1. Trang chủ
  2. » Giáo án - Bài giảng

Giáo trình Lịch sử âm nhạc thế giới

113 65 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 113
Dung lượng 807,56 KB

Cấu trúc

  • Bài 1. Âm nhạc Châu âu thời kỳ nguyên thủy, cổ đại, trung cổ (0)
    • 1. Âm nhạc thời kỳ nguyên thủy (12)
    • 2. Âm nhạc thời kỳ cổ đại (13)
    • 3. Âm nhạc thời kỳ trung cổ (14)
      • 3.1 Âm nhạc dân gian, âm nhạc nhà thờ (14)
        • 3.1.1 Âm nhạc dân gian (14)
        • 3.1.2 Âm nhạc nhà thờ (14)
      • 3.2. Các trung tâm âm nhạc thời Trung cổ (15)
        • 3.2.1. Âm nhạc Trung Hoa (15)
        • 3.2.2. Âm nh ạ c Ả R ậ p (15)
        • 3.2.3. Âm nhạc Slaves (15)
        • 3.2.4. Âm nhạc tây âu (15)
  • CHƯƠNG II. ÂM NHẠC CHÂU ÂU THỜI KỲ PHỤC HƯNG (17)
    • Bài 1: Âm nhạc thời kỳ Phục hưng (17)
      • 1. Khái quát Âm nhạc Phục hưng (17)
      • 2. Các trung tâm Âm nhạc nổi bật (17)
  • CHƯƠNG III: ÂM NHẠC CHÂU ÂU THẾ KỶ XVII - XVIII (20)
    • Bài 1: Nhà soạn nhạc G. F. Henden (20)
      • 1. Thân thế sự nghiệp (20)
      • 2. Ngôn ngữ Âm nhạc (21)
      • 3. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu (21)
    • Bài 2: Nhà soạn nhạc Giohan Xebaxchien Bắc (22)
      • 1. Tiểu sử (22)
      • 2. Ngôn ng ữ và th ủ pháp âm nh ạ c (22)
      • 3. Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu (23)
  • CHƯƠNG IV: TRƯỜNG PHÁI ÂM NHẠC CỔ ĐIỂN VIÊN (25)
    • Bài 1: Khái quát trường phái Âm nhạc Cổ điển Viên (25)
      • 1. Sự hình thành và phát triển (25)
      • 2. Những thành tựu cơ bản (25)
    • Bài 2: Nhà soạn nhạc Christophe Wilibald Gluck (25)
      • 1. Cược đờ i và s ự nghi ệ p (26)
      • 2. cuộc cải cách nhạc kịch của gluck (27)
    • Bài 3: Nhà soạn nhạc Josepn Haydn (30)
    • Bài 4: Nhà soạn nhạc W. A. Mozart (33)
      • 2. Ngôn ngữ âm nhạc (33)
    • Bài 5: Nhà soạn nhạc Ludwig Van Beethoven (36)
      • 1.1 Những năm tuổi thơ ở quê hương (36)
      • 1.2 Thời sớm ở Viên (1792-1802) (36)
      • 1.3 Giai đoạn thành thục (1803- 1812) (36)
      • 1.4 Những năm cuối đời (1816 -1827) (36)
      • 3. Th ể lo ạ i sáng tác và tác ph ẩ m tiêu bi ể u (37)
        • 3.1 Các tác phẩm Sonate cho Piano (37)
        • 3.2 Các tác phẩm viết cho dàn nhạc giao hưởng (37)
  • CHƯƠNG IV. CHỦ NGHĨA ÂM NHẠC LÃNG MẠN (39)
    • Bài 1: Chủ nghĩa Âm nhạc Lãng mạn (39)
    • Bài 2: Nhà soạn nhạc F. Schubert (41)
      • 3. Th ể lo ạ i và các tác ph ẩ m tiêu bi ể u (41)
    • Bài 3: Nhà soạn nhạc C. M. Vêbe (Carl Marie Weber) (44)
      • 2. Sự nghiệp sáng tác (44)
    • Bài 4: Nhà soạn nhạc Phêlit Menđenxon Batođi (46)
    • Bài 5: Nhà soạn nhạc Robert Schuman (49)
    • Bài 6: Nhà soạn nhạc Giochino Rossini (51)
      • 2. Thể loại và các tác phẩm tiêu biểu (51)
    • Bài 7: Nhà soạn nhạc Hector Berlioz (53)
    • Bài 8: Nhà soạn nhạc Federic Chopin (54)
    • Bài 9: Nhà soạn nhạc Mikhail Glinka (56)
      • 2. Ngôn ng ữ Âm nh ạ c (56)
    • Bài 10: Nhà soạn nhạc Frank Liszt (58)
    • Bài 12: Nhà soạn nhạc Johanhs Bramhs (59)
    • Bài 13: Nhà so ạ n nh ạ c Josph Verdi (61)
    • Bài 14: Nhà soạn nhạc George Bizet (63)
      • 1. cuộc đời và sự nghiệp (63)
    • Bài 15: Nhà soạn nhạc Bedrich Smetana (69)
    • Bài 16: Nhà soạn nhạc Antonin Dvorak (1841- 1904) (75)
    • Bài 17: Nhà soạn nhạc Edvard Grieg (80)
      • 3.1. Sáng tác piano; (83)
      • 3.2 sonate; (83)
      • 3.3. concerto piano và dàn nh ạ c - amoll op.16 (83)
    • Bài 19: Các nhạc sĩ nhóm khỏe của Nga (85)
      • 1. M.a.balakirev (1836-1910) (86)
      • 2. césar cui (1835-1918) (87)
      • 3. a.p.borodine (1833-1887) (87)
        • 3.1. cu ộc đờ i và s ự nghi ệ p (87)
        • 3.2. tác ph ẩ m (88)
      • 4. M. p. moussorgski (1839-1881) (89)
        • 4.1. Cu ộc đờ i và s ự nghi ệ p (90)
        • 4.2. tác ph ẩ m (91)
        • 4.3. Sáng tác khí nh ạ c (93)
      • 5. N.A.Rimsky-Korsakov (1844-1908) (94)
        • 5.1. Cu ộc đờ i và s ự nghi ệ p (94)
        • 5.2. Tác ph ẩ m (95)
    • Bài 20: V. Piotr illitch Tchaikovski (1840-1893) (97)
      • 2. Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu (98)
        • 2.1. giao hưở ng (98)
        • 2.2. Nh ạ c k ị ch (99)
        • 2.3. Nh ạc vũ kị ch (ballet) (100)
        • 2.4. Sáng tác cho các th ể lo ạ i khác (100)
  • CHƯƠNG V: ÂM NHẠC THẾ KỶ XX (102)
    • Bài 1. Nhà soạn nhạc Claude debussy (102)
      • 1. Thân th ế s ự nghi ệ p (102)
      • 2. Hoạt động về Âm nhạc (103)

Nội dung

Âm nhạc Châu âu thời kỳ nguyên thủy, cổ đại, trung cổ

Âm nhạc thời kỳ nguyên thủy

Thời nguyên thủy được xem là giai đoạn sơ khai của âm nhạc, mang tính nguồn gốc và đặc trưng cho từng cộng đồng Âm nhạc nguyên thủy thể hiện nghệ thuật tự biên, tự diễn, chưa có sự xuất hiện của âm nhạc chuyên nghiệp.

Dấu tích đầu tiên của nghệ thuật nguyên thủy xuất hiện từ thời kỳ đồ đá cũ và đồ đá mới, khi xã hội chưa có giai cấp Các cuộc khai quật khảo cổ đã phát hiện những di tích âm nhạc cổ xưa cùng với hình vẽ trên vách đá và trong hang động, mô tả cảnh săn bắn, diễn xuất và nghi lễ tín ngưỡng Những hình ảnh này cho thấy âm nhạc đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống lao động và đấu tranh của cộng đồng Ngoài ra, các nhạc cụ thô sơ được làm từ xương và các vật liệu khác như còi và sáo cũng đã được tìm thấy.

Hoạt động nghệ thuật nguyên thủy mang tính tập thể, không phân biệt giữa người sáng tác, biểu diễn và thính giả, với những bài ca cổ xưa thể hiện tình cảm chung của xã hội bộ tộc Qua thời gian, biểu diễn nghệ thuật phát triển thành hai dạng chính: đồng ca và đơn ca Các bài ca thường có cấu trúc hình tượng đơn giản nhưng được đa dạng hóa qua biến khúc và thay đổi âm sắc, cường độ Ngoài ra, các bài ca còn tích hợp nhiều yếu tố thể loại khác nhau như lao động, phong tục, ngợi ca, trữ tình và anh hùng.

