trường Tiểu học đi đầu của Thủ đô Viêng Chăn về công tác dạy và học. Trường có bề dày về truyền thống hiếu học, nhiều năm liền đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh. Thầy và trò Trường Tiểu học Nong Song Hong cũng đã tham gia tốt các hoạt động thể thao nội khoá cũng như ngoại khóa của trường và thành phố tổ chức. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác dạy học của trường nói chung và môn GDTC nói riêng ngày càng được bổ sung và nâng cấp cũng như xây mới. Thông qua quan sát và trực tiếp tìm hiểu công tác dạy và học môn GDTC chúng tôi nhận thấy còn một số hạn chế nhất định như: Phương pháp dạy học môn GDTC còn đơn điệu, việc áp dụng các trò chơi còn hạn chế, lặp lại, chưa phong phú về nội dung và hình thức làm giảm hứng thú của học sinh đối với môn học. Do đó hiệu quả của môn học còn chưa cao. Vì vậy, lựa chọn các trò chơi làm phong phú về nội dung của buổi học là việc làm cần thiết đối với môn GDTC của Nhà trường hiện nay. Đối với học sinh lớp 4 là năm học gần cuối cùng của bậc Tiểu học. Ở lứa tuổi này, các em đã phát triển tương đối toàn diện về mọi mặt. Nhân cách của các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển và đặc biệt nhân cách của các em còn mang tính đang hình thành. Tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ, trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới.Các em đã dần chuyển từ các hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập, đã tham gia vào các hoạt động lao động, xã hội ở gia đình và trong nhà trường. Song hoạt động vui chơi ở lứa tuổi này còn mang tính thụ động, nhất là các môn thực hành và đặc biệt là trong giờ học GDTC. Trong giờ học tập, các em còn muốn tham gia vào những trò chơi, những hoạt động tập thể. Vì vậy, vấn đề đặt ra là nhằm phát triển thể lực thông qua phần cứng của chương trình môn học GDTC, cần đa dạng hóa các loại hình bài tập cũng như bổ sung các TCVĐ trong từng tiết học để tăng tính hứng thú môn học cũng như phát triển các tố chất cần thiết cho các em sau này. Trường Tiểu học Nong Song nằm ở Huyện Xay Tha Ni, thủ đô Viêng Chăn được thành lập năm 1998, với diện tích khuôn viên trường vào khoảng 20.000m2. Năm đầu tiên thành lập trường có khoảng 200 học sinh và 9 thầy cô giáo. Cho tới nay năm 2019 nhà trường hiện có 760 học sinh và 22 giáo viên tham gia công tác giảng dạy. Hàng năm đều có học sinh tham gia thi học sinh giỏi tỉnh và quốc gia. Được Bộ Giáo Dục và Thể Thao Lào xếp vào top 100 trường có chất lượng đào tạo tốt nhất hiện nay. Trong qúa trình học tập và công tác bản thân tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu về môn GDTC, tại Lào đã có một số công trình nghiên cứu tác dụng của TCVĐ nhằm nâng cao thể lực cho học sinh các cấp ở các địa phương khác nhau. Nhưng đối với học sinh trường Tiểu học Nong Song Hong – thủ đô Viêng Chăn thì vấn đề này vẫn chưa có tác giả nào tiến hành nghiên cứu. Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng trò chơi vận động phát triển thể lực cho học sinh khối 4 trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Qua quá trình khảo sát và nghiên cứu thực trạng thể lực của học sinh khối 4 trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn, đề tài lựa chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động mới phù hợp với đặc điểm của đối tượng nghiên cứu và điều kiện của nhà trường, đó góp phần phát triển thể lực cho học sinh khối 4 và nâng cao chất lượng môn học GDTC trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn. 1.3. Mục tiêu nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra, đề tài xác định giải quyết 2 mục tiêu sau: Mục tiêu 1: Nghiên cứu thực trạng công tác GDTC tại trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn. Thực trạng chương trình môn GDTC cho học sinh Khối 4 trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn. Thực trạng đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn. Về việc sử dụng TCVĐ nhằm phát triển thể lực cho học sinh khối 4 trường Tiểu học Nong Song Hong – thủ đô Viêng Chăn. Lựa chọn test đánh giá trình độ thể lực cho đối tượng nghiên cứu. Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá thể lực cho đối tượng nghiên cứu. Đánh giá thực trạng thể lực của đối tượng nghiên cứu. Mục tiêu 2: Lựa chọn và đánh giá hiệu quả các trò chơi vận động nhằm phát triển thể lực cho học sinh khối 4 trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn. Lựa chọn các trò chơi vận động nhằm phát triển thể lực cho học sinh khối 4 trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn. Đánh giá hiệu quả TCVĐ nhằm phát triển thể lực cho học sinh khối 4 trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn.
Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát và nghiên cứu thực trạng thể lực của học sinh lớp 4 tại trường Tiểu học Nong Song Hong, Thủ đô Viêng Chăn, đề tài đã lựa chọn và áp dụng một số trò chơi vận động mới, phù hợp với đặc điểm của học sinh và điều kiện của nhà trường, nhằm nâng cao thể lực cho học sinh khối này.
4 và nâng cao chất lượng môn học GDTC trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn.
Mục tiêu nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra, đề tài xác định giải quyết 2 mục tiêu sau:
Mục tiêu 1 : Nghiên cứu thực trạng công tác GDTC tại trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn
- Thực trạng chương trình môn GDTC cho học sinh Khối 4 trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn
- Thực trạng đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn
- Về việc sử dụng TCVĐ nhằm phát triển thể lực cho học sinh khối 4 trường Tiểu học Nong Song Hong – thủ đô Viêng Chăn
-Lựa chọn test đánh giá trình độ thể lực cho đối tượng nghiên cứu
- Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá thể lực cho đối tượng nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng thể lực của đối tượng nghiên cứu
Mục tiêu 2 của nghiên cứu là lựa chọn và đánh giá hiệu quả các trò chơi vận động nhằm phát triển thể lực cho học sinh lớp 4 tại trường Tiểu học Nong Song Hong, thủ đô Viêng Chăn Việc này không chỉ giúp cải thiện sức khỏe mà còn nâng cao khả năng tham gia các hoạt động thể chất của học sinh.
