1. Trang chủ
  2. » Giáo án - Bài giảng

Giáo trình hình thức âm nhạc

43 184 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hình Thức Âm Nhạc
Tác giả Kiều Đức Thăng
Trường học Trường Cao Đẳng Lào Cai
Chuyên ngành Thanh Nhạc, Organ, Biểu Diễn Nhạc Cụ Truyền Thống
Thể loại Giáo Trình
Năm xuất bản 2019
Thành phố Lào Cai
Định dạng
Số trang 43
Dung lượng 393,48 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I. NGUYÊN TẮC PHÂN TÍCH TÁC PHẨM ÂM NHẠC (9)
    • Bài 1. Tính chất đặc biệt của nghệ thuật Âm nhạc, phương pháp phân tích tác phẩm Âm nhạc (9)
      • 1. Âm nhạc - Nghệ thuật của âm thanh (9)
      • 2. Phương pháp phân tích tác phẩm (9)
    • Bài 2. Phương tiện diễn tả cơ bản của Âm nhạc (10)
      • 1. Giai điệu (10)
      • 2. Hòa âm (10)
      • 3. Tiết tấu và tiết luật (10)
      • 4. Âm sắc, âm vực (11)
      • 5. Nhịp độ, cường độ (11)
      • 6. Cách cấu tạo (11)
    • Bài 3. Chủ đề Âm nhạc, những nguyên tắc phát triển trong hình thức Âm nhạc (12)
      • 1. Chủ đề âm nhạc (12)
    • Bài 4. Chức năng từng phần của hình thức Âm nhạc (14)
      • 1. Phần mở đầu (14)
      • 2. Ph ầ n trình bày (14)
      • 3. Phần nối (14)
      • 4. Phần giữa (14)
      • 5. Phần tái hiện (0)
      • 6. Phần kết (còn gọi là Coda) nằm ở cuối bài (15)
    • Bài 5. Sự phân chia trong hình thức Âm nhạc (16)
      • 1. Ngắt, cơ cấu, phần (16)
      • 2. Môtíp, tiết nhạc, câu nhạc (16)
  • CHƯƠNG II. HÌNH THỨC ÂM NHẠC (18)
    • Bài 6. Đoạn nhạc (18)
      • 1. Định nghĩa (18)
      • 2. Các b ộ ph ậ n c ủa đoạ n nh ạ c (18)
      • 3. Các dạng đoạn nhạc (18)
      • 4. Các b ộ ph ậ n ph ụ (19)
      • 5. Ứng dụng của đoạn nhạc (19)
    • Bài 7. Đoạn nhạc trong dân ca người Việt – người Kinh (20)
      • 1. M ộ t s ố đặc điểm trong dân ca ngườ i vi ệ t (20)
      • 2. Các dạng đoạn nhạc trong dân ca người Việt (20)
    • Bài 8. Hình thức hai đoạn đơn (21)
      • 3. Các ph ầ n ph ụ , s ự nh ắ c l ạ i t ừ ng ph ầ n (21)
      • 4. Ứng dụng của hình thức hai đoạn đơn (0)
      • 5. Thực hành phân tích (22)
    • Bài 9. Hình thức ba đoạn đơn (23)
      • 1. Định nghĩa, sơ đồ chung (21)
      • 2. Chức năng từng phần và các dạng cấu trúc (21)
      • 3. Các phần phụ, sự nhắc lại từng phần (23)
      • 4. Ứng dụng của hình thức ba đoạn đơn (24)
    • Bài 10. Hình thức ba đoạn phức (26)
      • 1. Đĩnh nghĩa, sơ đồ cấu trúc chung (26)
      • 2. Cấu trúc từng phần (26)
      • 3. Ứng dụng của hình thức ba đoạn phức (27)
      • 4. Th ự c hành phân tích (27)
      • 5. Hình thức lưng chừng 3-5 đoạn phức (27)
    • Bài 11. Hình thức Rondo (28)
      • 1. Định nghĩa. Sơ đồ cấu trúc chung (23)
      • 2. Các dạng hình thức Rondo (28)
      • 3. Ứng dụng của hình thức Rondo (29)
      • 4. Thực hành phân tích (29)
    • Bài 12. Hình thức biến tấu (31)
      • 3. Ứng dụng của hình thức biến tấu (32)
    • Bài 13. Hình thức Sonate (33)
      • 1. Định nghĩa. Sơ đồ chung (33)
      • 2. Các phần của hình thức sonate (33)
    • Bài 14. Hình thức Rondo Sonate (35)
      • 2. Các dạng cấu trúc Rondo sonate (35)
      • 3. Cấu trúc đặc biệt (35)
    • Bài 15. Hình thức hai đoạn cổ (37)
      • 1. Đĩnh nghĩa, sơ đồ c ấ u trúc chung (37)
      • 2. Phần thứ hai của hình thức hai đoạn cổ (38)
      • 3. Ứng dụng hình thức hai đoạn cổ (39)
    • Bài 16. Hình thức Sonate cổ (39)
      • 1. Đặc điểm chung (39)
      • 2. Phần thứ nhất – Trình bày (40)

Nội dung

NGUYÊN TẮC PHÂN TÍCH TÁC PHẨM ÂM NHẠC

Tính chất đặc biệt của nghệ thuật Âm nhạc, phương pháp phân tích tác phẩm Âm nhạc

1 Âm nhạc - Nghệ thuật của âm thanh.

Âm nhạc, một hình thái của ý thức xã hội, chịu ảnh hưởng từ hoạt động và quy luật tự nhiên Nó được hình thành từ những âm thanh đặc trưng dựa trên hai yếu tố cơ bản là giai điệu và tiết tấu Qua việc tổ chức chặt chẽ, âm nhạc tạo ra những hệ thống logic, thể hiện hình tượng rõ ràng và nội dung nhất định, đồng thời truyền tải những tình cảm sinh động và sâu sắc của con người.

+ Tiết tấu: Chỉ là đơn âm nhưng được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau + Tiết nhịp: Là thể hiện những phách mạnh, phách nhẹ

+ Đặc trưng: Ví dụ như ở thế kỷ XX người ta sử dụng tất cả các âm thanh để diễn tả tư tưởng tình cảm (như các tiếng động)

Một tác phẩm âm nhạc nghệ thuật thường mang trong mình nội dung sâu sắc Để truyền tải những ý nghĩa này, các nhạc sĩ lựa chọn những hình thức thể hiện phù hợp, độc đáo và không giống nhau.

2 Phương pháp phân tích tác phẩm

Để phân tích một tác phẩm âm nhạc, từ những bài hát tập thể hay làn điệu dân ca đến các tác phẩm lớn như bản giao hưởng nhiều chương hay vở nhạc kịch, cần thiết phải có sự hiểu biết toàn diện và sâu rộng về lĩnh vực này.

Phân tích một tác phẩm âm nhạc yêu cầu sự nghiên cứu toàn diện và tổng hợp nhiều vấn đề, không chỉ dừng lại ở cấu trúc của tác phẩm Công việc chính của phân tích là khám phá nội dung và ý nghĩa nghệ thuật của tác phẩm.

Phương tiện diễn tả cơ bản của Âm nhạc

Giai điệu đóng vai trò trung tâm và quan trọng trong việc diễn tả âm nhạc Các khía cạnh chính của giai điệu bao gồm mối tương quan về độ cao - thấp, độ dài - ngắn của âm thanh, cùng với mối quan hệ hòa âm và điệu tính Ngoài ra, trong một số trường hợp, giai điệu còn thể hiện những đường nét biểu hiện đặc trưng của thể loại âm nhạc.

Giai điệu được hình thành từ các quãng âm, bao gồm quãng đi liền bậc và quãng nhảy, cùng với hướng di chuyển của các quãng này, như đi lên, đi xuống, đi ngang hoặc lượn sóng.

Để phát triển giai điệu, sau mỗi bước đi liên tiếp theo một hướng, thường sẽ có một bước nhảy ngược hướng Sau khi thực hiện một bước nhảy xa, cần có những bước tiến hành liên tiếp để lấp đầy khoảng trống mà bước nhảy đó tạo ra.

Hòa âm là phương pháp diễn tả quan trọng trong âm nhạc, đóng vai trò là động lực hình thành các hình thức âm nhạc và tạo ra sự tương phản giữa các hình tượng.

Ba khía cạnh quan trọng nhất của hòa âm là;

Bổ sung và làm rõ giai điệu

Nếu hòa ân ít thay đổi thì giai điệu có tính dàn trải, ca xướng

Khi phân tích chú ý đến tính công năng.