Một trong những thành tựu nổi bật của văn hoá âm nhạc trong chế độ không giai cấp là sự phát triển của các hình thức âm nhạc nhiều bè Nhiều bộ tộc đã sáng tạo ra các dạng âm nhạc nhiều bè khác nhau, đặc biệt là hình thức phỏng mẫu, thể hiện sự phong phú và đa dạng trong truyền thống âm nhạc của họ.

Người nguyên thủy đã sử dụng nhạc cụ như một phương tiện quan trọng để làm phong phú thêm âm sắc và nhấn mạnh tiết tấu trong âm nhạc Mặc dù những nhạc cụ này còn thô sơ, nhưng chúng lại rất đa dạng về chủng loại.

Sáo được làm từ xương động vật hoặc thân cây

Nhạc cụ gõ là những vật thể phát ra âm thanh từ các chất liệu rắn, được tạo ra bằng cách gõ vào nhau, đập xuống mặt đất hoặc lắc các vật thể rỗng chứa hạt khô, cứng Chúng thường được sử dụng để đệm cho hát và múa, tạo nên nhịp điệu phong phú cho các buổi biểu diễn.

Nhạc cụ dây, được phát triển từ chiếc cung dùng để săn bắn, đã trải qua nhiều quá trình thay đổi để hoàn thiện Qua các thời đại, nhạc cụ này được biết đến với tên gọi là harpe (hác-pơ).

Nền âm nhạc nguyên thủy có những đặc trưng nổi bật được kế thừa và phát triển qua các thời đại Đồng thời, nhiều hoạt động âm nhạc vẫn được duy trì gần như nguyên vẹn trong một số cộng đồng người ở các vùng khác nhau trên thế giới.

Dựa trên kết quả và các chứng cứ từ các ngành khoa học cũng như quan sát hoạt động âm nhạc của một số cộng đồng nhỏ, có thể khẳng định rằng những nhận xét về văn hóa âm nhạc thời nguyên thủy mang tính khoa học và logic.

Âm nhạc thời kỳ cổ đại

Thời kỳ cổ đại với chế độ chiếm hữu nô lệ đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của nhân loại Tuy nhiên, sự phân chia đẳng cấp trong xã hội đã dẫn đến mâu thuẫn giai cấp ngày càng gia tăng, gây ra nhiều cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô Những xung đột này được phản ánh rõ nét trong nghệ thuật, đặc biệt là trong âm nhạc.

Nghệ thuật âm nhạc trong chế độ chiếm hữu nô lệ được chia thành hai loại: âm nhạc của đại đa số nhân dân và âm nhạc của tầng lớp quý tộc, vua chúa Trong thời cổ đại, âm nhạc dân gian tiếp tục phát triển, đồng thời xuất hiện những yếu tố của âm nhạc chuyên nghiệp Đầu tiên là âm nhạc chuyên nghiệp bình dân, nơi các ca sĩ và nhạc công sử dụng giọng hát và nhạc cụ để biểu diễn và kiếm sống Tiếp theo, tầng lớp quý tộc và vua chúa có nhu cầu về âm nhạc, dẫn đến việc họ tuyển chọn nghệ sĩ vào các dinh thự để thực hiện nghi thức và thỏa mãn nhu cầu giải trí, hình thành nên âm nhạc chuyên nghiệp quý tộc, cung đình Tất cả những loại nhạc này đều thuộc dòng nhạc thế tục.

Trong thời cổ đại, âm nhạc đóng vai trò quan trọng trong các lễ nghi tín ngưỡng tôn giáo tại các đền đài và nhà thờ, mặc dù không phổ biến Dòng nhạc này được gọi là nhạc tôn giáo.

Âm nhạc thời cổ đại đã phát triển vượt ra ngoài những mục đích thực dụng như trong thời nguyên thủy Nó đã khẳng định vai trò quan trọng trong cuộc sống, đến mức các nhà triết học thời bấy giờ sử dụng âm nhạc như một công cụ giáo dục.

Âm nhạc thời cổ đại đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong sáng tác, biểu diễn, chế tác nhạc cụ và giáo dục Các môn khoa học về mỹ học và lý thuyết âm nhạc cũng đã xuất hiện, cùng với sự hình thành cách ghi nhạc ở một số quốc gia Thời kỳ này chứng kiến sự phong phú của âm nhạc với nhiều chủ đề và thể loại mới, vang lên không chỉ trong các đền đài và cung đình mà còn trong đời sống xã hội Sáng tác dân gian trở thành kho tàng phong phú, đóng vai trò nền tảng cho nghệ thuật chuyên nghiệp và nghệ thuật quý tộc.

Những trung tâm Âm nhạc lớn. Ở Châu Phi có nền văn minh Ai Cập; Châu Á có nền văn minh Lưỡng Hà, Syrie

Nền văn minh thế giới bao gồm nhiều khu vực đa dạng như Xi-ri, Palestrine, Ấn Độ, Trung Hoa, cùng với nền văn minh Văn Lang và Âu Lạc ở Việt Nam Tại Châu Âu, nền văn minh Hy Lạp và La Mã đóng vai trò quan trọng, trong khi ở Trung và Nam Mỹ, nền văn minh Andes và văn minh Maya của người da đỏ cũng góp phần làm phong phú thêm di sản văn hóa nhân loại.

Nền âm nhạc của Ai Cập, Lưỡng Hà, Palestrina, Ấn Độ, Trung Hoa, Hy Lạp và La Mã rất phong phú và đa dạng, với những kiểu điệu thức và quy luật tiết tấu, nhịp điệu hoàn chỉnh Các quốc gia này đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển âm nhạc, đặc biệt trong lĩnh vực nhạc cụ và nghiên cứu âm nhạc.

Những giá trị nghệ thuật được sáng tạo từ những nền văn minh đầu tiên có ý nghĩa lịch sử rất lớn cho toàn nhân loại.

Âm nhạc thời kỳ trung cổ

Thời Trung cổ, kéo dài gần một nghìn năm, chứng kiến sự phát triển đáng chú ý của âm nhạc châu Âu với nhiều hiện tượng mới Lịch sử âm nhạc thời kỳ này phản ánh cuộc đấu tranh giữa nhạc dân gian, nhạc bình dân và nhạc nhà thờ cùng nhạc quý tộc.

3.1 Âm nhạc dân gian, âm nhạc nhà thờ

3.1.1 Âm nhạc dân gian Âm nhạc dân gian tồn tại và phát triển trong quần chúng nhân dân, nó không chỉ đem đến niềm vui mà còn cả sự thông cảm, chia sẻ những nỗi buồn khổ, mà người dân đang chịu đựng, mặt khác vạch trần sự tàn ác của giai cấp thống trị Vì vậy, chính quyền phong kiến và nhà thờ đã truy đuổi và bóp chết họ bằng những luật lệ cực kỳ dã man, hà khắc Nhưng sáng tác dân gian không hề bị tiêu diệt, mà luôn là ngọn nguồn vô tận, tràn đầy sinh lực

Lúc đầu, âm nhạc dân gian có vị trí lớn trong các nhà thờ thiên chúa giáo

Ca sĩ hát rong đã sử dụng nhiều loại nhạc cụ dân gian phong phú từ các vùng đất mà họ đã đi qua, bao gồm nhạc cụ dây không có vĩ, nhạc cụ dây có vĩ, nhạc cụ hơi và nhạc cụ gõ.

3.1.2 Âm nhạc nhà thờ Âm nhạc nhà thờ ở thời kỳ đầu của thời Trung cổ đã dùng các giai điệu của nhạc thế tục để phổ lời theo nội dung của họ Âm nhạc là một phương tiện mạnh mẽ để tuyên truyền tôn giáo, thu hút giáo dân, tạo ảnh hưởng to lớn trong quần chúng

Từ thế kỷ IV đến VII, Rôma đã hoàn thiện việc tuyển chọn và sáng tác để hệ thống hóa các lối hát của nhà thờ, trong đó nổi bật là Đồng ca Grigorie Đây là loại hát một bè, bao gồm cả đồng ca và đơn ca, có nội dung từ kinh Phúc âm và các chủ đề tôn giáo, chỉ được biểu diễn trong không gian nhà thờ.

Messa là một loại hát nghi lễ phát triển từ đồng ca Grigorie, bao gồm năm phần với giai điệu được thể hiện trên những lời ca không thay đổi Âm nhạc thế tục đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhà thờ, dẫn đến sự hình thành của nhiều thể loại khác như Sequentia, Tropi và Dramma liturgia.