- Lựa chọn các trò chơi vận động nhằm phát triển thể lực cho học sinh khối 4 trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn
- Đánh giá hiệu quả TCVĐ nhằm phát triển thể lực cho học sinh khối 4 trường Tiểu học Nong Song Hong – Thủ đô Viêng Chăn.
Giả thiết khoa học
Việc áp dụng một số TCVĐ trong giảng dạy GDTC tại Trường Tiểu học Nong Song Hong, Thủ đô Viêng Chăn, sẽ tạo ra sự hứng thú và hiệu quả trong tập luyện cho học sinh khối 4 Điều này không chỉ nâng cao thể lực của các em mà còn cải thiện chất lượng công tác giáo dục thể chất trong nhà trường.
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước Lào về giáo dục và thể thao
1.1.1 Giới thiệu chung về sự phát triển của nước CHDCND Lào
Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã trải qua nhiều biến động lịch sử từ thế kỷ 14, khi Vương Quốc Nam Chiếu thống trị Vào thế kỷ 14, vua Phạ Ngùm lên ngôi và đổi tên nước thành Lạn Xạng Trong các thế kỷ tiếp theo, Lào phải đối mặt với nhiều cuộc xâm lược từ Miến Điện và Sạ Yám (Thái Lan hiện nay) Đến thế kỷ 18, Sạ Yám kiểm soát Lạn Xạng, và vào thế kỷ 19, Lào nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Pháp, bị sáp nhập vào Đông Dương năm 1893 Trong Thế chiến thứ hai, Nhật Bản thay thế Pháp tại Đông Dương, nhưng sau khi Nhật đầu hàng vào ngày 12/10/1945, Lào tuyên bố độc lập Đầu năm 1946, Pháp trở lại xâm lược Lào, cho đến khi phong trào cộng sản Pạ Thệt Lào do hoàng thân Sụ Pha Nụ Vông lãnh đạo lật đổ chính quyền vương quốc vào năm 1975 Ngày 2/12/1975, Lào chính thức trở thành Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, được coi là ngày quốc khánh của đất nước.
1.1.2 Quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước Lào về giáo dục và thể thao
1.1.2.1 Quan điểm về giáo dục
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Nhân dân cách mạng Lào vào năm 2006, đất nước đã đặt ra hai mục tiêu phát triển quan trọng Mục tiêu đầu tiên là nâng cao kinh tế, và mục tiêu thứ hai là cải thiện giáo dục và thể thao Đến năm 2020, Lào phấn đấu trở thành một quốc gia đang phát triển, thoát khỏi tình trạng kém phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Trong hơn 20 năm qua, ngành giáo dục của nước CHDCND Lào đã có những bước phát triển mạnh mẽ và không ngừng đổi mới Sự tiến bộ này đặc biệt rõ nét sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng NDCM Lào, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong công tác giáo dục và đào tạo của đất nước.
(Hiện nay là Bộ Giáo dục Đào tạo và Thể thao) của Lào Đã đề ra 2 nhiệm vụ chiến lược đổi mới giáo dục theo 2 giai đoạn như sau:
Giai đoạn thứ 1: (Từ năm 2006 - 2010) Trong giai đoạn này có 3 nhiệm vụ chính như sau:
Dự án nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và mở rộng cơ hội trong công tác giáo dục, được thực hiện thông qua hai nhiệm vụ chính.
- Mở rộng cơ hội cho việc vào học
- Cải thiện nâng cao chất lượng giáo dục cho phù hợp với các ngành nghề
Dự án "Hai là" nhằm giải quyết vấn đề giáo viên và nâng cao năng lực bồi dưỡng cho lãnh đạo, quản lý giáo dục, sẽ được thực hiện theo kế hoạch chiến lược cải cách sư phạm Quốc gia giai đoạn 2006 - 2010 và 2011 - 2015.
Dự án Ba là nhằm phát triển trường đào tạo nghề và bồi dưỡng nghiệp vụ trên toàn quốc, phù hợp với kế hoạch chiến lược phát triển ngành nghề của Bộ Giáo dục Đào tạo và Thể thao.
Giai đoạn thứ II: (Năm 2011 - 2015)
Giai đoạn này tập trung vào việc tiếp tục thực hiện cải cách hệ thống giáo dục Quốc gia, đặc biệt là các dự án giải quyết vấn đề giáo viên và nâng cao trình độ giáo dục cho người lãnh đạo Đồng thời, sẽ triển khai các dự án cải thiện chất lượng giáo dục và mở rộng cơ hội giáo dục theo kế hoạch đã được đề ra.
1.1.2.2 Quan điểm về giáo dục thể chất và thể thao
Con người là hạt nhân của xã hội, và để xã hội bền vững, cần có những cá nhân tài năng, khỏe mạnh và có đạo đức Mục tiêu giáo dục là phát triển con người toàn diện với đạo đức, tri thức, sức khỏe, nghề nghiệp và văn hóa, đồng thời trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và dân chủ Để đạt được điều này, ngoài việc giáo dục về nhân cách và chuyên môn, giáo dục thể chất cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức khỏe cho con người.
TDTT đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao thể chất của người dân, cải thiện trình độ thể thao và làm phong phú đời sống văn hóa Qua đó, nó góp phần vào giáo dục con người, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc CHDCND Lào.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng NDCM Lào, ủy ban TDTT Lào đã được sáp nhập vào Bộ Giáo dục Đào tạo, hiện nay được gọi là Bộ Giáo dục Đào tạo và Thể thao.
Sau khi được đưa vào Bộ Giáo dục Đào tạo, ngành Giáo dục và Thể thao đã tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc về ngành Thể thao vào ngày 14 - 15/02/2013 Tại đại hội, quan điểm của Đảng và Nhà nước đã được nêu rõ, cùng với 5 chiến lược phát triển ngành Thể thao được đề ra.