3 Tiết tấu và tiết luật. a Tiết tấu

Tiết tấu không chỉ là yếu tố cấu thành đường nét giai điệu mà còn mang ý nghĩa độc lập Là một trong những phương pháp diễn tả quan trọng của âm nhạc, tiết tấu đã được phát triển từ rất sớm, ngay cả khi giai điệu và điệu thức chưa được hình thành.

Tiết tấu thường có hai chức năng chính;

Tiết tấu là nhân tố tích cực cho sự phát triển hình tượng âm nhạc

Tiết tấu tạo tính thống nhất Trong một số trường hợp tiết tấu không thay đổi trong cả một phần lớn của hình thức b Tiết luật

Sự luân phiên giữa phách mạnh và phách nhẹ tạo nên tiết luật, hình thức cao của tổ chức tiết tấu Phách mạnh đóng vai trò dẫn dắt, trong khi phách nhẹ có chức năng phụ thuộc, góp phần vào sự hài hòa của âm nhạc.

Trong âm nhạc hình thành hai dạng chính của tiết luật:

Tiết luật nghiêm khắc: Vị trí trọng âm không thay đổi

Tiết luật tự do: Vị trí trong âm thay đổi tạo nên đảo phách

4 Âm sắc, âm vực. a Âm sắc. Âm sắc là màu sắc của âm thanh phụ thuộc vào nguồn gốc âm thanh phát ra Âm sắc có một vị trí đặc biệt, không phụ thuộc vào một cơ cấu lôgíc như cơ cấu của tiết tấu, điệu thức Âm sắc có mối liên quan đến một số phương pháp diễn tả đặc biệt là giai điệu Âm sắc gồm hai loại căn bản khác nhau: âm sắc cuả giọng người và âm sắc của từng loại nhạc khí Âm sắc của giọng người cũng được phân thành nhiều loại b Âm vực. Âm vực thường liên quan đến giai điệu và âm sắc và trong toàn bộp phương pháp diễn tả cơ bản của âm nhạc âm vực ở mức độ thứ hai Tuy nhiên có tac phẩm hoặc một phần nào đó của một tác phẩm, âm vực có khi lại ở vị trí thứ nhất Âm vực còn liên quan tới âm sắc như âm sắc của từng loại giọng hát và âm sắc của các nhạc khí, nhất là các loại kèn hơi

5 Nhịp độ, cường độ a Nhịp độ

Nhịp đọ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra tiết tấu và tiết luật, góp phần vào sự chuyển động của âm nhạc Nó không chỉ liên quan đến tính chất và hình tượng mà còn ảnh hưởng đến thể loại của tác phẩm âm nhạc Cường độ cũng là một yếu tố cần thiết trong việc thể hiện nhịp đọ.

Cường độ âm thanh là phương pháp xác định mức độ mạnh hay nhẹ của âm thanh, có mối liên hệ mật thiết với chuyển động của giai điệu Âm thanh với cường độ mạnh thường thể hiện sự căng thẳng và tích cực, trong khi âm thanh có cường độ nhẹ lại mang đến cảm giác bình ổn và êm ả.

Cách cấu tạo âm thanh trong âm nhạc bao gồm việc sắp đặt các bè riêng biệt, được chia thành hai dạng cơ bản: một bè và nhiều bè.

Cách cấu taọ một bè có ba kiểu khác nhau: bè đơn, đồng âm và tăng đôi trong một vài quãng tám

VD: Như các bài đân ca, hát lĩnh xướng trong hợp xướng

Cách cấu tạo nhiều bè được phân thành ba kiểu: Chủ đề (homophonie), bè tòng (héterophonie) và phức điệu (polyphonie).

Chủ đề Âm nhạc, những nguyên tắc phát triển trong hình thức Âm nhạc

1 Chủ đề âm nhạc a Chủ đề âm nhạc:

Chủ đề âm nhạc là một khối phức tạp, thể hiện tính hoàn thiện về tư duy và cấu trúc Nó đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt sự phát triển của tác phẩm âm nhạc, đồng thời thống nhất các khía cạnh như đặc điểm cảm xúc, hình tượng, và tính chất thể loại Ngoài ra, chủ đề âm nhạc còn phản ánh những đường nét dân tộc độc đáo, tạo nên sự phong phú và đa dạng cho âm nhạc.

Khuôn khổ và cấu trúc của chủ đề âm nhạc có sự đa dạng rõ rệt, với số lượng nhịp có thể thay đổi từ vài nhịp đến nhiều nhịp, tùy thuộc vào vai trò chức năng và thể loại âm nhạc Điều này cho thấy sự phong phú và linh hoạt trong việc xây dựng chủ đề âm nhạc.

Chủ đề bắt đầu ở điệu tính chính và kết trọn ở điệu tính chính thì đó là giới hạn hết chủ đề

Một số chủ đề có thể bắt đầu với điệu tính này nhưng kết thúc với điệu tính khác, và điểm chuyển giao giữa hai điệu tính đó chính là giới hạn của chủ đề.

Giới hạn của chủ đề có thể được xác định khi tiến đến kết thúc, nơi xuất hiện một yếu tố hoàn toàn tương phản Các giai đoạn trình bày chất liệu chủ đề cũng đóng vai trò quan trọng trong việc làm rõ nội dung.

Chất liệu chủ đề được trình bày qua ba giai đoạn

Giai đoạn đầu; chứa đựng sự trần thuật đầu tiên của chủ đề, đôi khi cả đoạn nhắc lại chủ đề để củng cố thêm trong nhận thức

Giai đoạn phát triển; các chủ đề được thay đổi phát triển

Giai đoạn kết của tác phẩm thể hiện sự khẳng định những đường nét hình tượng cơ bản thông qua việc tái hiện hoặc biến đổi chủ đề nguyên dạng Điều này không chỉ làm nổi bật các yếu tố nghệ thuật mà còn mở ra những loại chủ đề đa dạng, góp phần làm phong phú thêm nội dung và ý nghĩa của tác phẩm.

Có hai loại chủ đề

Chủ đề đồng nhất; Là loại chủ đề mà trong đó có một hạt nhân hoặc một vài hạt nhân nhưng gần gũi nhau về tính chất

Chủ đề tương phản; là loại chủ đề có hai chất liệu khác nhau trở lên, tương phản về chất liệu và cấu tạo của nó

Những nguyên tắc phát triển trong hình thức âm nhạc.

Một vài nguyên tắc cơ bản tổng hợp nhất là:

Nhắc lại nguyên dạng; là khi nhắc lại chủ đề, nó được giữ nguyên về cấu trúc và độ dài

Nhắc lại có thay đổi; là có nhắc lại nhưng không nguyên dạng Thay đổi bằng cách thêm hoa mĩ, kết, mở rộng hoặc rút ngắn

Nguyên tắc đổi mới âm điệu

Biến đổi chất liệu từ chủ đề cũ và sự xuất hiện của chất liệu chủ đề mới tạo ra những yếu tố tương phản, bao gồm tương phản đối chiếu, tương phản bổ sung và tương phản hoàn toàn Những yếu tố này không chỉ làm phong phú thêm nội dung mà còn tạo ra sự hấp dẫn và mới mẻ cho người đọc.

Tái hiện nguyên dạng; là khi tái hiện lại chủ đề hoặc một phần nào đó của hình thức được dữ nguyên về khuôn khổ và cấu trúc

Tái hiện có thể được hiểu là việc làm mới một chủ đề hoặc một phần nào đó của hình thức mà không giữ nguyên cấu trúc ban đầu Quá trình này có thể diễn ra thông qua việc mở rộng hoặc rút gọn nội dung, tạo ra sự linh hoạt trong cách thể hiện.

Chức năng từng phần của hình thức Âm nhạc

Trong một tác phẩm âm nhạc thường gồm có các phần sau đây; Phần mở đầu -> Trình bày -> Nối tiếp -> Phần giữa -> Phần tái hiện -> Phần kết

Chức năng là bước chuẩn bị cho phần trình bày chính, nơi giới thiệu điệu tính và hòa âm chủ đạo, đồng thời có thể nêu ra một số yếu tố liên quan đến chủ đề.

Phần đệm trong một bài viết thường không có cấu trúc rõ ràng và không tuân theo quy tắc câu đoạn Chất liệu của phần mở đầu chủ yếu được lấy từ nội dung chính của bài viết, tuy nhiên, cũng có trường hợp sử dụng chất liệu độc lập, được gọi là phần mở đầu sử dụng chất liệu riêng.