3.2 Các trung tâm âm nhạc thời Trung cổ

3.2.1 Âm nhạc Trung Hoa Đến thế kỷ XII - XIII, sân khấu cổ Trung Hoa được hoàn thiện, giống như Opera hoặc ca kịch Đó là thể loại tổng hợp phức tạp, gồm có nhảy múa, động tác kịch câm, đối thoại, hát với phần đệm của nhạc cụ Chủ đề của các vở được xây dựng từ truyền thuyết dân gian, các nhân vật anh hùng trong lịch sử đấu tranh với kẻ thù của nhân dân Tư tưởng chính của các ca kịch này là cuộc đấu tranh giữa cái thiện, ác

Nền mỹ học và lý thuyết âm nhạc Ả Rập đã phát triển vượt bậc trên cơ sở học thuyết cổ về âm nhạc, tạo tiền đề cho lý thuyết âm nhạc thời Trung cổ ở Tây Âu Người Ả Rập sử dụng đa dạng các nhạc cụ như trống, nhạc cụ xóc, nhạc cụ thổi, sáo, gaida, harpe, sixtre và lyth, đồng thời là một trong những dân tộc đầu tiên phát triển nhạc cụ dây dùng vĩ kéo (rabab = vièle) sau Ấn Độ Âm nhạc Ả Rập chủ yếu là một bè, gắn liền với thơ ca và thể hiện nhiều cảm xúc trữ tình, với tiết tấu tự do Vai trò của âm nhạc Ả Rập trong thời Trung cổ rất quan trọng, góp phần tạo nên bước ngoặt cho nghệ thuật trữ tình thế tục của các ca sĩ - hiệp sĩ (troubadour).

Người Slaves sở hữu một nền văn hóa nghệ thuật phong phú, không chỉ giới hạn ở dân ca và dân vũ mà còn bao gồm nhiều loại nhạc cụ đa dạng Họ phát triển nghệ thuật nhạc đàn với những dàn nhạc kết hợp nhiều tổ hợp nhạc cụ, tương tự như truyền thống âm nhạc của người Tiệp.

Một trong những thành tựu nổi bật của âm nhạc Slaves thời Trung cổ là sự chú trọng đến nghiên cứu và giáo dục âm nhạc, đặc biệt là tại trường Đại học tổng hợp Praha, nơi có khoa đào tạo nghệ thuật tự do bao gồm cả lý thuyết và thực hành.

Trong thời Trung cổ, nền âm nhạc Tây Âu đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đặc biệt trong lý thuyết âm nhạc Thời kỳ này chứng kiến sự hoàn thiện trong việc ghi chép và đọc nhạc, cũng như hệ thống hóa các điệu thức âm nhạc.

Lối ghi nhạc và đọc nhạc:

Lối ghi nhạc và đọc nhạc vẫn là một thách thức lớn trong thực tiễn âm nhạc Cho đến thế kỷ IX, nhạc được ghi theo phương pháp "nơm" (neuma) Đến thế kỷ XI, Guido d'Arezzo đã có những đóng góp quan trọng trong việc cải tiến hệ thống ghi chú âm nhạc.

Vào năm 1050, một cải tiến trong hệ thống ghi âm nhạc đã được thực hiện tại Ý, với việc sử dụng vần đầu tiên của sáu câu thơ trong bài Hymne để đặt tên cho các âm thanh: ut, rê, mi, fa, sol, la Ông đã áp dụng bốn đường kẻ ngang với màu sắc khác nhau, trong đó âm đô (ut) được đánh dấu bằng màu vàng và âm fa bằng màu đỏ, giúp tạo ra độ chính xác cao giữa các âm Đến thế kỷ XVI, vạch nhịp mới xuất hiện trong hệ thống ghi này Âm nhạc Tây Âu thời Trung cổ được cấu thành từ tám điệu thức diatonic, bao gồm bốn điệu thức gốc và bốn điệu thức biến tương ứng, mang tên gọi từ các điệu thức cổ đại.

Trong thời kỳ này, học thuyết về quãng đã được phát triển, dẫn đến sự hình thành các quan điểm mới Điều này mở ra con đường cho nghệ thuật mới và tư duy lý luận của thế kỷ XVI.

Tài liệu tham khảo: Nguyễn Xinh: Lịch sử âm nhạc thế giới – Tập I (Nhạc viện hà nội – Hà nội 1983).

ÂM NHẠC CHÂU ÂU THỜI KỲ PHỤC HƯNG

Âm nhạc thời kỳ Phục hưng

Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về Âm nhạc Châu âu thời kỳ Phục hưng

Kỹ năng: Hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc

1 Khái quát Âm nhạc Phục hưng.

Thời đại Phục hưng trong lịch sử nghệ thuật Tây Âu kéo dài từ thế kỷ XIV đến XVI, với âm nhạc phát triển muộn hơn so với văn học Âm nhạc thời Phục hưng bắt đầu từ thế kỷ XIV, nhưng chỉ đạt được những thành tựu nổi bật vào thế kỷ XVII và đầu XVIII, với sự ra đời của nhạc kịch, Violino ở Ý, nhạc Clavichord ở Pháp, và Henden ở Anh cùng Gi-Bắc ở Đức Phong trào “nghệ thuật mới” do nhà lý luận Pháp Ph.vit ri khởi xướng vào khoảng năm 1530 đã thúc đẩy sự chuyển mình trong âm nhạc, từ kiểu hát nhiều bè cũ kỹ sang lối viết tự do hơn.

Trong ba thế kỷ qua, âm nhạc Phương H Tây đã ghi nhận nhiều thành tựu đáng kể, bao gồm việc tiếp thu và phát triển âm nhạc dân gian từ các thời kỳ trước, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa âm nhạc.

Vào thời kỳ Phục Hưng, âm nhạc dân gian và âm nhạc thế tục đã có vị trí vững chắc trong đời sống văn hóa Âm nhạc nhà thờ, trải qua hơn một nghìn năm, đã phát triển nhiều hình thức và thủ pháp, trở thành ngôn ngữ âm nhạc quen thuộc với công chúng, như hình thức Mexa và Cantat Nhiều nhạc sĩ nổi bật của nhạc nhà thờ, như Palext rina và Gabrien, không chỉ sáng tác cho nhà thờ mà còn cho các buổi biểu diễn tại các phòng hòa nhạc thế tục.

(Âm nhạc nhà thờ đã tạo nên hình thức Mexa, Cantat…)

Phong trào “nghệ thuật mới” đã bùng nổ và lan tỏa không chỉ ở Pháp mà còn ở Ý, Nideclan, Đức, Anh và Tiệp, cho thấy âm nhạc thời Phục hưng đã phát triển vượt bậc so với âm nhạc thời kỳ trung cổ.

2 Các trung tâm Âm nhạc nổi bật. Âm nhạc Ý thời Phục hưng.

Khái niệm "Nghệ thuật mới" được phát triển lý thuyết bởi người Pháp, nhưng được thực hiện một cách chững chạc và hoàn thiện bởi người Ý Nguyên nhân chính là do điều kiện lịch sử của Ý đã phát triển chín muồi hơn so với Pháp.

Nền dân chủ tư sản và chế độ cộng hòa nhân dân đã được thiết lập ở nhiều thành phố nhằm chống lại chế độ phong kiến và quyền lực của nhà thờ Cuộc đấu tranh giữa thế lực cũ và mới diễn ra quyết liệt, thúc đẩy nghệ thuật phát triển theo hướng đổi mới Đồng thời, Ý cũng tiếp thu nền văn minh Hy Lạp cổ đại, góp phần làm phong phú ngôn ngữ cho âm nhạc.

Phloren là một trường phái âm nhạc tiên phong cho "nghệ thuật mới", nổi bật với sự chuyên nghiệp và trình độ điêu luyện Mục tiêu của trường phái này là phản đối các công thức nhạc hát nhiều bè trong nhà thờ, đồng thời mang lại sức sống mới cho nghệ thuật dân gian Phloren đã sáng tạo ra nhiều thể loại nhạc mới mẻ như Catra, Balat và Madrigan.

Catra, một thể loại bài hát đặc trưng với tính tả cảnh rõ rệt, thường sử dụng âm thanh từ tiếng kèn, tiếng gọi nhau, cùng nhịp vó ngựa và chân chạy làm chất liệu sáng tác.

Balat (múa) là loại hát múa thường viết cho đơn ca có nhạc cụ đệm hoặc đôi khi có cả dàn hợp xướng tham gia.