- Phát triển TDTT phải gắn bó với giáo dục - văn hoá
- Phát triển TDTT phải đi đôi với sự đảm bảo giữa lý luận và thực tiễn
- Phát triển TDTT phải đảm bảo cho sự phát triển và bảo vệ Tổ quốc
- Phát triển TDTT phải mang tính bản chất dân tộc và khoa học hiện đại
Phát triển thể dục thể thao (TDTT) cần đảm bảo tính minh bạch trong quản lý và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định, tin tức và pháp luật Cải thiện cấu trúc hệ thống quản lý và phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương là rất quan trọng Cần có mục tiêu và kế hoạch rõ ràng để xây dựng một hệ thống phối hợp chặt chẽ, nâng cao hiệu quả trong hoạt động TDTT.
1.1.3 Mục tiêu TDTT trong trường học
- Mục tiêu TDTT trong trường giúp học sinh biết được một số kiến thức, kỹ năng cơ bản để tập luyện giữ gìn sức khỏe, nâng cao thể lực
- Góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, kỷ luật, thói quen tự giác tập luyện thể dục thể thao, giữ gìn vệ sinh
- Có sự tăng tiến về thể lực, đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và thể hiện khả năng của bản thân về thể dục thể thao
- Biết vận dụng ở mức nhất định những điều đã học và nếp sinh hoạt ở trường và ngoài nhà trường
Nghiên cứu về việc áp dụng trò chơi vận động trong Trường Tiểu học hiện nay cho thấy rằng để đạt hiệu quả trong giáo dục thể chất, nội dung chương trình cần phải bao quát đầy đủ các kiến thức cần thiết.
- Hệ thống tri thức về hiểu biết tác dụng phong phú của thiên nhiên tới việc nâng cao, bảo vệ sức khoẻ (Không khí, Ánh sáng, Môi trường,…)
- Hệ thống tri thức cơ bản về vệ sinh (Cơ thể, Lao động, Học tập, Vui chơi,…)
- Hệ thống tri thức cơ bản về phòng bệnh (Bệnh học đường, Cận thị, Cong vẹo cột sống,…)
- Hệ thống tri thức cơ bản về phương pháp tập luyện TDTT hiện đại và dân tộc (Trò chơi, kĩ thuật TDTT,…)
Hệ thống tri thức về phương pháp tập luyện thể dục thể thao và trò chơi có vai trò quan trọng trong sự phát triển của trẻ em Trò chơi không chỉ là nhu cầu thiết yếu mà còn là thế giới thu nhỏ giúp trẻ em chuẩn bị cho cuộc sống xã hội Qua trò chơi, trẻ em được trang bị các kỹ năng cần thiết, từ đó làm quen với đời sống xã hội Vì vậy, việc học và chơi không thể tách rời, mà cần được kết hợp chặt chẽ để hỗ trợ sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ.
Nghiên cứu ứng dụng các bài tập trò chơi vận động cho trẻ em tiểu học là việc cần thiết nhằm phát triển thể chất và nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động thể dục thể thao trong trường học Mục tiêu của đề tài này là đa dạng hóa các loại hình thể dục thể thao, giúp trẻ em tham gia tích cực và cải thiện sức khỏe.
Các khái khái niệm có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), sức khỏe không chỉ là sự vắng mặt của bệnh tật mà còn là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội Điều này cho phép mỗi cá nhân nhanh chóng thích ứng với các biến đổi môi trường, duy trì khả năng lao động lâu dài và làm việc hiệu quả.
Sức khỏe bao gồm sức khỏe cá nhân, sức khỏe cộng đồng và sức khỏe xã hội, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội Đây là yếu tố then chốt cho việc học tập, lao động, sản xuất và phát triển kinh tế Sức khỏe chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố xã hội, cá nhân và môi trường của mỗi quốc gia Hơn nữa, quá trình nuôi dưỡng và giáo dục có tác động lớn đến sức khỏe của con người.
Thể chất là chỉ số phản ánh chất lượng cơ thể con người, bao gồm những đặc điểm hình thái và chức năng tương đối ổn định Những yếu tố này được hình thành từ di truyền bẩm sinh và điều kiện sống, bao gồm giáo dục và rèn luyện Thể chất bao gồm ba thành phần chính: thể hình, khả năng chức năng và khả năng thích ứng của cơ thể.
Giáo dục thể chất: Theo Mátvêép L.P Nôvicốp A D khái niệm rằng
GDTC là quá trình giải quyết các nhiệm vụ giáo dục và giáo dưỡng cụ thể, với đặc điểm chung của quá trình sư phạm, hoặc được thực hiện qua hình thức tự giáo dục.
Theo Badtke, GDTC là việc áp dụng hệ thống bài tập thể chất bao gồm phát triển thể lực, hoàn thiện kỹ thuật và nâng cao khả năng phối hợp vận động Trong đó, hệ thống bài tập phát triển thể lực (TLC) đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện thể trạng và thể chất cho con người, đồng thời nâng cao thành tích cho vận động viên Thực tế cho thấy TLC bao gồm các bài tập phát triển các tố chất thể lực như sức nhanh, sức mạnh, sức bền, sự mềm dẻo và khéo léo.
Tác giả Aulic I.V nhấn mạnh rằng việc phát triển sức nhanh, sức mạnh, sức bền và khả năng phối hợp vận động ở lứa tuổi thanh thiếu niên cần được chú ý đặc biệt Trình độ phát triển này phải phù hợp với từng vị trí nhiệm vụ trong các thang độ tập luyện Sự tiến bộ trong thể lực có mối quan hệ chặt chẽ với việc áp dụng hệ thống bài tập, những bài tập này không chỉ nâng cao thể trạng mà còn giúp phát triển thành tích một cách bền vững Chỉ khi đó, sự phát triển mới tuân theo quy luật tự nhiên, tạo nền tảng vững chắc cho việc duy trì thể trạng và cải thiện thành tích của vận động viên.
Giáo dục thể chất (GDTC) là một phần thiết yếu của thể dục thể thao (TDTT), đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đạt và tiếp thu các giá trị TDTT trong hệ thống giáo dục, đặc biệt là trong nhà trường GDTC không chỉ là một hoạt động cơ bản mà còn là một quá trình tổ chức nhằm phát triển các tố chất vận động của con người thông qua việc dạy học vận động một cách có định hướng.