Làm nhiệm vụ trần thuật và trình bày những chủ đề chính, chất liêụ, nội dung, hình tượng chính, luôn luôn ở điệu tính chính

Không bao giờ có sự nối tiếp trực tiếp giữa phần phụ và phần chính; thay vào đó, cần có một yếu tố trung gian để chuyển tiếp giữa hai bộ phận chính hoặc giữa hai điệu thức, hoặc hai chất liệu khác nhau.

Phần nối thường thiếu cấu trúc rõ ràng, nhưng thường có đặc điểm chung là nửa đầu của nó thường liên kết chặt chẽ với phần trước, trong khi nửa sau lại kết nối gần gũi với phần sau.

Chất liệu; phần lớn dùng chất liệu trong bài, đôi khi cũng dùng chất liệu riêng

Phần giữa làm nhiệm vụ phát triển các chất liệu đã đưa ra ở phần trình bày Phần giữa có hai dạng:

Phần giữa của bài viết tập trung vào việc phát triển nội dung bằng cách sử dụng các chất liệu đã được trình bày trước đó Các thủ pháp như mô phỏng, mô tiến, chuyển giọng và đảo ảnh được áp dụng để tạo nên sự phong phú cho bài viết Tuy nhiên, đặc điểm nổi bật là sự chuyển giọng thường xuyên và hòa âm điệu thức không ổn định, dẫn đến việc thiếu cấu trúc rõ ràng trong nội dung.

Phần giữa tương phản là một yếu tố quan trọng trong âm nhạc, sử dụng chất liệu mới để tạo sự khác biệt so với phần trình bày trước đó Đặc điểm của phần này thường là sự chuyển đổi sang giọng mới, với cấu trúc rõ ràng, có thể bao gồm một, hai hoặc ba đoạn nhạc.

Giải quyết những mâu thuẫn đã sảy ra ở trong tác phẩm Đặc điểm; tạo sự ổn định cho tác phẩm

Tái hiện lại các chủ đề và được tái hiện bằng hai cách;

Tái hiện nguyên dạng như a – b – a

Tái hiện có thể thay đổi theo hình thức a – b – a’, bao gồm các phương pháp như kéo dài, rút ngắn, thay đổi kết thúc, đảo bè và thêm yếu tố hoa mỹ Dù có sự biến đổi, bản chất của giai điệu vẫn được giữ nguyên.

6 Phần kết (còn gọi là Coda) nằm ở cuối bài

Coda là một loại kết bổ sung cho các nhiệm vụ

Có thể làm khẳng định lại một lần nữa điệu tính chính

Có thể làm cân đối hình thức của tác phẩm

Có thể làm nhiệm vụ phát triển liên tục

Về chất liệu phần lớn Coda lấy ở trong bài, đôi khi cũng sử dụng chất liệu riêng.

Sự phân chia trong hình thức Âm nhạc

1 Ngắt, cơ cấu, phần a Ngắt.

Âm nhạc được phân chia thành các bộ phận riêng biệt, và giữa chúng xuất hiện những khoảng ngưng nghỉ cùng sự chuyển động Những khoảng ngưng nghỉ tạm thời này được gọi là ngắt.

Ngắt là sự phân chia hình thức thành từng bộ phận, chứa đựng mức độ khác nhau về sự hoàn thiện của hình thức b Cơ cấu.

Cơ cấu âm nhạc là một phần của hình thức, có tính độc lập và hoàn thiện ở mức độ thấp hơn Nó không thực hiện chức năng lôgic độc lập hay chức năng cấu trúc trong âm nhạc.

Bộ phận lớn hơn của hình thức có tính hoàn thiện tương đối và thực hiện chức năng cấu trúc độc lập, chẳng hạn như phần trình bày, phần tái hiện, cũng như phần giữa trong hình thức âm nhạc.

Sự phân chia trong hình thức âm nhạc còn được xác định từ hàng loạt các yếu tốhư:

Xuất hiện chất liệu chủ đề mới hoặc hoạt động tương phản

Nhắc lại của chính cơ cấu âm nhạc đã trần thuật

Sự khác nhau của các cơ cấu và các phần lân cận trong khuôn khổ lớn hơn hoặc nhỏ hơn là yếu tố phân chia thường gặp

Bước nhảy trong giai điệu, kết thúc các làn sóng giai điệu, cũng như các cao điểm giai điệu góp phần cho việc phân chia

Xuất hiện nốt nhạc có giá trị trường độ dài hơn ở đầu

Xuất hiện dấu lặng ở ranh giới giữa các cơ cấu

Sự thay đổi về hòa âm

Sự họa lại chất liệu chủ đề cũ sau khi xuất hiện chủ đề mới

Xuất hiện chuyển động tiết tấu mới

Sự thay đổi nhịp độ , điệu tính, âm sắc, âm vực, cường độ, cách cấu tạo

Tính chu kỳ của giai điệu, tiết tấu Là nhân tố chính xác nhất, tạo ra sự phân chia rõ ràng trong hình thức âm nhạc

2 Môtíp, tiết nhạc, câu nhạc. a Môtíp

Môtíp là cơ cấu nhỏ nhất với tính hoàn thiện của tư duy, là một tổ âm bao quanh một phách mạnh

Môtíp là hạt nhân cơ bản của chủđề, có vai trò dẫn dắt sự phát triển trong toàn bộ hình thức b Tiết nhạc

Tiết nhạc bao gồm ít nhất hai môtíp độc lập và hoàn chỉnh, với âm điệu phong phú hơn môtíp đơn lẻ Nó có khuôn khổ rộng lớn hơn và được tổ chức theo mối quan hệ nội dung chặt chẽ.

Có tiết nhạc phân thành từng môtip nhưng cũng có những tiết nhạc không phân thành môtip được c Câu nhạc

Câu nhạc là một đoạn nhạc bao gồm ít nhất hai tiết nhạc, tuy nhiên cũng có những câu nhạc không được phân chia thành tiết Nó thể hiện tư duy âm nhạc tương đối hoàn chỉnh và tạo ra điểm ngắt thời gian trong sự phát triển tổng thể của đoạn nhạc.

Câu nhạc có thể được kết hoàn toàn hoặc không hoàn toàn, ở điệu tính chính hoặc điệu tính phụ thuộc

Câu nhạc mẫu mực ở thời kỳ cổ điển thường có cấu trúc trẵn 4 nhịp hoặc tám nhịp

HÌNH THỨC ÂM NHẠC

Đoạn nhạc

1 Định nghĩa. Đoạn nhạc là hình thức nhỏ nhất của một tác phẩm âm nhạc, thể hiện một tư duy âm nhạc hoàn chỉnh, trong đó có tính thống nhất về chủ đề, về điệu tính và tính tập trung về nội dung

2 Các bộ phận của đoạn nhạc. Đoạn nhạc bao gồm có các bộ phận sau: Đoạn nhạc là trên cùng, dưới đoạn nhạc là câu nhạc, dưới câu nhạc là tiết nhạc, dưới tiết nhạc là mô típ (hay còn gọi là động cơ)

Có năm dạng cấu trúc đoạn nhạc điển hình và mẫu mực, trong đó đoạn nhạc hai câu có nhắc lại là một dạng phổ biến.

Là đoạn nhạc có hai câu mà câu hai nhắc lại câu một

Có thể là nhắc lại nguyên dạng (xx) hoặc nhắc lại có thay đổi (xx’)

Có thay đổi bằng cách; kết hoặc câu 1 dài hơn câu 2 và ngược lại, thêm hoa mĩ luyến láy, đảo bè b Đoạn nhạc hai câu không nhắc lại

Là đoạn nhạc mà câu hai không nhắc lại câu một, ký hiệu (x y) Có hai loaị đoạn nhạc hai câu không nhắc lại

Câu hai phát triển chất liệu từ câu một (tiết tâú)

Câu hai hoàn toàn tương phản với câu một c Đoạn nhạc ba câu

Có hai loại đoạn nhạc: loại thứ nhất gồm ba câu khác nhau, ký hiệu (xyz), và loại thứ hai gồm ba câu liên kết chặt chẽ, trong đó câu hai có thể phát triển từ câu một hoặc câu ba phát triển từ câu hai Thông thường, đoạn nhạc ba câu thường thấy là câu ba phát triển từ câu hai Ngoài ra, còn có đoạn nhạc không phân câu.