Mađrigan, hay còn gọi là bài hát bằng tiếng mẹ đẻ, là thể loại âm nhạc sâu sắc về nội dung và tinh xảo về hình thức Lời bài hát thường mang tính trữ tình và giãi bày, thậm chí có thể chứa đựng những yếu tố phê phán Giai điệu của mađrigan được chăm chút tỉ mỉ, kết hợp hoàn hảo với bè đệm đàn thông qua kỹ thuật đối vị phức tạp.

Trường phái âm nhạc Phloren nổi tiếng khắp nước Ý và các quốc gia khác vào thế kỷ XIV, nhưng đến thế kỷ XV thì dần bị lãng quên Tuy nhiên, thể loại Madrigan vẫn duy trì sức sống bền bỉ và được phục hồi vào thế kỷ XVI.

Nhạc đàn Ý thời Phục Hưng phát triển mạnh mẽ, nổi bật với đàn Luyt, một nhạc cụ phổ biến trong các gia đình, thường được sử dụng để thổi những giai điệu dân gian Các nhạc sĩ đã sáng tác nhiều bản nhạc riêng cho đàn Luyt, làm cho nó trở thành nhạc cụ đệm lý tưởng cho các buổi biểu diễn.

Sau Luyt là một loại đàn organ nổi bật với các trường phái nổi tiếng như Phloren và Vơni Những thể loại thường được sử dụng để sáng tác cho organ bao gồm Preluyt (khúc dạo), Ritrecat (tìm kiếm) và Caxon (bài hát).

Nhạc nhà thờ là một phần quan trọng trong nền âm nhạc thời Phục Hưng của Ý, đặc biệt nổi bật với hai trường phái ở Rim và Vơni, đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ XVI.

Trường phái Rim là trung tâm quan trọng nhất của phong cách phức điệu nghiêm khắc, được xây dựng trên nền tảng hệ thống điệu thức trung cổ Đại diện tiêu biểu cho trường phái này là Palext rina.

Trường phái Vơni: Là một chi nhánh của nhạc phức điệu Ý TK XVI, Đại biểu cuả trường phái này là Gabrieli

Tài liệu tham khảo: Nguyễn Xinh: Lịch sử âm nhạc thế giới – Tập I (Nhạc viện hà nội – Hà nội 1983).

ÂM NHẠC CHÂU ÂU THẾ KỶ XVII - XVIII

Nhà soạn nhạc G F Henden

Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc G F Henden

Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc

Năm 1685, Handel được sinh ra tại Halle, Đức, cùng năm với Johann Sebastian Bach Từ nhỏ, ông đã bộc lộ tài năng âm nhạc xuất sắc; ở tuổi 7, Handel đã là một nhạc công điêu luyện và bắt đầu sáng tác nhạc khi mới 9 tuổi.

Bố Hendel muốn ông học luật nhưng mẹ ông lại đồng ý cho ông học nhạc, nhờ đó, Handel được phép học đàn và sáng tác

Năm 1702, Handel học luật tại Đại học Halle theo ý cha, nhưng sau khi cha qua đời, ông chuyển sang học âm nhạc và trở thành người đàn phong cầm cho Đại Giáo đường Kháng Cách ở Halle Năm 1704, ông chuyển đến Hamburg, đảm nhận vai trò đàn violon và hapsichord cho dàn nhạc nhà hát opera Hai vở opera đầu tiên của ông, Almira và Nero, được hoàn thành vào năm 1705, tiếp theo là hai vở opera khác, Daphne và Florindo, viết xong vào năm 1708.

Năm 1706, Handel đến Ý và do lệnh cấm nhạc opera từ giáo hoàng, ông chuyển sang sáng tác nhạc thánh Trong thời gian này, tác phẩm nổi tiếng Dixit Dominus ra đời vào năm 1707, cùng với nhiều bản cantata mang âm hưởng opera.

Năm 1710, Handel chuyển đến Luân Đôn và nhận khoản tiền trợ cấp 200 bảng Anh mỗi năm từ Nữ hoàng Anne cho đến năm 1712 Tại đây, ông có sự bảo trợ quan trọng từ Richard Boyle, Bá tước Burlington, một nhà quý tộc trẻ tuổi và giàu có, người đầu tiên yêu thích âm nhạc của Handel Trong thời gian này, Handel đã sáng tác nhiều tác phẩm âm nhạc nổi bật để tri ân bá tước.

Năm 1723, Handel chuyển đến ngôi nhà mới tại số 25 Đường Brook, Luân Đôn, nơi ông sống cho đến khi qua đời năm 1759 Tại đây, ông đã sáng tác nhiều tác phẩm nổi tiếng như Messiah, Zadok the Priest và Music for the Royal Fireworks Ngôi nhà sau đó được biến thành Bảo tàng Nhà Handel, mở cửa cho công chúng trong các dịp trình diễn nhạc Baroque.

Năm 1726, Handel cho ra mắt vở opera Scipio, năm sau ông trở thành thần dân nước Anh Handel nhận làm giám đốc Nhạc viện Hoàng gia từ năm 1720-1728

Tháng 4 năm 1737, tay phải của Handel bị liệt nên ông phải tạm dừng các cuộc trình diễn Sau khi sức khỏe được phục hồi, Handel tập trung soạn các bản oratoria (nhạc Kinh Thánh) thay vì viết nhạc opera

Handel, một nhà soạn nhạc nổi tiếng, chưa bao giờ kết hôn và luôn giữ kín đời sống riêng tư Sau khi qua đời, ông để lại tài sản trị giá 20.000 bảng Anh, một số tiền khổng lồ vào thời điểm đó, chủ yếu được di chúc cho cô cháu gái đang sống ở Đức, cùng với các món quà cho người thân, bạn bè, người giúp việc và các tổ chức từ thiện.

Handel incorporated a variety of lesser-known instruments into his compositions, including the viola d’amore and violetta marina in "Orlando," the lute in "Ode for St Cecilia’s Day," and three types of trombones in "Saul." He also utilized clarinets or cornets in "Tamerlano," theorbo strings, French horns in "Water Music," lyrichords, double bassoons, viola da gamba, bell chimes, positive organs, and harps in works such as "Giulio Cesare" and "Alexander’s Feast."

3 Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu.

Handel là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại với 42 vở opera, 29 oratorio, hơn 120 cantatas, trio và duet, cùng nhiều aria và nhạc thính phòng Ông cũng sáng tác một khối lượng lớn nhạc tôn giáo, ode, serenata và 16 concerto cho đàn organ Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Messiah, với bài hợp xướng “Halleluja”, đã trở thành một tuyệt tác trong mùa Giáng sinh và được yêu thích rộng rãi Ngoài ra, các tác phẩm như Opus 3 và 6 Concerti Grossi, cũng như “The Cuckoo and the Nightingale” và 16 tổ khúc keyboard, đặc biệt là The Harmonious Blacksmith, cũng rất được yêu mến.

Sau khi qua đời, các vở opera Ý của Handel đã bị lãng quên, ngoại trừ một số aria như "Ombra mai fu" trong tác phẩm Serse Danh tiếng của ông đã được duy trì trong thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20, đặc biệt ở các quốc gia nói tiếng Anh, nhờ vào các oratorio tiếng Anh thường được biểu diễn trong các dịp lễ lớn bởi các ca đoàn với sự tham gia của nhiều ca sĩ nghiệp dư.

Trong những năm gần đây, các bản cantata và oratorio thế tục đã được hồi sinh mạnh mẽ Handel đã lựa chọn các câu chuyện thần thoại làm chủ đề cho những tác phẩm oratorio thế tục của mình, góp phần làm phong phú thêm dòng nhạc này.

Cho đến nay, Handel là một nhân vật vĩ đại trong giới sáng tác, được nhiều nghệ sĩ kính nể Bach từng bày tỏ rằng ông rất mong muốn được gặp Handel trước khi qua đời và nếu không phải là Bach, ông ước mình trở thành Handel Mozart cũng có những nhận xét tích cực về tài năng của Handel.

Handel là một nhạc sĩ vĩ đại, người hiểu rõ hiệu quả của âm nhạc hơn bất kỳ ai Ông có khả năng tạo ra những tác động mạnh mẽ, như tiếng sấm, trong tác phẩm của mình Beethoven đã từng ca ngợi Handel là "thầy của tất cả chúng ta" và là "nhà sáng tác vĩ đại nhất từng sống" Sự kính trọng của Beethoven đối với Handel thể hiện qua việc ông sẵn sàng ngả mũ và quỳ trước phần mộ của vị nhạc sĩ này.

Tài liệu tham khảo: Nguyễn Xinh: Lịch sử âm nhạc thế giới – Tập I (Nhạc viện hà nội – Hà nội 1983).