Vũ Đức Thu, Nguyễn Xuân Sinh và Lưu Quang Hiệp cùng một số tác giả khác đã định nghĩa giáo dục thể chất (GDTC) như một quá trình sư phạm, nhằm phát triển toàn diện thể chất và nhân cách cho thế hệ trẻ, nâng cao khả năng làm việc và kéo dài tuổi thọ con người.
Giáo dục thể chất (GDTC) được hiểu qua nhiều khái niệm khác nhau, nhưng nhìn chung, nó thể hiện hai khía cạnh quan trọng của quá trình này: giáo dục và giáo dưỡng.
Giáo dưỡng là quá trình giảng dạy và hướng dẫn các động tác vận động, nhằm phát triển kỹ năng và kỹ xảo vận động, đồng thời cung cấp những kiến thức liên quan cần thiết.
Quá trình giảng dạy động tác và phát triển tố chất thể lực có mối liên hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau nhưng không hoàn toàn đồng nhất Các giai đoạn phát triển và hoàn thiện thể chất của người tập sẽ có những đặc điểm và yêu cầu khác biệt.
Trạng thái thể chất chủ yếu phản ánh tình trạng cơ thể thông qua các chỉ số như chiều cao, cân nặng, vòng ngực và kích thước chân tay Những dấu hiệu này được xác định bằng các phương pháp đo lường đơn giản tại một thời điểm cụ thể.
Phát triển thể chất là quá trình hình thành và biến đổi các đặc điểm tự nhiên về hình thái và chức năng của cơ thể trong bối cảnh tự nhiên và xã hội Điều này có nghĩa là phát triển thể chất diễn ra một cách tuần tự và theo quy luật trong suốt cuộc đời mỗi người, bao gồm các yếu tố như hình thái, chức năng, tố chất thể lực và khả năng vận động.
Phát triển thể chất chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm di truyền, sự phát triển sinh học tự nhiên theo lứa tuổi và giới tính, cùng với nghề nghiệp Ngoài ra, phương pháp giáo dục và môi trường sống cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.
Hoàn thiện thể chất là quá trình nâng cao khả năng thể chất để đáp ứng hiệu quả các nhu cầu trong lao động, xã hội và chiến đấu, đồng thời góp phần kéo dài tuổi thọ và sự sáng tạo của con người.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất của con người
1.3.1 Các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất của con người
Yếu tố bẩm sinh (di truyền)
Di truyền là yếu tố bẩm sinh, quy định sự kế thừa và phát huy đặc tính của các thế hệ trước Điều này tuân theo quy luật tự nhiên của tất cả sinh vật trên trái đất Đối với con người, di truyền có vai trò quan trọng trong sự phát triển thể chất, vì những đặc điểm tốt hay xấu từ ông bà, cha mẹ sẽ được truyền lại cho con cháu Theo Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn (2000), viện sĩ Astaurốp đã nhấn mạnh rằng các phẩm chất này ảnh hưởng đến sự phát triển của thế hệ sau.
Các quy luật di truyền được xác định một cách nghiêm ngặt và khách quan, cho thấy rằng giáo dục và huấn luyện không phải là vô hạn Những giới hạn này được thiết lập bởi yếu tố di truyền.
Di truyền là yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển thể chất của mỗi cá nhân, thể hiện khả năng tiềm ẩn của họ Bằng cách hiểu rõ những khả năng này, chúng ta có thể hướng dẫn sự phát triển thể chất của cá nhân theo hướng phù hợp với nhu cầu của xã hội thông qua giáo dục, giáo dục thể chất, và cải thiện điều kiện sống cũng như môi trường học tập.
Các đặc tính di truyền từ chủng tộc và gia tộc có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình trao đổi chất, tiềm năng sinh trưởng của tế bào và cơ quan, cũng như khả năng điều tiết của hệ thần kinh trung ương và các tuyến nội tiết Những yếu tố này đóng vai trò quyết định trong việc hình thành thể hình và thể chất của các thế hệ con cháu.
Quy luật trưởng thành và phát dục của cơ thể người
Trưởng thành và phát dục là quá trình biến đổi về lượng và chất, diễn ra qua các giai đoạn liên tiếp Thời kỳ từ sơ sinh đến hết dậy thì chứng kiến sự biến đổi mạnh mẽ nhất, với chiều cao tăng 3 - 4 lần, trọng lượng tăng 10 - 30 lần, và dung tích sống tăng 5 - 10 lần Đặc biệt, trọng lượng bộ não trẻ em từ sơ sinh đến 7 tuổi tăng từ 350g lên 1400g Sự phát triển về chất được thể hiện qua sự phát triển mạnh mẽ của các tế bào thần kinh, cùng với khả năng tư duy, phân tích, tổng hợp và sáng tạo gia tăng Khả năng thể lực cũng cải thiện đáng kể, với sức mạnh tăng tới 40 - 50 lần Cuối cùng, quá trình này dẫn đến các giai đoạn ổn định về hình thái và chức năng, trước khi bước vào thời kỳ giảm sút khả năng hoạt động của cơ thể.
Theo Nguyễn Ngọc Cừ và Dương Nghiệp Chí, quá trình trưởng thành và phát dục cơ thể người được chia thành 8 giai đoạn phát triển liên tiếp và thống nhất, bao gồm: thời kỳ phôi phát dục, thời kỳ thai nhi, thời kỳ sơ sinh, thời kỳ bú mẹ, thời kỳ ấu nhi, thời kỳ trước tuổi đi học, thời kỳ tuổi đi học và thời kỳ thanh xuân phát dục.
Thời kỳ thanh xuân phát dục bắt đầu từ giai đoạn dậy thì (khoảng 13-17 tuổi) và kéo dài đến khi kết thúc giai đoạn này Đối với sinh viên đại học, độ tuổi từ 18-23 là thời điểm cơ thể đã phát triển hoàn thiện về hình thái và chức năng Trong giai đoạn này, khả năng thích ứng với các mối quan hệ xã hội và học tập tăng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu kỹ năng, kỹ xảo vận động và phát triển các tố chất thể lực.