Đoạn nhạc phức tạp, hay còn gọi là đoạn nhạc kép, không được phân thành câu nhạc nhưng vẫn có sự phân chia rõ ràng về tiết nhạc và mô típ Đặc điểm của đoạn nhạc này bao gồm hai phần, trong đó phần thứ hai là sự nhắc lại của phần đầu tiên nhưng được chuyển sang một giọng khác, thể hiện sự đa dạng và sáng tạo trong âm nhạc.

Ngoài các bộ phận chính, đoạn nhạc còn có thể bao gồm các bộ phận phụ như mở đầu, nối, và coda Những bộ phận phụ này thường sử dụng chất liệu từ bài chính, nhưng cũng có thể được xây dựng từ chất liệu riêng biệt.

5 Ứng dụng của đoạn nhạc

Đoạn nhạc thường được sử dụng trong các thể loại ca khúc và dân ca, đặc biệt là trong ca khúc thiếu nhi và tiểu phẩm nhạc đàn, cũng như trong các bài tập âm nhạc.

Trong ứng dụng, có hai loại đoạn nhạc: đoạn nhạc độc lập, đóng vai trò cấu trúc cho toàn bộ tác phẩm, và đoạn nhạc phụ thuộc, được sử dụng như một phần trong một tác phẩm lớn hơn.

Vẽ sơ đồ đoạn nhạc, câu nhạc, tiết nhạc

Nêu tên đoạn nhạc, thuộc loại đoạn nhạc nào

Phân tích từng câu, trong đó gồm mấy tiết nhạc, kết ở đâu

Hãy phân tích dạng đoạn nhạc của tác phẩm sau

V.A Mozart: Sonate piano No2 chương I, II, III

V.A Mozart: Sonate piano No5 chương I, II, III.

Đoạn nhạc trong dân ca người Việt – người Kinh

1 Một số đặc điểm trong dân ca người việt

Dân ca người Việt có những cái khác với âm nhạc phương tây

Dân ca người Việt chủ yếu dựa vào các thể loại thơ ca dân gian, với nhịp điệu phân đôi và luôn có phách lấy đà.

Dân ca người Việt phần lớn bắt đầu từ trên cao sau đó xuống thấp dần

Dân ca người Việt sử dụng các thang âm điệu thức chủ yếu là năm âm

2 Các dạng đoạn nhạc trong dân ca người Việt. a Đoạn nhạc 2 câu không nhắc lại, sơ đồ xy b Đoạn nhạc 2 câu có nhắc lại, sơ đồ xx’, không có loại hai câu nhắc lại nguyên dạng c Đoạn nhạc ba câu d Đoạn nhạc 2 câu trong đó câu hai được nhắc lại như một điệp khúc, sơ đồ (xyy) hoặc (xyy’) e Đoạn nhạc 2 câu được nhắc đi nhắc lại, tạo thành hình thức có tính biến tấu f Đoạn nhạc gồm hai thành phần khác nhau, được xây dựng theo lối chu kỳ (hay gặp trong các bài hò; hò sông mã) Điệu cung; 2T+2T+3t+2T+3t Điệu thương; 2T+3t+2T+3t+2T Điệu giốc; 3t+2T+3t+2T+2T Điệu chủy; 2T+3t+2T+2T+3t Điệu vũ; 3t+2T+2T+3t+2T.

Hình thức hai đoạn đơn

1 Định nghĩa, sơ đồ chung

Hình thức hai đoạn đơn là hình thức gồm có hai phần, mỗi phần không vượt quá phạm vi một đoạn nhạc

(phần thứ nhất) (phần thứ hai)

Hình thức hai đoạn đơn xuất phát từ các bài dân ca với cấu trúc phiên khúc và điệp khúc Trong đó, chủ đề âm nhạc ở phần thứ nhất thường được phát triển qua điệp khúc, làm nổi bật chất liệu âm nhạc một cách rõ ràng hơn.

2 Chức năng từng phần và các dạng cấu trúc.

Mỗi phần trong hình thức hai đoạn đơn có chức năng cấu trúc khác nhau a Phần thứ nhất (a):

Chức năng của phần trình bày thường là một đoạn ngắn có sự nhắc lại (xx), thường kết thúc bằng điệu tính chính, đôi khi có thể là điệu tính khác.

Dựa vào đặc điểm của (b), hình thức hai đoạn đơn được chia thành hai dạng cơ bản: hai đoạn đơn tái hiện và hai đoạn đơn không tái hiện.

Hai đoạn đơn tái hiện; là câu thứ hai của đoạn (b) nhắc lại một trong hai câu của đoạn (a)

Hai đoạn đơn không tái hiện; là câu hai của đoạn (b) không nhắc lại câu nào của đoạn (a)

Hình thức hai đoạn đơn còn có hai dạng;

Hai đoạn đơn phát triển; là đoạn (b) sử dụng chất liệu của đoạn (a)

Hai đoạn đơn tương phản; là đoạn (b) hoàn toàn dùng chất liệu mới

3 Các phần phụ, sự nhắc lại từng phần. a Các phần phụ

Trong hình thức hai đoạn đơn, bên cạnh các phần chính, có thể bổ sung thêm các phần phụ như mở đầu, nối tiếp và coda Những phần này có vai trò liên kết các phần chính, giúp hoàn thiện hình tượng âm nhạc Đồng thời, việc nhắc lại từng phần cũng đóng góp vào sự thống nhất và mạch lạc của tác phẩm.

Các phần chính của hình thức hai đoạn đơn cũng có thể được nhắc lại nguyên

Là một phần của tác phẩm có hình thức lớn hơn như; Phần trình bày của hình thức ba đoạn phức, chủ đề của hình thức Rondo, biến tấu

Vẽ sơ đồ đoạn nhạc (a), câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu

Vẽ sơ đồ đoạn nhạc (b), câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu

Nêu tên hình thức hai đoạn đơn thuộc loại nào, dạng nào, nhịp bao nhiêu, giọng gì Đi vào giải thích từng đoạn, từng câu, kết về đâu.

Hình thức ba đoạn đơn

1 Định nghĩa, sơ đồ chung

Hình thức ba đoạn đơn bao gồm ba phần, mỗi phần không vượt quá một đoạn nhạc Mỗi phần trong hình thức này có chức năng độc lập, bao gồm phần trình bày, phần giữa và phần tái hiện.

Trình bày Phần giữa Tái hiện

Hình thức ba đoạn đơn liên quan đến hình thức hai đoạn đơn có tái hiện Khi câu tái hiện từ đoạn hai của hình thức hai đoạn đơn được mở rộng, nó sẽ trở thành một đoạn nhạc độc lập, từ đó hình thành hình thức ba đoạn đơn.

2 Chức năng từng phần và các dạng cấu trúc.

Mỗi phần trong hình thức ba đoạn đơn có chức năng độc lập

Ph ần trình bày (đoạ n a):

Chức năng là phần trình bày nên thường được viết ở dạng đoạn nhạc hai câu (xx’ hoặc xy) Kết trọn ở điệu tính chính hoặc điệu tính chuyển điệu

Phần giữa của hình thức ba đoạn đơn có vai trò quan trọng, được chia thành hai dạng chính: ba đoạn đơn phát triển và ba đoạn đơn tương phản, giúp tái hiện nội dung một cách rõ ràng và mạch lạc.

Ba đoạn đơn phát triển;

Là đoạn (b) lấy chất liệu từ đoạn (a), trường hợp đơn giản nhất là (b) nhắc lại chất liệu của (a) nhưng ởđiệu tính mới

Ba đoạn đơn tương phản;

Là đoạn (b) được hình thành từ chất liệu mới

Đoạn nhạc có thể được trình bày dưới dạng hai hoặc ba câu, không phân câu hoặc rút gọn Mối quan hệ giữa đoạn nhạc (b) và đoạn (a) có thể là trưởng thứ cùng tên, giọng thứ song song, hoặc chủ át, chủ hạ át.

Ph ầ n tái hi ện (đoạn a’): Có hai loại;

Tái hiện nguyên dạng (aba)

Tái hiện có thay đổi (aba’)

3 Các phần phụ, sự nhắc lại từng phần a Các phần phụ. b Sự nhắc lại từng phần.

Hình thức ba đoạn đơn có thể được nhắc lại từng phần, với phần trình bày thường được nhắc lại riêng biệt, trong khi phần giữa và phần tái hiện thường được nhắc lại liền nhau.