Nhà soạn nhạc Giohan Xebaxchien Bắc

Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc: Giohan Xebaxchien Bắc

Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc

J S Bắc sinh ngày 31-3-1685 là một nhà soạn nhạc vĩ đại nghệ sĩ biểu diễn Organ lỗi lạc người Đức, sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc Nếu tính từ cụ tổ của Bắc cho tới cháu nội của Bắc thì có tới bảy đời với 200 năm cung cấp các nhạc sĩ cho các thành phố ở Đức và nhiều nước Tây âu Bắc mồ côi cha mẹ từ nhỏ và suốt đời ông gắn liền với nước Đức, vì vậy ông đã ghi chép được những suy tư của người Đức bằng những tác phẩm âm nhạc

Khi mới 15 tuổi, ông được nuôi dưỡng để tham gia vào một dàn hợp xướng tại Luynebuoc Ông đã nhiều lần đi bộ khoảng 60km đến Hăm buốc để thưởng thức các buổi biểu diễn của những nhạc sĩ đàn Organ nổi tiếng, và đã đi tới 100km đến Xele để khám phá các tác phẩm của Luli do dàn nhạc địa phương trình diễn.

Khi 18 tuổi, Bắc bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của mình với vai trò nghệ sĩ violon trong dàn nhạc của một công tước ở Vâyma Tuy nhiên, chỉ sau vài tháng, ông đã chuyển đến Acnơtát để làm nhạc sĩ đàn Organ Tiếp theo, ông lại di chuyển đến Muyngauden, nơi ông kết hôn với Maria Bacbara, người em họ ba đời của mình Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn thanh niên đầy khó khăn trong việc học hỏi và kiếm sống của Bắc.

Ở tuổi 23, vì lý do gia đình, Bắc trở lại thành phố Vây ma để chơi đàn Organ và các nhạc cụ khác trong cung đình Trong giai đoạn này, ông không chỉ sáng tác nhạc giáo hội mà còn viết nhiều tác phẩm nhạc thế tục, đặc biệt là cho đàn Organ như tập nhạc Organ, 2 tocata và phuga d-moll, C-dur Tuy nhiên, do phản kháng lại sự bất công của chính quyền, ông buộc phải nghỉ việc và cả gia đình phải chuyển về một tỉnh lẻ, nơi chỉ có không khí âm nhạc bình thản.

Trong suốt một phần tư cuộc đời, Bắc đã gắn bó với Laixich, nơi ông đạt đỉnh cao sự nghiệp trong bối cảnh đây là trung tâm âm nhạc quan trọng của Đức Tuy nhiên, ông cũng chứng kiến nhiều khía cạnh tiêu cực của xã hội và thể hiện sự phản kháng, dẫn đến việc gia đình ông buộc phải rời khỏi Laixich và sống trong cảnh nghèo đói với nhiều con cái Tài năng của ông hiếm khi được công nhận, và ông qua đời vào ngày 28-06-1750, để lại thi hài trong sự quên lãng.

Tài liệu cho rằng di sản của Bắc được chôn cất tại nhà thờ thánh Phoma ở Laixich, nơi ông gắn bó lâu dài Cuộc đời của ông chỉ được đề cập trong hai bài báo và có 7 tác phẩm được khắc in.

2 Ngôn ngữ và thủ pháp âm nhạc. Âm nhạc của Bắc khó đồng cảm với người cùng thời, phải đợi đến đầu thế kỷ XIX tả, thì nhạc của Bắc mới được hồi sinh Âm nhạc của Bắc dẫu viết cho giọng hát hay bất cứ loại đàn nào cũng đề mang âm hưởng của Organ (vì ông là người chơi đàn Organ lỗi lạc)

Mỗi thời đại đều tạo ra những vinh quang riêng, nhưng Bắc lại mang tính vĩnh cửu, hiện diện trong mọi lĩnh vực âm nhạc Ông là tác giả của tác phẩm đầu tiên trong chương trình thi cử âm nhạc, từ lớp học trẻ em đến các kỳ thi quốc tế dành cho nhạc sĩ biểu diễn tài ba Bắc cũng được coi là sư tổ của các trường phái âm nhạc, bao gồm cả giọng điệu và phi giọng điệu, ấn tượng và hiện thực.

Âm hưởng nhạc Bắc không chỉ được thể hiện qua âm thanh của đàn Organ mà còn qua nhạc hát hợp xướng, trong đó các bè có vai trò quan trọng tương đương nhau Điều này đã dẫn đến sự phát triển của nhạc phức điệu, đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Bắc.

Hình thức âm nhạc; Dài lớn

Giai điệu là một dạng âm nhạc bắt đầu bằng một chủ đề có cá tính rõ rệt, nổi bật và cần sự chuyển động liên tục Chủ đề này giống như phần lĩnh xướng, sau đó hòa quyện vào dàn hợp xướng, tạo nên sự thống nhất và phong phú cho tác phẩm.

3 Thể loại sáng tác và các tác phẩm tiêu biểu.

Không có một lĩnh vực âm nhạc nào mà Bắc lại không có cống hiến, và bất cứ ở đâu ông cũng vĩ đại như nhau

Cantat; ông viết khoảng 200 bản, 24 cantat thế tục trong những cantat này ông đã thể hiện đầy đủ kỹ thuật, kết hợp nhạc hát với nhạc đàn

Motê (6 bản); là loại nhạc hát thuần tuý có quy mô đồ sộ, viết cho dàn hợp xướng lớn có âm hưởng hùng vĩ

Bên cạnh cantat, Mote Bắc còn viết 3 Orato, 4 paxion, 1 Macniphicat, khoảng 10 Mexa lướn nhỏkhác nhau nhưng nổi bật hơn cả là Mexa h-moll

Phức điệu đã được Bắc hoàn thiện đến mức tối ưu, với phuga là một ví dụ tiêu biểu Đồng thời, Bắc cũng đã nâng cao một số loại nhạc chủ điệu lên đỉnh cao, thể hiện sự phát triển đa dạng và phong phú trong âm nhạc.

Preluyt là một khúc nhạc ngắn, thống nhất về âm hình, thường chỉ diễn tả một khía cạnh nào đó của tình cảm Mặc dù preluyt thường được dùng để mở đầu cho các tác phẩm lớn hơn như phuga, nhưng Bắc đã sáng tác nhiều preluyt độc lập, điển hình là tập “Những preluyt nhỏ” Nhiều bản preluyt còn phá vỡ quy luật âm hình để tạo ra nội dung kịch tính, như trong “Preluyt c-moll” thuộc Bình quân tập I, và một số tác phẩm có mức phát triển gần như Uvectuya.

Toccata là một tác phẩm âm nhạc viết theo lối phóng tác tự do với nhịp độ nhanh, tập trung vào việc luyện ngón và trưng bày kỹ thuật Bắc đã phát triển thể loại nhạc này qua các bản nhạc cho Organ, đồng thời sử dụng nó như một Preluyt cho các tác phẩm lớn hơn, điển hình là bản “Toccata và Phuga, d-moll”.

Phantadi là một thể loại nhạc phóng tác tự do, mang tính chất phát triển độc đáo và khác biệt so với bất kỳ thể loại nhạc nào khác Một số tác phẩm tiêu biểu của thể loại này bao gồm "Phantadi và Phuga, g-moll" nổi tiếng dành cho đàn Organ và "Phantadi âm hoá và Phuga, d-moll" cho Clavoxanh.

Bắc không chỉ là một nhà sáng tác và giáo dục âm nhạc mà còn là một nhà lý luận âm nhạc thực tiễn Thời kỳ đó, các loại đàn phím được xây dựng theo hệ thống âm thanh tuyệt đối, chia một cung thành 9 coma, gây khó khăn trong việc sáng tác và biểu diễn các tác phẩm có từ hai dấu hoá trở lên Để biểu diễn những tác phẩm này, cần có loại đàn với hai hàng phím đen: một hàng cho dấu # và một hàng cho dấu giáng Bắc đã bãi bỏ hệ thống này và thay thế bằng hệ thống bình quân, chia một cung thành hai phần bằng nhau, giúp đơn giản hóa quá trình sáng tác và biểu diễn âm nhạc.

TRƯỜNG PHÁI ÂM NHẠC CỔ ĐIỂN VIÊN

Khái quát trường phái Âm nhạc Cổ điển Viên

Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc

Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc

1 Sự hình thành và phát triển.

Thế kỷ XVIII, được biết đến là thế kỷ ánh sáng, chứng kiến sự suy thoái của chế độ phong kiến và sự xuất hiện của nhiều tư tưởng tiến bộ, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp Nổi bật trong thời kỳ này là các cuộc cách mạng tư sản, đặc biệt là cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789.