Nhiệt độ không khí, khí hậu, nước, ánh sáng và địa hình tự nhiên là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất của con người Những yếu tố này không chỉ giúp cải thiện sức khỏe mà còn nâng cao khả năng hoạt động của con người Môi trường sống là nơi tồn tại và phát triển của tất cả sinh vật, bao gồm cả con người Theo tác giả Lưu Quang Hiệp, việc giữ gìn môi trường sống hiện nay là một trong những vấn đề cấp thiết nhất của toàn nhân loại.
Con người, là một thực thể tự nhiên, có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường xung quanh Sự phát triển thể chất của con người bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi môi trường sống Một môi trường trong sạch không chỉ tạo điều kiện tốt cho sức khỏe mà còn giúp đẩy lùi bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và nâng cao chất lượng cuộc sống Điều này khuyến khích con người yêu đời, có trách nhiệm với bản thân và xã hội, từ đó cống hiến nhiều hơn cho cộng đồng Đây là mục tiêu mà nhân loại đã phấn đấu không ngừng qua nhiều thế hệ.
Nhiệt độ không khí ảnh hưởng lớn đến chức năng sống và quá trình trao đổi nhiệt của cơ thể Con người có khả năng điều chỉnh thân nhiệt nhưng vẫn có giới hạn Nhiệt độ lạnh có thể gây ra các bệnh như cảm cúm, viêm họng, trong khi nhiệt độ cao làm cơ thể dễ nóng do khó khăn trong việc truyền nhiệt Rối loạn điều hòa thân nhiệt có thể xảy ra khi nhiệt độ đạt từ 30°C - 31°C với độ ẩm 80% - 90%, hoặc ở 40°C với độ ẩm 40% - 50% Độ ẩm cao kết hợp với nhiệt độ cao làm tăng nguy cơ say nóng do hạn chế quá trình tỏa nhiệt qua mồ hôi Ngược lại, khi độ ẩm thấp, cơ thể có thể thải nhiệt dễ dàng hơn, giúp chịu nóng tốt hơn Tuy nhiên, độ ẩm cao ở nhiệt độ thấp có thể dẫn đến cảm lạnh do tăng cường quá trình thải nhiệt.
Thời tiết là sự kết hợp phức tạp của các yếu tố môi trường khí quyển có ảnh hưởng đến cơ thể con người và điều kiện sống Sự hình thành thời tiết là kết quả của sự tương tác giữa các yếu tố khí quyển và bề mặt trái đất, được đánh giá thông qua các chỉ số như nhiệt độ, độ ẩm, áp suất không khí, tốc độ gió, bức xạ mặt trời, lượng mây, mưa, từ trường của trái đất và tính dẫn điện của không khí Tất cả những yếu tố khí tượng này tạo ra tác động tổng hợp lên cơ thể con người.
Sự thích nghi khí hậu là quá trình sinh học mà con người điều chỉnh để phù hợp với những điều kiện khí hậu mới Trong quá trình này, hệ thần kinh trung ương đóng vai trò quan trọng, giúp cơ thể thực hiện những nỗ lực cần thiết để thích ứng Sự thích nghi khí hậu không chỉ yêu cầu những thay đổi về chức năng mà còn ảnh hưởng đến khả năng hoạt động thể lực của con người.
Các yếu tố môi trường tự nhiên có tác động mạnh mẽ đến cơ thể sống, ảnh hưởng đến tâm lý và sức khỏe con người Để duy trì và nâng cao sức khỏe, đặc biệt ở trẻ nhỏ, việc tận dụng môi trường tự nhiên là rất quan trọng, vì đây là giai đoạn nền tảng cho sự phát triển toàn diện sau này Trong giáo dục thể chất, các yếu tố tự nhiên được áp dụng theo hai hướng khác nhau.
Sử dụng điều kiện tự nhiên trong tập luyện thể dục thể thao, như tập ngoài trời và dưới ánh nắng, giúp tăng cường hiệu quả của các bài tập Việc tập luyện trong các điều kiện địa hình đồi núi, thời tiết và múi giờ khác nhau không chỉ bổ sung mà còn nâng cao sức khỏe và năng lực vận động của cơ thể con người.
Sử dụng điều kiện tự nhiên để nâng cao sức khoẻ con người là một phương pháp hiệu quả Nước, ánh sáng và không khí được áp dụng dưới nhiều hình thức, giúp cơ thể thích nghi với các điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt như nóng, lạnh và không khí loãng thiếu oxy Qua đó, phương pháp này không chỉ cải thiện sức khoẻ và năng lực vận động mà còn góp phần kéo dài tuổi thọ.
Khái niệm, đặc điểm vai trò của trò chơi vận động
1.4.1 Khái niệm trò chơi vận động
Trò chơi có nhiều định nghĩa khác nhau tùy thuộc vào cách quan sát và tiếp cận vấn đề, nhưng nhìn chung, hầu hết các định nghĩa đều nhấn mạnh mục đích chính của trò chơi là mang lại sự vui vẻ và giải trí cho người chơi.
Theo từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1999, chữ "Trò" được định nghĩa là hình thức mua vui, trong khi "chơi" là hoạt động giải trí trong thời gian rảnh rỗi, ngoài giờ làm việc Do đó, "trò chơi" được hiểu là những hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi và giải trí của con người.
Theo quan điểm giáo dục học, trò chơi không chỉ là phương tiện phát triển toàn diện nhân cách mà còn là hình thức tổ chức cuộc sống Đối với trẻ em, trò chơi giúp tái tạo các hoạt động và mối quan hệ của người lớn, đồng thời định hướng nhận thức về đồ vật và xã hội Qua trò chơi, nhu cầu và phẩm chất về thể lực, trí tuệ, đạo đức và ý chí của trẻ được hình thành, thỏa mãn và phát triển.
Trong nghiên cứu về trò chơi dân gian Việt Nam, tác giả Nguyễn Toán nhấn mạnh rằng trò chơi là hoạt động mang tính chất vui vẻ và thoải mái, diễn ra trong bối cảnh đời sống con người tương đối đầy đủ Mục đích chính của trò chơi không phải là kiếm sống hay mang tính thực dụng, mà chủ yếu nhằm giải trí, nghỉ ngơi và rèn luyện thể chất cũng như tinh thần cho con người.