Trình bày Phần giữa Tái hiện

4 Ứng dụng của hình thức ba đoạn đơn.

Hình thức ba đoạn đơn thường được áp dụng trong nhiều thể loại tác phẩm như Romance, Nocturne và Prelude Nó có thể được sử dụng để viết các tác phẩm độc lập hoặc làm một phần trong ba đoạn phức, liên quan đến chủ đề của hình thức Rondo và Sonate.

Trong sáng tác thanh nhạc, hình thức ba đoạn đơn không tái hiện (abc) thường được sử dụng Đặc điểm nổi bật của hình thức này là sự khác biệt về đường nét giai điệu, hình tượng và tính chất âm nhạc giữa các đoạn Tuy nhiên, các đoạn này vẫn được liên kết chặt chẽ với nhau thông qua nội dung tư tưởng của bài hát.

Hình thức ba đoạn đơn không có tái hiện hiếm gặp trong các tác phẩm khí nhạc

Vẽ sơ đồ tổng quát tác phẩm

Vẽ sơ đồ đoạn trình bày (a), câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu

Vẽsơ đồđoạn giữa (b), câu nhạc, tiết nhạc, kết ởđâu.

Vẽ sơ đồ đoạn tái hiện (a’), câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu

Nêu tên hình thức ba đoạn đơn thuộc loại nào, dạng nào, nhịp bao nhiêu, giọng gì Đi vào giải thích từng đoạn, từng câu, kết về đâu

Phân tích hình thức cấu trúc của bài hát; Bóng cây Kơnia – sáng tác: Phan Huỳnh Điểu.

Hình thức ba đoạn phức

1 Đĩnh nghĩa, sơ đồ cấu trúc chung

Hình thức ba đoạn phức bao gồm ba phần tái hiện, với mỗi phần có thể được trình bày dưới dạng hai hoặc ba đoạn đơn Phần giữa có cấu trúc linh hoạt hơn so với hai phần đầu và cuối, và đôi khi bao gồm một đoạn nhạc phát triển tự do không ổn định (Episode).

Phần thứ nhất Phần giữa Phần tái hiện Hai đoạn đơn hai đoạn đơn Hai đoạn đơn

Ba đoạn đơn đoạn nhạc phát Ba đoạn đơn triển tự do

2 Cấu trúc từng phần a Phần thứ nhất

Chức năng của bài viết là trình bày một cách thống nhất về chủ đề Thông thường, nội dung được phát triển qua hai hoặc ba đoạn đơn, nhưng cũng có thể được viết theo hình thức ba đoạn đơn tương phản.

Phần đầu của hình thức ba đoạn phức thường bắt đầu và kết thúc bằng điệu tính chính, mặc dù cũng có những trường hợp ngoại lệ Phần giữa đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nội dung và ý tưởng của bài viết.

Trong phần giữa của tác phẩm, giai đoạn đối chiếu nổi bật với sự tương phản so với phần đầu và cuối Sự đối chiếu này có thể được thể hiện qua nhiều cách, bao gồm thay đổi cấu trúc, âm vực và việc giới thiệu những đường nét giai điệu mới.

Phần giữa của hình thức ba đoạn phức có hai dạng chính

Dạng này tạo ra cấu trúc hình thức và ổn định điệu tính, có thể được biểu diễn dưới dạng đoạn nhạc với hai hoặc ba đoạn đơn.

Dạng này không có cấu trúc hình thức cố định và tính ổn định, bất kể việc sử dụng chất liệu mới hay phát triển từ phần trình bày Nó thường dẫn đến sự phát triển phong phú, không ổn định và mạnh mẽ hơn so với dạng Trio.

Phần tái hiện trong hình thức ba đoạn phức cũng như mọi phần tái hiện trong Âm nhạc, có thể là nguyên dạng hoặc có thay đổi

Tái hiện nguyên dạng; theo mẫu mực cổ điển chỉ cần ghi “Da Capo al Fine”,

(tức là biểu diễn lại một lần nữa phần trình bày)

Tái hiện có thây đổi; đơn giản nhất là bỏ bớt sự nhắc lại trong từng phần

Ngoài các phần chính thì hình thức ba đoạn phức còn có thể có thêm các phần phụ như; Mở đầu, nối tiếp, Coda

3 Ứng dụng của hình thức ba đoạn phức

Hình thức ba đoạn phức có thể được sử dụng như một tác phẩm độc lập cho nhiều loại nhạc cụ và giọng hát khác nhau Ngoài ra, nó còn có thể là một chương trong các tác phẩm lớn hơn, chẳng hạn như trong liên khúc Sonata, giao hưởng hay Concerto, thường là chương ba.

Vẽ sơ đồ tổng quát tác phẩm

Vẽ sơ đồ phần trình bày (A), đoạn nhạc, câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu

Vẽsơ đồ phần giữa (B), đoạn nhạc, câu nhạc, tiết nhạc, kết ởđâu.

Vẽ sơ đồ phần tái hiện (A), đoạn nhạc, câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu

Nêu tên hình thức thuộc loại nào, dạng nào, nhịp bao nhiêu, giọng gì Đi vào giải thích chi tiết

5 Hình thức lưng chừng 3-5 đoạn phức.

Hình thức ba năm đoạn đơn (a b a b a) và ba năm đoạn phức (A BA BA) đều sử dụng kỹ thuật nhắc lại để tạo sự liên kết và nhấn mạnh trong nội dung Trong ba năm đoạn phức, phần giữa và phần đầu được lặp lại, làm tăng tính nhấn mạnh và sự mạch lạc cho bài viết.

Hình thức nhắc lại bao gồm năm phần và có thể được hiểu theo hai cách: thứ nhất, là hai hình thức ba đoạn phức gối đầu nhau; thứ hai, là hình thức ba năm đoạn phức Cách giải thích này không chỉ phản ánh nguồn gốc của hình thức mà còn khẳng định chính xác số lượng các phần, cụ thể là năm phần.

Hình thức Rondo

1 Định nghĩa Sơ đồ cấu trúc chung

Rondo là một hình thức âm nhạc bao gồm nhiều phần, trong đó có một chủ đề được lặp lại ít nhất ba lần Xen kẽ giữa những lần lặp lại của chủ đề là các đoạn nhạc khác nhau về nội dung và tính chất, được gọi là đoạn chen.

Hình thức Rondo có nguồn gốc từ các hoạt động múa hát quần vũ ở phương Tây vào thế kỷ XVI-XVII và được phát triển hoàn thiện trong thế kỷ XVIII Từ "Rondo" mang hai ý nghĩa khác nhau.

Hình thức Rondo (là như định nghĩa trên)

Thể loại Rondo là những tác phẩm âm nhạc được ghi chú với chữ "Rondo" ở đầu bài, nhưng khi phân tích lại không hoàn toàn tuân theo hình thức Rondo truyền thống Tóm lại, Rondo mang đặc trưng của những tác phẩm vui tươi, nhảy múa, thể hiện sự sống động và hứng khởi trong âm nhạc.

Hình thức này, thường được dùng trong chương III hoặc chương kết của các bản Sonate hoặc giao hưởng…

2 Các dạng hình thức Rondo

Có ba dạng chính đó là;

Rondo thế kỷ XIX-XX a Rondo cổ pháp.

Loại này do các nhạc sĩ Clavorxanh ở Pháp thế kỷ XVII sáng tạo ra Đặc điểm cấu tạo

Chủ đề (A) dùng hình thức đoạn nhạc, khi nhắc lại chủ đề thường không thay đổi hoặc có thay đổi rất ít

Các đoạn văn không nên dài hơn chủ đề chính Chúng có thể là một đoạn nhạc hoặc không có cấu trúc rõ ràng, thậm chí có thể ngắn hơn một đoạn, chỉ gồm một câu.

Các đoạn tren không tương phản với chủ đề, có khi sử dụng chất liệu của chủ đề để phát triển

Rondo cổ điển thường bao gồm nhiều phần, có thể lên đến 16-32 phần, nhưng không có sự nối liền giữa các phần do thiếu sự tương phản Các đoạn trong Rondo có thể chuyển đổi qua lại giữa các giọng gần gũi như át, song song, hoặc cùng tên.