Nối tiếp thành tựu của phong cách âm nhạc Barocque

Hình thành tại Viên, Áo - một quốc gia phát triển và hùng mạnh, sản phẩm này đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân từ nhiều tầng lớp khác nhau.

Người mở đầu là Nhạc sỹ Gluck, người sáng lập là nhạc sỹ haydn, đỉnh cao là Mozart, Beethoven

2 Những thành tựu cơ bản. Đạt được thành thành tựu rực rỡ Đặt nền móng cho nhiều vấn đề cơ bản của âm nhạc (hình thức, thể loại, thủ pháp )

Nội dung tư tưởng: Phản ánh không khí sinh hoạt của nhân dân

Hầu hết có tính lạc quan, tin vào chân lý, phê phán xã hội, ca ngượi chính nghĩa, tình yêu chung thủy

Hòa âm: chủ yếu sử dụng hòa âm chủ điệu

Giai điệu giữ vai trò quan trọng trong TP

Hình thức: liên khúc Sonate, giao hưởng được hoàn thiện

Nhạc kịch 2 lần được cải cách

TP thường có tính cân phương vuông vắn, hài hòa cân đối

Chủđề âm nhạc gần gũi có tính khái quát cao Nhiều thể loại khác xuất hiện

Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới – Phần II, chủ nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên.

Nhà soạn nhạc Christophe Wilibald Gluck

Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Christophe Wilibald Gluck

Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc

C.w.gluck là một nhà cải cách nhạc kịch lớn nhất trong lịch sử của nghệ thuật nhạc kịch ông đã hoàn thiện "cuộc cách mạng" trong nhạc kịch, giải phóng nhạc kịch khỏi thế lực thẩm mỹ cung đình và làm cho nghệ thuật nhạc kịch thể hiện được các quan điểm của

Cuộc cải cách nhạc kịch của Gluck trong "thế kỷ ánh sáng" thể hiện tính hiện thực và những thẩm mỹ tư tưởng sâu sắc của nhóm "bách khoa" Các tác phẩm của Gluck được xem là những mẫu mực tiêu biểu cho chủ nghĩa hiện thực ánh sáng.

Gluck là một nhạc sĩ người Áo, nổi bật trong trường phái cổ điển Vienna và có mối liên hệ sâu sắc với nền văn hóa Tiệp, nơi ông đã trải qua thời thơ ấu và thanh niên Tại Paris, ông được biết đến như một nhà soạn nhạc kịch vĩ đại, người đã thực hiện những cải cách quan trọng trong nghệ thuật âm nhạc của mình.

1 Cược đời và sự nghiệp

Những năm tháng ở tiệp, ý, anh và vienne là thời kỳ hình thành cải cách đầu tiên

Gluck sinh ra tại vùng giáp ranh giữa Tiệp Khắc và Đức, nơi ông trải qua tuổi thơ trong khung cảnh rừng núi Bohème tươi đẹp Năm 1726, ông chuyển đến một thành phố của Tiệp Khắc để theo học âm nhạc và đồng thời tham gia hát trong hợp xướng nhà thờ.

Năm 1732, Gluck đến Praha để nâng cao trình độ âm nhạc và học hỏi từ một nhà phức điệu nổi tiếng của Tiệp Đến 22 tuổi, ông đã được công nhận là nhạc sĩ, chịu ảnh hưởng từ nền văn hóa phong phú của thủ đô Tiệp Với tài năng chơi đàn organ và khả năng sư phạm âm nhạc xuất sắc, ông nổi bật trong lĩnh vực hòa thanh và đối vị, được người đời mệnh danh là "Bach của Tiệp".

Sau một năm ở Vienne, Gluck đã chuyển đến Ý để nghiên cứu và học hỏi từ các nhạc sĩ opera nổi tiếng, mặc dù ông đã quen thuộc với opera Ý trong thời gian sống tại Vienne.

Trong bốn năm sống tại Milan, dưới sự hướng dẫn của nhà soạn nhạc và chỉ huy G.B Sammartini, Gluck đã hoàn thiện nghệ thuật và kỹ thuật sáng tác, đặc biệt là trong lĩnh vực nhạc kịch Những vở nhạc kịch đầu tiên của ông, viết dựa trên kịch bản của Metastasio, đã giúp Gluck trở thành một trong những nhà sáng tác nhạc kịch nổi tiếng tại Milan và nhiều thành phố khác ở Ý Tuy nhiên, các tác phẩm trong giai đoạn này vẫn mang phong cách truyền thống của Sérva.

Năm 1746, gluck sang anh và vẫn tiếp tục viết nhạc kịch truyền thống với những vở nổi tiếng như artamena và s ự th ấ t b ạ i c ủ a nh ững ngườ i kh ổ ng l ồ

Đến năm 1754, Gluck đã thực hiện chuyến thăm đến các thành phố như Dresden, Praha, Napoli, Hamburg và Copenhagen, nơi ông vừa chỉ huy, vừa sáng tác và dàn dựng hơn 50 vở nhạc kịch mới của mình.

Sau chuyến du lịch qua nhiều quốc gia, Gluck trở lại Vienna và tiếp tục sáng tác nhạc kịch theo phong cách série, đồng thời khám phá những xu hướng sáng tạo mới, bao gồm nhạc kịch hài hước và vũ kịch Pháp Việc sáng tác thể loại nhạc kịch mới đã giúp ông phá vỡ các công thức truyền thống, từ đó tìm ra phương pháp hiện thực hơn trong âm nhạc Vũ kịch đóng vai trò quan trọng trong quá trình cải cách nhạc kịch của Gluck, với những tác phẩm nổi tiếng như "Don Juan", "Hoàng tử Trung Hoa" và "Alexandre".

Thời kỳ cải cách được thể hiện qua ba vở đầu tiên là orféo và euridice dựng năm

Vào năm 1762, vở opera "Alceste" được ra mắt, tiếp theo là "Paride ed Elena" vào năm 1770 Ba tác phẩm cải cách này được trình diễn tại Vienna, thể hiện rõ tài năng xuất sắc của Gluck cùng với quan điểm thẩm mỹ độc đáo của ông.

Con đường cải cách nhạc kịch của Gluck tiếp tục diễn ra tại Paris, nơi xã hội Pháp tiến bộ đã công nhận và đánh giá cao những nỗ lực cải cách của ông trong lĩnh vực này.

Những vở nhạc kịch cải cách của Gluck tại Paris thể hiện sự sáng tạo nổi bật của ông, đồng thời phản ánh tinh thần cách mạng đang bùng nổ tại đây Ông nhấn mạnh sự chân thật trong nghệ thuật, từ biểu diễn đến kịch bản, và đã chỉnh sửa các tác phẩm như Orfeo và Alceste để phù hợp với sân khấu Paris, bao gồm việc chuyển đổi giọng hát và bổ sung các màn múa Tại Paris, Gluck đã hoàn thiện những nhạc kịch cải cách cuối cùng của mình, tiêu biểu là tác phẩm Armide.

Vào năm 1777, Gluck cho ra mắt tác phẩm "Iphigénie en Tauride" và tiếp tục sáng tác "Tiếng Vọng" cùng "Cây Thùy Tiên" vào năm 1779, mặc dù những vở này không thành công và xa rời các cải cách trước đó Trong những năm cuối đời, ông trở lại Vienna và tập trung vào việc sáng tác ca khúc Gluck đã tạo ra một trường phái nhạc kịch mới, ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nhạc sĩ đương thời và các nhạc sĩ ở nhiều quốc gia trong thế kỷ 19, với gần 100 tác phẩm nhạc kịch khác nhau.

2 cuộc cải cách nhạc kịch của gluck

Gluck đóng vai trò quan trọng trong lịch sử sân khấu nhạc kịch, với những quan điểm thẩm mỹ và cải cách của ông đã tạo nên một bước ngoặt mới cho nghệ thuật nhạc kịch.

Nguyên tắc thẩm mỹ và cải cách nhạc kịch của Gluck tập trung vào sự đơn giản và tính chân thật Ông đã loại bỏ mọi yếu tố cản trở việc thực hiện những nguyên tắc này Sự kết hợp giữa âm nhạc và kịch là nền tảng cho cải cách của ông, trong đó âm nhạc và ngôn ngữ văn học phải hòa quyện chặt chẽ Âm nhạc không chỉ bổ sung cho kịch mà còn phản ánh tình tiết và miêu tả sâu sắc các khía cạnh nội tâm của nhân vật.