Trò chơi không chỉ là hoạt động giải trí mà còn phản ánh các khía cạnh lao động, sản xuất, và giáo dục văn hóa Nó đáp ứng nhu cầu vận động, giúp phát triển thể chất và hình thành kỹ năng vận động cùng nhân cách con người Qua việc tham gia trò chơi, con người được khơi dậy hứng thú, bồi dưỡng tình cảm, và phát triển sự sáng tạo, từ đó nâng cao nhận thức về tự nhiên, xã hội và bản thân Trò chơi ngày càng trở nên quan trọng, giúp trẻ em chuẩn bị tốt hơn cho các yêu cầu của xã hội.
Trò chơi là một hoạt động tự do, cho phép người tham gia hóa thân, trình diễn và đấu tranh theo những quy tắc nhất định Mục đích chính của trò chơi là đáp ứng nhu cầu về thể chất và tinh thần, đặc biệt là mang lại niềm vui và sự giải trí cho con người.
Theo các nhà khoa học thể thao như Senko (Nga), Lý Chí Cường (Trung Quốc) và Đào Bá Trì (Việt Nam), TCVĐ được định nghĩa là hoạt động của con người, bao gồm hai yếu tố chính.
- Vui chơi giải trí thỏa mãn nhu cầu về mặt tinh thần
Giáo dục thể chất không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc rèn luyện sức khỏe mà còn góp phần hình thành và phát triển đạo đức, ý chí, cũng như các tố chất, kỹ năng cần thiết cho cuộc sống Theo các nhà khoa học như Tăng Bồi Viêm (Trung Quốc), Nguyễn Toán và Lê Anh Thơ (Việt Nam), giáo dục thể chất là yếu tố thiết yếu trong quá trình giáo dục toàn diện.
Trò chơi là một hoạt động phong phú của con người, đóng vai trò quan trọng trong văn hóa xã hội và là công cụ hiệu quả trong giáo dục, đặc biệt đối với thanh thiếu niên và trẻ em.
Trò chơi vận động không chỉ giúp phát triển thể chất mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức và hình thành tác phong cho con người.
1.4.2 Đặc điểm, vài trò của TCVĐ:
Trong giáo dục thể chất, mục tiêu không chỉ là giảng dạy các động tác cụ thể mà còn là hoàn thiện các hoạt động vận động trong điều kiện phức tạp Phương pháp trò chơi được sử dụng để phát triển các năng lực như khéo léo, định hướng nhanh, và sáng kiến độc lập Đồng thời, nó cũng góp phần giáo dục tinh thần tập thể, tình bạn, ý thức kỷ luật, và các phẩm chất đạo đức khác.
Theo nhiều tác giả thì trò chơi là một nội dung, phương tiện, phương pháp giáo dục rèn luyện học sinh nhanh nhất và có hiệu quả nhất
Hầu hết các trò chơi vận động (TCVĐ) trong giáo dục thể chất ở trường học đều có mục đích rõ ràng Qua quá trình chơi, học sinh tương tác và hoàn thành nhiệm vụ cá nhân, đồng thời nhận được sự hỗ trợ từ tập thể Điều này không chỉ thúc đẩy tình bạn và lòng nhân ái mà còn góp phần phát triển tinh thần tập thể, từ đó giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho học sinh Vì vậy, có thể khẳng định rằng trò chơi mang tính giáo dục tư tưởng rất cao.
Trong quá trình tham gia trò chơi, các em thể hiện rõ ràng cảm xúc của mình như niềm vui khi chiến thắng và nỗi buồn khi thất bại Các em vui mừng khi thấy đồng đội hoàn thành nhiệm vụ và cảm thấy có lỗi khi không hoàn thành tốt phần việc của mình Để đạt được thắng lợi cho đội, các em sẵn sàng khắc phục khó khăn và phấn đấu hết mình Đây là đặc tính thi đua cao của thể thao vui chơi.
Trò chơi thường có quy tắc và luật lệ riêng, nhưng phương pháp đạt được mục tiêu lại rất đa dạng, đồng thời mang tính thi đua và tự giác cao Khi tham gia, học sinh thường phát huy tối đa khả năng, sức lực, sự tập trung, trí thông minh và sáng tạo của mình Tuy nhiên, cần tránh để các em chơi quá sức, dẫn đến mệt mỏi, vì điều này không chỉ không có lợi cho sức khỏe mà còn gây hại Đây là yếu tố quan trọng mà giáo viên cần lưu ý khi tổ chức trò chơi ở trường và hướng dẫn học sinh chơi hợp lý tại nhà Hiện nay, trò chơi rất phong phú và đa dạng, phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau.
Trò chơi thường có tính tư tưởng cao, tính tư tưởng thể hiện ở chỗ giúp các em hình thành được các phẩm chất tinh thần trong sáng, lành mạnh
Trò chơi mang tính cạnh tranh mạnh mẽ, với sự ganh đua cao giữa các cá nhân và đồng đội Sự phân thắng bại trong trò chơi làm tăng cường tính cạnh tranh, khiến cho cuộc thi trở nên quyết liệt hơn.
Phân loại, biên soạn và phương pháp giảng dạy TCVĐ
1.5.1 Phân loại trò chơi vận động
Nghiên cứu và thực tế tại Lào cùng các nước trong khu vực cho thấy trò chơi hiện nay rất phong phú và đa dạng, phục vụ nhiều mục đích khác nhau, đặc biệt là trong giáo dục, bao gồm giáo dục thể chất cho học sinh.
Việc phân loại trò chơi trở nên phức tạp do sự đa dạng và phong phú của chúng Trò chơi có thể được chia thành ba nhóm chính: trò chơi sáng tạo, trò chơi vận động và trò chơi thể thao Dưới đây là một số cách phân loại cụ thể.
Căn cứ vào những động tác cơ bản, trò chơi được phân loại thành các loại như nhảy, ném, leo, mang vác, và các trò chơi phối hợp giữa hai hoặc nhiều hoạt động Phân loại này giúp người dạy dễ dàng lựa chọn và áp dụng trong việc rèn luyện các kỹ năng vận động cơ bản cho học sinh.