Loại này được sử dụng trong Âm nhạc thời kỳ cổ điển Viên TK XVIII Đặc điểm cấu tạo

Tiếp tục những nguyên tắc trong Rondo cổ pháp cộng thêm một số cải tiến như; Chủ đề có thể viết ở hình thức 1,2,3 đoạn

Khi chủđề nhắc lại có thể có những thay đổi nhất định như; chuyển sang giọng cùng tên, thêm hoa mĩ

Các đoạn tren phải tương phản với chủ đề, phát triển tự do chuyển giọng nhiều, hòa âm điệu tính không ổn định

Rondo cổ điển có thể dùng nói tiếp và dất hay có Coda (coda được coi như phần chính c Rondo thế kỷ XIX-XX

Tiếp thu Rondo cổ pháp, cổ điển cộng thêm một số đổi mới

Mở rộng tính thể loại, ngoài những tính chất vui vẻ còn có nội dung khác như; chữ tình, vũ khúc mềm mại, hành khúc…

Sử dụng loại Rondo với nhiều phần kết hợp và tính tổ khúc giúp tăng cường sự độc lập giữa các phần Điều này cho phép biểu diễn các trích đoạn mà không cần phải trình bày toàn bộ tác phẩm.

Chủ đề 1,2,3 đoạn, khi nhắc lại có những thay đổi đáng kể như; chuyển giọng, có khi thay đổi cả cấu trúc

Thay đổi ý nghĩa vai trò của đoạn tren Rondo cổ thì chủ đề là chính nhưng ở

TK XIX-XX thì đoạn tren lại là phần chính, có thể được viết ở hình thức 1,2,3 đoạn

Không nhất thiết phải là một chủ đề song đến đoạn tren mà có thể là hai ba đoạn tren ở một chỗ

Thường kết hợp Rondo với các hình thức khác như;

A B A C A Coda (Rondo mang tính đoạn phức)

A B A C A B A Coda (Rondo mang tính sonate)

A B A1 C A2 D A3 Coda (Rondo mang tính biến tấu)

Nói chung Rondo ở thời kỳ này mở rộng về quy mô, phức tạp hóa về nội dung VD: Những bức tranh trong phòng triển lãm của Mu-Xoc-Ki)

3 Ứng dụng của hình thức Rondo.

Rondo là một phần phổ biến trong các chương của liên khúc Sonate giao hưởng và xuất hiện trong nhiều Aria của các vở nhạc kịch Ngoài ra, nó còn được sử dụng như một cấu trúc cho các tác phẩm khí nhạc độc lập.

Vẽ sơ đồ tổng quát tác phẩm, nêu tên loại Rondo

Vẽ sơ đồ chủ đề (A), đoạn nhạc, câu nhạc, tiết nhạc, kết ở đâu

Vẽ sơ đồ đoạn tren Đi vào giải thích chi tiết.

Hình thức biến tấu

1 Định nghĩa Sơ đồ cấu trúc chung

Biến tấu là hình thức nghệ thuật bao gồm nhiều phần, trong đó một chủ đề duy nhất được lặp đi lặp lại với những thay đổi khác nhau Những lần nhắc lại với sự thay đổi này được gọi là các biến khúc (Variation).

Biến tấu được phân thành hai loại chính đó là; biến tấu nghiêm khắc và biến tấu tự do a Biến tấu nghiêm khắc.

Là loại biến tấu mà chủ đề khi nhắc lại không thay đổi về điệu tính, cấu trúc hình thức Biến tấu nghiêm khắc có ba loại chính

Biến tấu trên cơ sở họa lại chủ đề không thay đổi ở bè trầm (basso ostinato)

Biến tấu dựa trên chủ đề không thay đổi ở bè cao (soprano ostinato) được sáng tạo bởi M Glinka và trở thành một yếu tố phổ biến trong nhạc kịch cổ điển Nga.

Hai loại nhạc cụ này phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XVII, và sự khác biệt giữa các biến khúc được hình thành nhờ vào những sự kết hợp đa dạng giữa các bè trên và bè trầm.

Biến tấu trang sức là hình thức biến tấu điển hình, thể hiện rõ ràng sự thay đổi của giai điệu chủ đề Đặc điểm nổi bật của loại biến tấu này là các đường nét giai điệu luôn được trang sức và làm mới qua từng biến khúc Bên cạnh đó, biến tấu tự do cũng là một hình thức quan trọng trong âm nhạc.

Biến tấu tự do trong các tác phẩm giữa thời kỳ của Beethoven không chỉ mở rộng khả năng biểu hiện mà còn phát triển căng thẳng và đổi mới chủ đề Để làm mới chủ đề, bên cạnh nguyên tắc nhắc lại với sự thay đổi, còn có sự thực hiện nguyên tắc phát triển, tạo nên sự phong phú và sáng tạo trong âm nhạc.

VD: Biến tấu op 34 cho Piano – F dur của L V Beethoven c Biến tấu hỗn hợp, biến tấu kép.

Biến tấu hỗn hợp là sự kết hợp giữa biến tấu nghiêm khắc và biến tấu tự do, tạo nên một hình thức sáng tạo độc đáo Loại biến tấu này thường được các nhạc sĩ lãng mạn ưa chuộng và sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm của họ.

Biến tấu theo từng nhóm

3 Ứng dụng của hình thức biến tấu.

Hình thức biến tấu là một kỹ thuật phổ biến trong âm nhạc, có thể xuất hiện như một chương trong liên khúc sonate hoặc như một tác phẩm độc lập Một ví dụ điển hình cho tác phẩm độc lập là Etude giao hưởng cho piano của R Schumann.

Vẽ sơ đồ tổng quát tác phẩm, nêu tên loại Biến tấu Đi vào giải thích chi tiết

Bài tập: Phân tích các tác phẩm sau đây

L V Beethoven chương II sonate cho piano số 10

L V Beethoven chương I sonate cho piano số 12.

Hình thức Sonate

1 Định nghĩa Sơ đồ chung

Hình thức sonate là một trong những hình thức âm nhạc phức tạp và hoàn thiện nhất, với khả năng biểu hiện đa dạng từ cảm xúc nội tâm đến những tư tưởng triết lý phức tạp Cấu trúc của sonate bao gồm các phần trình bày, phát triển, tái hiện và coda, cho phép phản ánh sâu sắc những xung đột và căng thẳng trong cuộc sống.

Chủ đề I,II Chủ đề I,II

2 Các phần của hình thức sonate. a Phần trình bày

Chứa đựng sự trần thuật dầu tiên của chất liệu chủ đề cơ bản để dẫn dắt những bước phát triển tiếp theo

Nối tiếp đến chủ đề phụ (chủ đề II)

Phần phát triển trong hình thức sonate là trung tâm quan trọng, nơi diễn ra sự căng thẳng và phát triển chất liệu chủ đề từ phần trình bày.

Theo mối tương quan trong dàn ý chung, phần phát triển cũng được chia thành ba giai đoạn, đặc biệt trong nhiều mẫu mực cổ điển

Giai đoạn đầ u; Ở giai đoạn này mức phát triển ở mức độ thấp, vì là giai đoạn bắt đầu

- Giai đoạn phát triển chính;

Trải qua những quá trình phức tạp nhất, sâu sắc nhất, căng thẳng nhất trong việc biến đổi chất liệu chủ đề

Giai đoạ n chu ẩ n b ị cho ph ầ n tái hi ệ n;

Trong các tác phẩm âm nhạc của thời kỳ Haydn và Mozart, thường không có phần coda, nhưng đến thời kỳ trưởng thành của Beethoven, coda đã trở thành một phần không thể thiếu, mang tính logic và hoàn thiện cho cấu trúc tác phẩm Phần coda giúp kết thúc một cách rõ ràng và tạo sự hài hòa cho toàn bộ bản nhạc.

Bài tập: Phân tích tác phẩm sau đây

* Mozart Sonate piano số 5 chương I.

Hình thức Rondo Sonate

1 Định nghĩa Sơ đồ chung.

Rondo và sonate là hai hình thức âm nhạc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau Rondo thường lặp lại chủ đề ít nhất ba lần, trong khi sonate thể hiện sự trần thuật và tái hiện hai chủ đề với mối tương quan về điệu tính rõ ràng Sự kết hợp giữa hai hình thức này tạo nên những đặc trưng âm nhạc độc đáo và phong phú.

Sơ đồ chung của hình thức Rondo – Sonate sẽ được hiểu như sau;

Cách gọi Chủđề Chủđề Chủđề Chủđề

Hình thức Sonate chính hai chính hai

Mối quan hệ điệu tính giữa chủ đề AB ở giai đoạn đầu và cuối tương tự như mối quan hệ giữa hai chủ đề trong hình thức Sonate Việc tái hiện chủ đề chính lần cuối có thể bị bỏ qua trong nhiều trường hợp, hoặc đôi khi được phát triển thành phần Coda.