Nhà soạn nhạc Josepn Haydn

Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc: J Haydn

Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc

Nhà soạn nhạc J Haydn, sinh năm 1732 trong một gia đình nghèo ở miền nam nước Áo, được coi là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất trong lịch sử âm nhạc Ông là cha đẻ của thể loại giao hưởng và tứ tấu, sáng tác đa dạng ở nhiều thể loại như giao hưởng, nhạc thính phòng, nhạc kịch và thanh xướng kịch Haydn không chỉ sáng tạo ra những tác phẩm xuất sắc mà còn mở đường cho sự phát triển và hoàn thiện các thể loại âm nhạc này.

Ngay khi còn ít tuổi Haydn đã tỏ ra là một cậu bé có năng khiếu đặc biệt và âm nhạc

Ông bắt đầu tham gia vào đội hợp xướng và học Violino, đàn phím tại một nhà thờ ở thành phố Hainobua trong khoảng ba năm Sau đó, ông chuyển đến Viên và tiếp tục làm diễn viên hợp xướng tại nhà thờ trong suốt 10 năm tiếp theo.

Năm 13 tuổi đã trở thành diễn viên đơn ca và không lâu sau khi vỡ giọng, ông đã trở thành thất nghiệp Nhạc sĩ phải thuê nhà, đi dạy thêm để lấy tiền kiếm sống, lúc này ông đã tự học Clavoxanh, violino, lý luận âm nhạc và nghiên cứu các tác phẩm nổi tiếng

Ở tuổi 19, ông sáng tác vở nhạc kịch đầu tiên mang tên “Con quỷ thọt mới” Đến 23 tuổi, ông tham gia vào một nhóm nhạc sĩ được bảo trợ bởi một ông hoàng nghệ thuật Năm 27 tuổi, ông phụ trách một dàn nhạc hơn 10 người của một ông hoàng khác, nơi ông sáng tác nhiều bản hòa tấu vui vẻ và cho ra đời bản giao hưởng đầu tiên Khi 29 tuổi, ông làm việc với một bá tước người Hungary, dẫn dắt dàn nhạc gồm 14 thành viên.

Cuộc đời nhạc sĩ hầu cận của Haydn kéo dài khoảng 30 năm, trong đó ông trải qua nhiều đau khổ và vất vả Trong hồi ký, ông tự hỏi liệu mình là nhạc sĩ hay chỉ là người đầy tớ Những suy tư sâu sắc này được ông gửi gắm qua các bản giao hưởng nổi tiếng như "Vĩnh biệt" và "Tang lễ".

Năm 59 tuổi Haydn đoạn tuyệt với cảnh làm thuê và vững bước trên con đường của một nhà soạn nhạc Năm 1791 theo lời mời Salomong chủ một gánh hát ông đã sang Luân đôn, ở đây ông đã sáng tác hàng loạt những tác phẩm có gía trị, đặc biệt là 6 bản giao hưởng

Năm 1792, nhạc sĩ Haydn rời Luân Đôn trở về Viên, trên đường đi ông đã gặp Beethoven và quyết định nhận ông làm học trò Năm 1794, theo lời mời của người hâm mộ, Haydn trở lại Anh lần thứ hai và được Đại học Ocphoc tặng học vị tiến sĩ Âm nhạc Tại đây, ông sáng tác nhiều tác phẩm nổi bật, trong đó có hai vở thanh xướng kịch "Đấng sáng tạo muôn loài" và "Bốn mùa", đánh dấu những thành công lớn trong sự nghiệp của ông Dù nhà vua Anh mong muốn ông ở lại, nhưng vì nhớ quê hương, Haydn đã trở về Viên và qua đời vào ngày 31/5/1809 trong một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Viên, khi quân đội Áo đang thất bại trước quân Napoléon.

Cuộc đời và âm nhạc của Haydn phản ánh sinh động xã hội Áo nửa sau thế kỷ XVIII, mang trong mình niềm tin yêu lạc quan và nghị lực Tác phẩm của ông thể hiện tâm hồn lành mạnh, vui vẻ và hồn nhiên, với hình tượng âm nhạc giản dị, duyên dáng, có sức cảm hóa mạnh mẽ.

Giai điệu: Tươi sáng nhuần nhuyễn dân ca, dân vũ Đức, Áo, Hung, Tiệp, Anh…

Hoà âm trong âm nhạc của Haydn thể hiện sự sử dụng những hợp âm hài hoà một cách cân đối, mang tính nhân dân và phổ cập.

Hình thức: Cân phương vuông vắn

3 Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu.

Giao hưởng của nhạc sĩ Haydn bao gồm 104 bản, nổi bật nhất là 12 bản cuối đời được gọi là "giao hưởng Luân Đôn" Ông sáng tạo trong việc sử dụng liên khúc sonata, kết hợp với các chương Menuet, biến tấu và rondo Sự tương phản về tốc độ và tính chất âm nhạc được ông áp dụng để nhấn mạnh nội dung Dân ca và dân vũ là linh hồn trong những tác phẩm giao hưởng của ông, có thể chia chúng thành 4 giai đoạn phát triển khác nhau.

Gđ1: Gồm những tác phẩm vết trước năm 1772 nhìn chung mang tính chất giải trí

Gđ2: Những tác phẩm viết sau năm 72, lúc ông đang là nhạc sĩ hầu cận, âm nhạc có tính đau thương, suy nghĩ, lo lắng

Gđ3: Những tác phẩm viết vào những năm 80 của thế kỷ, khi nhạc sĩ đã thoát khỏi những cơn khủng hoảng

Giai đoạn cuối cùng trong sự nghiệp của nhạc sĩ là những bản giao hưởng Luân Đôn, trong đó nổi bật là bản giao hưởng số 103 mang tên "Trống Rung" Đây là những tác phẩm tiêu biểu thể hiện sự trưởng thành và phong cách sáng tác độc đáo của ông.

Nhạc thính phòng: Ngoài 104 bản giao hưởng, các thể loại khác cũng là một di sản quan trọng của Haydn

Tác phẩm tứ tấu của ông gồm 83 bản, nổi bật là bản số 63 mang tên “chim sơn ca” Nhìn chung, các tác phẩm này thể hiện phong cách âm nhạc sinh động, vui vẻ và tràn đầy sự lạc quan.

Tam tấu và 92 bản nhạc của Haydn đóng vai trò quan trọng trong di sản âm nhạc của ông Ông đã sáng tác 52 bản sonate cho piano, bao gồm nhiều biến tấu và rondo, trong đó nổi bật nhất là bản Sonate – D/dur.

Nhạc sĩ đã sáng tác 24 vở nhạc kịch, 14 lễ ca (messa) và nhiều hợp xướng Đặc biệt, vào cuối đời, ông cho ra mắt hai tác phẩm thanh xướng kịch nổi bật là “Đấng sáng tạo muôn loài”.

Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới tập II, chủ nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên.

Nhà soạn nhạc W A Mozart

Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc: W A Mozart

Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc

Wolfgang Amadeus Mozart sinh ngày 27 tháng 1 năm 1756 trong một gia đình có truyền thống âm nhạc Cha của ông, Leopold Mozart, là một nhà sư phạm âm nhạc và nghệ sĩ violon, trong khi mẹ ông là một người phụ nữ hết lòng vì con cái Trong số bảy anh chị em, chỉ còn lại Mozart và người chị Maria Ana, người sau này cũng trở thành một nhà sư phạm nổi tiếng.

Mozart là một nhạc sĩ và nghệ sĩ biểu diễn piano thiên tài người Áo, thuộc trường phái âm nhạc Cổ điển Viên, và ông đã tạo ra bước ngoặt lớn cho thể loại opera và giao hưởng Khác với nhiều nhạc sĩ chỉ thành công ở một vài thể loại, Mozart sáng tác ở hầu hết các thể loại âm nhạc và đạt đến đỉnh cao trong từng thể loại Với số lượng tác phẩm đồ sộ, ông được mệnh danh là vua của tất cả các thể loại âm nhạc.

Tác phẩm âm nhạc của Môda nổi bật với sự sinh động của cuộc sống và niềm lạc quan vào chân lý, thể hiện lòng nhân đạo và tình yêu chung thủy Ông đã khéo léo phê phán bộ mặt xấu xa của quan lại phong kiến, mang đến tính hiện thực cao trong tác phẩm Dù có sự vui tươi, nhưng bên cạnh đó, âm nhạc của ông cũng chứa đựng những giai điệu bi thương, phản ánh tâm trạng lo âu và sự bức bách của người nhạc sĩ trong bối cảnh mất tự do.