Căn cứ vào sự phát triển các tố chất thể lực, các trò chơi có thể được phân loại thành trò chơi rèn luyện sức nhanh, sức bền và sức mạnh Tuy nhiên, phân loại này có thể không hoàn toàn chính xác, vì một trò chơi thường rèn luyện đồng thời nhiều tố chất thể lực khác nhau, không chỉ giới hạn ở một tố chất cơ bản.
Căn cứ vào khối lượng vận động, trò chơi được phân loại thành hai loại chính: trò chơi 'tĩnh' và trò chơi 'động' Trò chơi 'tĩnh' có khối lượng vận động không đáng kể, ví dụ như 'Bịt mắt bắt dê' và 'Bỏ khăn' Ngược lại, trò chơi 'động' có khối lượng vận động ở mức trung bình và cao, chẳng hạn như các trò chơi chạy tiếp sức như 'tiếp sức chuyển khăn', 'chạy đổi chỗ', và 'chạy thoi' Tuy nhiên, việc phân loại này đôi khi không chính xác, vì cường độ và khối lượng vận động của một trò chơi có thể thay đổi tùy thuộc vào cách tổ chức và điều khiển trò chơi.
Cách phân loại trò chơi thành hai nhóm chính và một nhóm phụ: Trò chơi chia đội, không chia đội và một nhóm phụ chuyển tiếp ở giữa
Nhóm trò chơi không chia đội có thể được phân loại thành hai loại: trò chơi có người điều khiển và trò chơi không có người điều khiển Trong đó, một số trò chơi cho phép tất cả người tham gia chơi cùng một lúc, trong khi những trò khác yêu cầu người chơi tham gia theo thứ tự Đặc điểm nổi bật của những trò chơi này là mỗi người chơi hoạt động độc lập, không cùng một đích, và mỗi cá nhân chịu trách nhiệm về nhiệm vụ của mình, như trong các trò chơi ‘ném bóng vào rổ’ hay ‘nhảy bao bố’.
Trò chơi chia thành đội yêu cầu số lượng người chơi trong các đội phải ngang nhau, bao gồm cả tỷ lệ nam và nữ Các trò chơi như ‘lăn bóng bằng tay’ và ‘lò cò tập thể’ thường có luật lệ nghiêm ngặt, như trong trò ‘kéo co’ cần quy định rõ cách đặt chân và cách cầm dây Mỗi đội phải hành động đồng loạt và phối hợp chính xác, vì thắng thua phụ thuộc vào mức độ hiệp đồng của từng đội Những trò chơi này không chỉ mang lại niềm vui mà còn giáo dục tinh thần tập thể, tính tổ chức và kỷ luật cho người chơi.
Nhóm phụ giữa các trò chơi có tính cá nhân nhưng có thể kết hợp thành các nhóm nhỏ khi cần thiết, mặc dù sự kết hợp này diễn ra ngẫu nhiên Một ví dụ điển hình là trò chơi "người thừa thứ 3".
Việc phân loại trò chơi có thể gặp khó khăn, vì nhiều trò chơi có thể thuộc về nhiều nhóm khác nhau Chẳng hạn, trò chơi như 'rồng rắn' và 'giành cờ' có thể được xếp vào nhiều loại cùng một lúc.
Dựa trên những phân tích trước đó, có nhiều phương pháp phân loại trò chơi, nhưng chưa có một cách phân loại hoàn chỉnh nào phản ánh đầy đủ đặc điểm và tính chất của trò chơi, đặc biệt là yếu tố giáo dục trong quá trình chơi và tổ chức hoạt động cho học sinh.
1.5.2 Cách biên soạn trò chơi
Thông thường các bước tiến hành biên soạn một TCVD gồm có:
- Đặt tên: tên trò chơi cần ngắn gọn thể hiện được nội dung mà chúng ta sẽ tiến hành, đôi khi cũng cần sự ngộ nghĩnh và gây cười
- Mục đích: nêu mục đích cụ thể, nhằm giáo dục tố chất hay bổ trợ chuyên môn cho môn thể thao nào? v.v…
Chuẩn bị: nêu rõ cần phải chuẩn bị những điều kiện về sân bãi, kích thước, dụng cụ… để tiến hành trò chơi
- Tổ chức thực hiện: chia đôi, phương hướng di chuyển, thao tác, thực hiện các yêu cầu của giáo viên, kết thúc một lần chơi ra sao
Luật chơi là những quy định mà người điều khiển trò chơi thiết lập, yêu cầu người chơi tuân thủ một cách nghiêm ngặt Những quy tắc này không chỉ nhằm mục đích giáo dục mà còn có thể đóng vai trò như một hình phạt vui vẻ, buộc người tham gia phải tuân theo, tương tự như trong một cuộc thi đấu thể thao thực thụ.
Để đảm bảo an toàn cho người chơi, cần lưu ý rằng việc tuân thủ nghiêm ngặt luật chơi là rất quan trọng Điều này không chỉ giúp tránh những chấn thương đáng tiếc mà còn tạo ra một môi trường chơi công bằng và chuyên nghiệp.
1.5.3 Phương pháp giảng dạy TCVĐ:
Để tổ chức hướng dẫn trò chơi cho học sinh Tiểu học một cách hiệu quả và an toàn, giáo viên cần chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi này Bước đầu tiên là chọn trò chơi phù hợp từ chương trình sách hướng dẫn giảng dạy, xác định rõ mục đích và yêu cầu của trò chơi Ví dụ, trong hoạt động ngoại khóa ngoài trời, giáo viên có thể tổ chức các trò chơi như “chạy tiếp sức” hay “tiếp sức chuyển vật” để thu hút học sinh tham gia thi đua Đồng thời, giáo viên cần cân nhắc trình độ, sức khỏe, giới tính và địa điểm tổ chức để đảm bảo trò chơi diễn ra thuận lợi và hấp dẫn.