2 Các dạng cấu trúc Rondo sonate

Trong thực hành phân tích, tùy vào tác phẩm mà yếu tố đường nét của Rondo hay Sonate được biểu hiện mạnh hơn trong cấu trúc

Nếu đường nét của Rondo được thể hiện mạnh mẽ hơn, điều này chủ yếu liên quan đến mối quan hệ thể loại Bên cạnh đó, các dấu hiệu như những nét chạy trong nối tiếp và sự tương phản giữa các phần chủ đề và đoạn chen “C” cũng đóng vai trò quan trọng.

Trong hình thức Sonate, các dấu hiệu thể hiện rõ nét, đặc biệt ở đoạn chen "C" trong phần phát triển, nơi chất liệu chủ đề tương phản được thay thế và phát triển mạnh mẽ Giai đoạn nối tiếp giữa chủ đề chính thường dẫn đến phần trình bày, đôi khi hình thành qua giai đoạn kết, như trong chương kết của Giao hưởng No 2 của L V Beethoven.

Trong thực hành phân tích, hình thức Rondo – sonate còn có những cấu trúc khá đặc biệt, như mở rộng thêm doạn chen

Có những tác phẩm lại bỏ bớt phần họa lại chủ đề lần thứ ba như;

Hình thức Rondo – sonate ít gặp trong Âm nhạc lãng mạn.

Hình thức hai đoạn cổ

1 Đĩnh nghĩa, sơ đồ cấu trúc chung.

Hình thức hai đoạn vào cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII thuộc loại hình cổ, với nhiều khác biệt so với hình thức hai đoạn ở thời kỳ sau Điểm đặc biệt là chúng không có phần miêu tả riêng biệt.

Hình thức hai đoạn cổ và hai đoạn thời kỳ sau có sự khác biệt cơ bản về tỷ lệ giữa hai phần Trong đó, phần thứ hai thường dài gấp hai hoặc ba lần phần thứ nhất, với sự nối tiếp liên tục Các phần này có thể được nhắc lại, mặc dù đôi khi không cần thiết phải nhắc lại.

Phần đầu tiên của hình thức hai đoạn đơn cổ thường mang tính thuần nhất, thường là một đoạn gồm hai câu có giai điệu chủ đề tương đồng Những giai điệu này thường chịu ảnh hưởng từ âm nhạc của các vũ điệu, đặc biệt là ở khía cạnh tiết tấu, như điệu Gavotte trong các Suite của Bach.

Trong các vũ điệu, chúng ta thường bắt gặp những đoạn nhạc có cấu trúc ba câu Những tác phẩm này thể hiện giai điệu chủ đề chịu ảnh hưởng từ âm nhạc phức điệu, trong khi các giai điệu chủ đề đơn giản với tính định kỳ lại ít phổ biến hơn.

Giai điệu chủ đề trong phần thứ nhất của hình thức hai đoạn cổ thường được mở rộng và không phân chia rõ ràng thành các câu nhạc Đoạn nhạc bắt đầu bằng những yếu tố chủ đề ngắn, sử dụng các thủ pháp mô-tiến để tạo ra sự luân chuyển liên tục, tương tự như sự luân chuyển chủ đề trong âm nhạc phức điệu.

Hòa âm của phần thứ nhất luôn luôn được viết ở giọng điệu chính và kết thúc đầy đủ ở giọng điệu phụ

Nếu giọng điệu chính là trưởng, thì chúng sẽ được kết thúc ở giọng điệu của bậc V trưởng

Nếu giọng điệu chính là thứ, thì chúng sẽ được kết ở giọng trưởng song song hoặc ở giọng điệu của bậc V thứ (đôi khi kết ở giọng điệu cùng tên)

Ngoài ra phần thứ nhất còn có thể được kết nửa ở giọng điệu chính của tác phẩm

Như đã nêu ở trên, phần thứ nhất có cấu trúc một đoạn nhạc với ảnh hưởng của

“Allemande” trong Suite A-dur của Bach là 32 nhịp) Với sự phát triển, mở rộng thì độ dài của nó gần với độ dài của phần hai

2 Phần thứ hai của hình thức hai đoạn cổ

Trong phần thứ hai của hình thứ hai đoạn cổ, giai điệu chủ đề không có sự đổi mới, mà hoàn toàn dựa vào giai điệu chủ đề của phần thứ nhất Những yếu tố của giai điệu chủ đề này được biến đổi thông qua việc chuyển sang âm khu, cao độ mới hoặc vào một bè khác.

Thứ tự dẫn dắt và biến đổi các nhân tố âm nhạc trong phần thứ nhất gợi nhớ đến âm nhạc trước đó, nhưng không phải là tái hiện Trong khi hình thức hai đoạn thường tái hiện ở các nhạc sỹ thời kỳ sau, thì ở thời kỳ này, việc tái hiện hoàn toàn không tồn tại.

Hoà âm của phần thứ hai có một số đặc điểm sau đây:

Giọng điệu của phần thứ hai thường bắt đầu với cùng giọng điệu hoặc hợp âm kết thúc của phần thứ nhất Cuối phần thứ hai, giọng điệu sẽ trở về giọng điệu chính để hoàn tất hình thức Sự kết hợp hòa âm trong hai đoạn cổ có thể được biểu thị một cách rõ ràng.

Phần thứ nhất Phần thứ hai

Tác phẩm giọng thứ: I - III III - I hoặc là: I - V V - I

Sau khi khởi đầu, hoà âm sẽ chuyển hướng về hạ át thông qua các bước chuyển điệu từ bậc IV, bậc II hoặc bậc VI Việc chuyển điệu này thường diễn ra ngay sau khi nhắc lại giọng điệu hoặc hợp âm của phần thứ nhất ở đầu phần thứ hai, nhưng cũng có thể xảy ra muộn hơn hoặc không có Điều này làm rõ đặc tính chung về hoà âm theo thứ tự các bậc T – D – S – T, một công thức đã được xác định từ đầu thế kỷ XVIII.

Phần thứ hai của tác phẩm thể hiện sự linh hoạt rõ rệt so với phần đầu, nhờ vào những biến đổi trong hòa âm Giọng điệu chính được khôi phục ở cuối phần hai, mặc dù có lúc sự khôi phục này diễn ra khá muộn.

Phần hai của hình thức hai đoạn cổ thường có độ dài gấp hai hoặc gấp ba lần phần thứ nhất, điều này phản ánh quá trình biến đổi và chuyển điệu của hòa âm Nó được chia thành các thành phần âm nhạc, mỗi thành phần có độ dài tương đương với phần thứ nhất Do đó, câu nhạc thứ hai của phần hai có giá trị tương tự như một đoạn nhạc, trong khi phần thứ hai của hình thức được coi là đoạn nhạc phức.

3 Ứng dụng hình thức hai đoạn cổ

Hình thức hai đoạn cổ đã trở nên phổ biến trong các tác phẩm quy mô nhỏ vào cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII Nhiều tác phẩm trong Suite, bao gồm các Vũ điệu, Prélude và nhiều Invention của Bach, đều được sáng tác theo hình thức này.

Hình thức Sonate cổ

Hình thức sonate cổ có mối liên hệ chặt chẽ với hình thức hai đoạn cổ, đều thể hiện sự chuyển đổi từ giọng điệu phụ ở đoạn thứ nhất sang giọng điệu chính ở đoạn thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết thúc toàn bộ tác phẩm Sự hòa âm này được thể hiện rõ nét trong tác phẩm “Allemande” của Bach trong tổ khúc nước Pháp (giọng G-dur), nơi mà 6 nhịp bổ sung ở cuối đoạn thứ nhất được chuyển sang cuối đoạn thứ hai và được viết ở giọng điệu chính.

Sơ đồ cấu trúc này cũng tương tự như cấu trúc trong Sonate № 11 của D

Phần thứ nhất Phần thứ hai

Trong phần đầu tiên, năm nhịp giữa đóng vai trò kết nối chủ đề chính (c-moll), giúp các thành phần trong hình thức có quy mô và ý nghĩa lớn hơn Để làm nổi bật ý nghĩa của chủ đề chính và chủ đề phụ, các thành phần này thường được mở rộng và kéo dài Đặc điểm này xuất hiện phổ biến trong nhiều tác phẩm sonate của Scarlatti.