2 Ngôn ngữ âm nhạc. Âm nhạc của Moda chứa đựng những nội dung sâu sắc mang tính nhân dân song nó cũng rất gần gũi với tầng lớp quý tộc, nhân vật trong tác phẩm có tính cách đa dạng và phong phú

Giai điệu trong tác phẩm của ông tươi sáng, giản dị và giàu hình tượng, phản ánh âm nhạc dân gian Đức và Áo, với những bài hát du dương tinh tế và chiều sâu nội tâm phong phú Các tác phẩm thường có cấu trúc giai điệu cromatic cùng những nét hoa mĩ tinh tế, được xác định rõ ràng theo điệu trưởng thứ Ông khéo léo kết hợp các làn điệu thơ ca dân gian Đức, Áo với chất liệu âm nhạc dân gian của châu Âu, đặc biệt là Ý, tạo nên những điểm nổi bật trong sáng tác của mình.

Moda đã sáng tạo ra ngôn ngữ âm nhạc độc đáo bằng cách kết hợp linh hoạt các hợp âm chính và phụ, sử dụng các thủ pháp chuyển điệu mạnh mẽ và đa dạng hóa âm hình tiết tấu Sự kết hợp này đã tạo nên một âm thanh sống động và cuốn hút.

Moda đã học hỏi từ J.S Bach và kết hợp với phong cách chủ điệu của chủ nghĩa cổ điển Viên Điểm mới trong âm nhạc phức điệu của Moda là các chủ đề phong phú, mang tính cá nhân, sức sống mạnh mẽ và dễ gần gũi với công chúng.

Moda đã kế thừa thành công phong cách phối khí cổ điển của Haydn, đồng thời ông cũng là người tiên phong trong việc đưa kèn clarinet vào dàn nhạc giao hưởng, làm phong phú thêm bộ nhạc cụ gỗ.

Cuộc đời ngắn ngủi của Moda đã để lại cho nhân loại một kho tàng âm nhạc đồ sộ, bao gồm nhiều thể loại và trình độ khác nhau Ông sáng tác từ những tiểu phẩm cho đàn phím, nhạc thính phòng đến các tác phẩm lớn như Cantat, Concerto, giao hưởng và nhạc kịch Trong số đó, ông đạt thành công nổi bật nhất ở hai lĩnh vực nhạc kịch và giao hưởng.

3 Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu.

Moda là người đầu tiên đưa Trompet vào nhạc kịch

Nhạc kịch của Moda nổi bật với sự phát triển liên tục của nội dung từng nhân vật, mỗi nhân vật đều có hình tượng rõ ràng và được cấu trúc theo số mục Các bản Aria trong nhạc kịch của Moda thường chịu ảnh hưởng bởi tính trữ tình và kịch tính của thể loại giao hưởng, do đó nhiều bản được viết theo hình thức Sonate mà không có phần phát triển.

Moda sáng tác hơn 20 vở nhạc kịch ở 4 thể loại

Nhạc kịch nghiêm chỉnh: tiêu biểu như vở Idomenay, Lòng nhân từ của típ

Nhạc kịch hài hước; Tiêu biểu như vở Đám cưới Phicaro

Nhạc kịch Đức-Áo; Tiêu biểu như vở Cuộc đột nhập vào hoàng cung, cây sáo thần

Bi hài kịch là thể loại do Moda sáng tạo, kết hợp giữa nhạc kịch nghiêm chỉnh và nhạc kịch hài hước Một trong những tác phẩm tiêu biểu của thể loại này là vở Đông gioăng.

Giao hưởng đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực khí nhạc của Moda, nổi bật với việc sử dụng thành công liên khúc sonate trong các tác phẩm giao hưởng của ông.

Moda sáng tác 41 bản giao hưởng, chủ yếu mang tính giải trí sôi động với bộ dây đóng vai trò quan trọng Ba bản giao hưởng thành công nhất của ông là No39 – Es/dur, No40 – g/moll và No41 – C/dur, trong đó bản No40 nổi bật hơn cả Tác phẩm này được biết đến với tính chất trữ tình và kịch tính mạnh mẽ, thể hiện những cảm xúc bi thương sâu sắc, vì vậy nó còn được gọi là "Bi thương trữ tình" và đã được nhiều nhạc sĩ phối khí, chuyển thể cho nhiều loại nhạc cụ khác nhau.

Ngoài nhạc kịch và giao hưởng, Moda còn có đóng góp lớn cho nhạc thính phòng, đặc biệt là các tiểu phẩm cho nhạc cụ độc tấu Nổi bật trong số đó là 19 bản Sonate cho Piano, phản ánh sự sáng tạo nghệ thuật và quan niệm sống của Moda.

Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới tập II, chủ nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên.

Nhà soạn nhạc Ludwig Van Beethoven

Kiến thức: Cung cấp cho học sinh kiến thức về nhà soạn nhạc Ludwig Van Beethoven

Kỹ năng: Học sinh hiểu biết sâu hơn về lịch sử Âm nhạc

1.1 Những năm tuổi thơ ởquê hương.

Sinh 16/12/1770 tại Born - Đức Ông sớm bộc lộ năng khiếu và học nhạc từ nhỏ

1787: ông tìm đến Mozart để học nhưng không thành vì ngay lúc đó phải về tang mẹ

1789: ông bỏ học ngành triết và tập trung học sáng tác

Giai đoạn này đánh dấu sự hình thành thế giới quan và tư duy thẩm mỹ, đồng thời là thời điểm quan trọng để trau dồi kiến thức về sáng tác Mặc dù ông đã có một số tác phẩm, nhưng chưa thực sự khẳng định được vị thế của mình trong lĩnh vực này.

1792: ông đến hoạt động âm nhạc tại Viên

Sáng tác của ông chịu ảnh hưởng từ Haydn và Mozart, nhưng nhiều tác phẩm đã thể hiện rõ tài năng và phong cách riêng biệt của ông, đặc biệt là Sonate số 8 và số 14.

1796: ông có triệu chứng bị điếc và không may mắn trong tình yêu nên dẫn tới khủng hoảng suy sụp

Vượt qua khủng hoảng ông hăng say sáng tác Đây là thời kỳ ông có số lượng TP dồi dào

Các tác phẩm của ông nổi bật với tính kịch mạnh mẽ, thể hiện rõ nét qua các chủ đề anh hùng, cách mạng và chiến thắng Những đặc điểm sáng tác này khẳng định tên tuổi và phong cách độc đáo của ông trong nền văn học.

Thủ pháp đa dạng, ưa sử dụng âm hình chủ đạo Thường có phần coda kéo dài Hầu hết TP có quy mô đồ sộ

TP nổi bật: Symphony No3, No5, No6, Sonate No21, No23

1803: ông bị điếc hoàn toàn

Là thời kỳđỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông

TP có quy mô đồ sộ, nội dung giàu tính triết lý, ngôn ngữ âm nhạc hiện đại

TP thể hiện sự lạc quan, tin tưởng vào chân lý, chiến thắng, tương lai tươi đẹp

Xuyên suốt các sáng tác là tư tưởng nha hùng - đấu tranh- chiến thắng

Quy mô tác phẩm: Đồ sộ nhưng hài hòa, tính kịch cao nhưng tự nhiên

Có nhiều sáng tạo riêng như: Tạo ra sự không ngừng nghỉ giữa các chương

(attaca), ưa dùng bộ đồng

Tách bè Cello và công tơ bat thành 2 bè độc lập, đặc biệt sử dụng hợp xướng trong

3 Thể loại sáng tác và tác phẩm tiêu biểu.

Sonate cho Piano và Violon: 10

Sonate cho Cello và Piano: 5

3.1 Các tác phẩm Sonate cho Piano

Chứa đựng quy mô và ý nghĩa như một tác phẩm giao hưởng, bài viết khám phá đề tài chính là anh hùng, cách mạng và chiến thắng, từ đó mở ra hướng đi mới cho chủ nghĩa lãng mạn.

Sử dụng nhiều hình thức lạ, áp dụng những thể loại hết sức độc đáo Những TP cuối đời có tính triết lý sâu sắc

Các TP nổi bật: No8 C dur- Bi hùng No14 cis moll- ánh trăng No 21: Rạng đông No 23 Apaxionata

3.2 Các tác phẩm viết cho dàn nhạc giao hưởng

Số lượng TP: 9 giao hưởng, 11 khúc mở màn, 40 vũ khúc, 5 concerto cho piano, 1 concerto cho violon

Tài liệu tham khảo: Nguyễn Thị Nhung: Lịch sử âm nhạc thế giới tập II, chủ nghĩa Âm nhạc Cổ điển Viên.

CHỦ NGHĨA ÂM NHẠC LÃNG MẠN

ÂM NHẠC THẾ KỶ XX

Ngày đăng: 10/02/2022, 18:51

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w