Giáo viên cần chuẩn bị các phương tiện cho học sinh trước khi tổ chức các hoạt động thể chất Ví dụ, khi yêu cầu học sinh mang dây nhảy cá nhân, giáo viên nên nhắc nhở các em trong giờ học trước và tiếp tục nhắc lại một lần nữa vào ngày hôm sau để đảm bảo các em nhớ Đối với giáo viên, việc chuẩn bị phương tiện như vật mốc và bón cũng cần được thực hiện trước giờ học Ngoài ra, việc kẻ vẽ sân chơi cũng cần được chuẩn bị trước, nếu sử dụng vôi nước hoặc sơn; còn nếu dùng phấn thì nên thực hiện ngay trong giờ học.
Sau khi xác định địa điểm, giáo viên hướng dẫn học sinh thu gom các vật dụng nguy hiểm và dọn dẹp khu vực chơi, nhằm đảm bảo môi trường học tập an toàn và lành mạnh.
Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học
Học sinh Tiểu học từ 10 đến 12 tuổi cần lựa chọn bài tập thể dục và trò chơi vận động phù hợp với độ tuổi của mình Việc này yêu cầu giáo viên phải hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý và tâm lý của lứa tuổi này để đảm bảo hiệu quả trong việc phát triển thể chất và tinh thần cho các em.
Hệ thần kinh có sự mạnh mẽ và ổn định, với các phản xạ có điều kiện bền vững và ức chế nội tại rõ rệt Hệ thống tín hiệu phát triển mạnh mẽ, cho phép trẻ mô tả và tiếp thu thông tin qua ngôn ngữ, đồng thời hấp thụ cảm giác vận động Tuy nhiên, ảnh hưởng điều chỉnh từ vỏ não đến các vùng dưới não vẫn còn yếu, dẫn đến sự tập trung chú ý chưa bền vững.
Quá trình trao đổi chất và năng lượng trong cơ thể cho thấy sự chiếm ưu thế của quá trình đồng hóa so với quá trình dị hóa Điều này dẫn đến việc trẻ em tiêu hao năng lượng nhiều hơn so với người lớn trong cùng một hoạt động.
Huyết áp: Cũng tăng dần theo lứa tuổi, trẻ em sự tăng huyết áp yếu hơn so với người lớn
Hệ tuần hoàn ở trẻ em có khối lượng máu tỷ lệ với trọng lượng cơ thể cao hơn so với người lớn, và kích thích tim mạch tăng dần theo lứa tuổi Nhịp tim của trẻ không ổn định, và sự phục hồi tim mạch sau hoạt động thể lực phụ thuộc vào mức độ vận động Sau khi thực hiện hoạt động thể lực nhẹ, trẻ phục hồi nhanh hơn người lớn, nhưng sau khi tham gia vào hoạt động thể lực nặng, trẻ lại phục hồi chậm hơn so với người lớn.
Hệ hô hấp của trẻ em có đặc điểm thở nhanh và không ổn định, với tỷ lệ hít vào và thở ra bằng nhau Tần số hô hấp của trẻ dao động từ 18 đến 27 lần mỗi phút Mặc dù dung tích phổi của trẻ lớn hơn so với người lớn, nhưng dung tích sống trên 1kg da của trẻ lại thấp hơn.
Ở lứa tuổi từ 10 đến 12, tri giác của trẻ thường thiếu chính xác và vội vàng, dẫn đến sai sót trong các động tác Để hỗ trợ học sinh, giáo viên nên sử dụng phương tiện trực quan như hình vẽ và biểu bảng với nội dung đơn giản, nhấn mạnh những yếu tố cần thiết Do tri giác không gian chưa phát triển, giáo viên cần đứng cùng chiều với học sinh khi giảng dạy hoặc sử dụng phương pháp soi gương, đồng thời giải thích rõ ràng để học sinh hiểu Đặc biệt, trẻ em thường không tự nhận ra lỗi trong nhịp điệu mà chỉ có thể hoàn thành động tác khi có sự hỗ trợ từ nhịp điệu.
Khả năng tập trung chú ý ở lứa tuổi này thường chưa cao, với sự chú ý không chủ định chiếm ưu thế Mặc dù vậy, một số trẻ em vẫn có khả năng tập trung tốt Sự di chuyển chú ý của các em chưa linh hoạt và khối lượng chú ý còn hạn chế.
Sự phân phối chú ý chưa đúng mức
Trí nhớ ở lứa tuổi này chủ yếu mang tính trực quan hình tượng, giúp trẻ dễ dàng ghi nhớ sự việc qua những hình ảnh cụ thể Tính không chủ định trong trí nhớ chiếm ưu thế, khiến trẻ chưa hoàn thiện khả năng nhớ động tác một cách chính xác Trẻ thường tiếp thu các động tác máy móc mà không có sự phê phán, dẫn đến việc lẫn lộn giữa những động tác có cử động tương tự Do đó, cần giải thích rõ ràng sự khác biệt giữa các động tác để phát triển khả năng phân biệt của trẻ.
Tiến bộ trong khả năng tưởng tượng thường phản ánh sự phát triển chủ quan, chủ yếu thông qua quá trình tập luyện và vui chơi.
Tư duy của trẻ em có sự chuyển biến từ cụ thể sang trừu tượng, giúp các em có khả năng phân tích quá trình thực hiện động tác của bản thân và người khác.
Cảm xúc của trẻ em phụ thuộc vào đặc điểm của hệ thần kinh, với quá trình hưng phấn chiếm ưu thế, dễ dẫn đến mệt mỏi và ảnh hưởng đến cảm xúc trong vui chơi và tập luyện Cảm xúc thường biểu hiện ra bên ngoài, chưa biết che giấu, và có thể thay đổi nhanh chóng Do đó, giáo viên cần thận trọng trong việc nhận xét và phê bình, đồng thời tạo ra cảm xúc tích cực cho học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ vận động Về ý thức, trẻ em chưa phát triển đầy đủ, khó xác định mục tiêu hành động và thiếu tính kỷ luật, quyết tâm Tính kiên trì chưa rõ ràng, các em thường chỉ tập trung vào mục tiêu trước mắt mà chưa có kế hoạch dài hạn Hơn nữa, do chưa nhận thức được những khó khăn, trẻ dễ bị chấn thương Vì vậy, giáo viên cần giải thích rõ yêu cầu của từng động tác và điều chỉnh phù hợp với khả năng của học sinh.