Chủ đề I Nối Chủ đề II Kết luận a b

Giọng điệu chính Chuyển điệu Giọng điệu phụ Bổ sung giọng điệu phụ

Phần phát triển - Phần tái hiện

Chủ đề I (Nối) Chủ đề II Kết luận a1 b1

Giọng điệu phụ Bước chuyển về giọng điệu chính Giọng điệu chính Bổ sung giọng điệu chính

(Từng phần riêng thường được lặp lại)

Sơ đồ trên chỉ ra rằng hình thức hai đoạn cổ và hình thức sonate cổ đều có hai phần tương đồng Phần đầu tiên của cả hai hình thức này bắt đầu từ hòa âm ổn định và chuyển sang không ổn định, trong khi phần thứ hai lại di chuyển từ không ổn định về ổn định, cụ thể là hòa âm của giọng điệu chính Nhờ vào cấu trúc này, chúng tạo ra sự đối xứng với sự lặp lại đặc trưng của từng phần.

Phần thứ nhất Phần thứ hai

Sự khác biệt giữa hình thức hai đoạn cổ và hình thức sonate cổ phụ thuộc vào các yếu tố âm nhạc ở cuối các phần và số lượng thành phần tham gia Nếu việc nhắc lại chỉ là chuyển đổi nhẹ hoặc bổ sung không đáng kể, thì có thể coi đây là hình thức hai đoạn có dấu hiệu của hình thức Sonate Ngược lại, nếu việc nhắc lại diễn ra quy mô lớn hơn và tính chất âm nhạc của từng thành phần trong phần thứ nhất được thể hiện rõ trong phần thứ hai, thì đây chính là hình thức Sonate cổ.

Sự tương phản về giai điệu chủ đề không là điều bắt buộc của sonate thời kỳ này

2 Phần thứ nhất – Trình bày

Hình thức sonate cổ chứa đựng những yếu tố cơ bản của sonate hoàn thiện, nhưng không phải lúc nào cũng thể hiện sự tương phản rõ ràng giữa các thành phần Chủ đề I, hay chủ đề chính, đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc này.

Chủ đề I rất linh hoạt, thường được xây dựng với quy mô không lớn khoảng từ

Âm nhạc chủ đề I thường được viết trong khoảng 8 đến 16 ô nhịp với một giọng điệu nhất định, kết thúc ở giọng điệu chính hoặc nửa trên bậc V Có trường hợp bè chính có thể kết thúc chuyển điệu về bậc V Chủ đề I có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các thành phần âm nhạc sau đó, thường mang tính đơn giản nhưng chứa đựng nhiều yếu tố biến đổi và mô phỏng theo các nhóm sắc thái ngắn.

Giai điệu chủ đề của phần nối thường liên quan chặt chẽ đến chủ đề I, và hiếm khi âm nhạc của phần nối không bắt nguồn từ chủ đề này Nhiệm vụ chính của phần nối là chuyển đổi và dẫn dắt hòa âm từ giọng điệu chính sang giọng điệu phụ Trong một số trường hợp, phần nối có thể được phát triển và mở rộng để tạo nên sự phong phú cho tác phẩm.

Sơ đồ phần trình bày:

Chủ đề I Nối Chủ đề II Kết luận

Từ sơ đồ này, có thể dễ dàng nhận thấy thủ pháp mô tiến đã được tác giả sử dụng để xây dựng phần nối

Ngoài ra, nối còn được áp dụng sự tương phản bằng cách sử dụng giọng điệu cùng tên, ví dụ D Scarlatti, Sonate № 13:

Chủđề I Nối Chủđề II Kết luận

G g - d d - D c Chủ đề II (chủ đề phụ)

Chủ đề II thường có sự tương phản nhẹ với chủ đề I, thậm chí có thể phát triển từ các yếu tố của chủ đề I Nó thường ổn định về hòa âm và được viết trong một giọng điệu nhất định Trong quá trình luân chuyển, chủ đề II có thể tạo ra sự tương phản thông qua việc sử dụng giọng điệu cùng tên, tương tự như trong bè nối.

Chẳng hạn như trong Sonate № 2 của Scarlatti

Chủ đề I Nối Chủ đề II

G G - D D - d - D Đôi khi có thể gặp sự tương phản chủ đề ở giọng điệu phụ như là những dự báo cơ sở của hình thức sonate sau đó

Việc xây dựng chủ đề phụ thường rất đơn giản và đồng nhất, thể hiện qua việc lặp lại một cách tuần hoàn các yếu tố âm nhạc ngắn gọn.

Phần kết luận thường ngắn gọn, bổ sung cho giọng điệu của chủ đề II Mặc dù nó là một phần riêng biệt, phần kết luận thường được kết hợp với sự kết thúc của chủ đề II.

3 Phần thứ hai – Phát triển và tái hiện

Hình thức sonate cổ khác biệt với sonate đầy đủ, bao gồm ba phần cơ bản: trình bày, phát triển và tái hiện Trong khi đó, sonate cổ không có phần phát triển và chủ đề chính của nó không được nhắc lại.

Phần thứ hai của hình thức sonate cổ bắt đầu bằng việc dẫn dắt và biến đổi các yếu tố của chủ đề chính, được trình bày ở giọng điệu phụ, tương ứng với giọng điệu kết thúc phần trình bày Thỉnh thoảng, các yếu tố từ phần nối cũng được đưa vào để làm phong phú thêm nội dung.

Giọng điệu trong phần phát triển của hình thức sonate cổ có sự biến đổi tùy theo từng trường hợp, thường bắt đầu trùng với giọng điệu kết của phần trình bày Số lượng và thứ tự các giọng điệu phụ trong phần này không cố định, đôi khi chỉ dựa hoàn toàn vào một giọng điệu của bậc V Một số trường hợp, giọng điệu phần phát triển có thể chuyển về hướng hạ át, giống như trong hình thức hai đoạn, trước khi quay trở lại giọng điệu chính.

Trong phần tái hiện của hình thức sonate cổ điển, chỉ có chủ đề phụ và phần kết luận được lặp lại Các thành phần âm nhạc này có sự thay đổi về hòa âm và được chuyển vào giọng điệu chính.

Phần thứ hai của hình thức sonate cổ kết hợp các đặc điểm của phần phát triển và tái hiện, với việc biến đổi các nhân tố chủ đề chính và đề cập đến chủ đề phụ cùng phần kết luận Do đó, nó được gọi là phần phát triển - tái hiện.

Ngày đăng: 10/02/2022, 18:48

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

MÔN HỌC/MÔ ĐUN: HÌNH THỨC ÂM NHẠC - Giáo trình hình thức âm nhạc
MÔN HỌC/MÔ ĐUN: HÌNH THỨC ÂM NHẠC (Trang 1)
Bài 14. Hình thức Rondo Sonate 1. Định nghĩa.Sơ đồ chung. - Giáo trình hình thức âm nhạc
i 14. Hình thức Rondo Sonate 1. Định nghĩa.Sơ đồ chung (Trang 35)
2. Phần thứ hai của hình thức hai đoạn cổ Giai điệu chủ đề - Giáo trình hình thức âm nhạc
2. Phần thứ hai của hình thức hai đoạn cổ Giai điệu chủ đề (Trang 38)
3. Ứng dụng hình thức hai đoạn cổ - Giáo trình hình thức âm nhạc
3. Ứng dụng hình thức hai đoạn cổ (Trang 39)
giá trị như một đoạn nhạc và phần thứ hai của hình thức như là đoạn nhạc phức. - Giáo trình hình thức âm nhạc
gi á trị như một đoạn nhạc và phần thứ hai của hình thức như là đoạn nhạc phức (Trang 39)
Để cho từng thành phần trong hình thức có được quy mô và ý nghĩa lớn hơn (ý nghĩa của chủđề chính, chủđề phụ), các thành phần này có xu hướng được m ở  r ộ ng,  - Giáo trình hình thức âm nhạc
cho từng thành phần trong hình thức có được quy mô và ý nghĩa lớn hơn (ý nghĩa của chủđề chính, chủđề phụ), các thành phần này có xu hướng được m ở r ộ ng, (Trang 40)
cơ sở của hình thức sonate sau đó. - Giáo trình hình thức âm nhạc
c ơ sở của hình thức sonate sau đó (Trang 41)
Sự khác biệt của hình thức sonate cổ với hình thức sonate đầy đủ (có ba phần - Giáo trình hình thức âm nhạc
kh ác biệt của hình thức sonate cổ với hình thức sonate đầy đủ (có ba phần (Trang 42)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN