1. Trang chủ
  2. » Giáo án - Bài giảng

Giáo trình Lý thuyết âm nhạc (Ngành Quản lý văn hóa)

102 755 6

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giáo Trình Lý Thuyết Âm Nhạc
Tác giả Lê Quang Chiến
Trường học Trường Cao Đẳng Cộng Đồng Lào Cai
Chuyên ngành Quản Lý Văn Hóa
Thể loại giáo trình
Năm xuất bản 2023
Thành phố Lào Cai
Định dạng
Số trang 102
Dung lượng 4,61 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I. ÂM THANH (8)
    • 1. Cơ sở vật lí của âm thanh (8)
    • 2. Các thuộc tính của âm thanh có tính nhạc (8)
    • 3. Bồi âm - hàng âm tự nhiên (10)
    • 4. Hệ thống âm nhạc, hàng âm, các bậc cơ bản và tên gọi của chúng, các quãng tám (11)
    • 5. Hệ âm nhạc, hệ âm điều hoà, nửa cung và nguyên cung – các bậc chuyển hoá và tên gọi của chúng (12)
    • 6. Sự trùng âm của các âm thanh (13)
    • 7. Nửa cung Đi-a-tô-ních, Crô-ma-tích và nguyên cung (13)
    • 8. Kí hiệu âm thanh bằng hệ thống chữ cái (15)
  • CHƯƠNG II. PHƯƠNG PHÁP GHI ÂM BẰNG NỐT (16)
    • 1. Nốt nhạc, trường độ và kí hiệu trường độ (hình dạng) - khuông nhạc (16)
    • 2. Khoá (18)
    • 3. Dấu hoá (19)
    • 4. Những dấu hiệu bổ sung vào nốt Nhạc để tăng thêm độ dài của âm thanh (19)
    • 5. Ghi âm nhạc hai bè, ghi âm nhạc cho đàn pi-a-nô Dấu ac - cô - lát, ghi âm nhạc cho hợp ca và hợp xướng (20)
    • 6. Các loại dấu viết tắt trong hệ thống ghi âm bằng nốt nhạc (21)
  • CHƯƠNG III. TIẾT TẤU VÀ TIẾT NHỊP (23)
    • 1. Tiết tấu - cách phân chia cơ bản và tự do các loại trường độ (23)
    • 2. Trọng âm, tiết nhịp, loại nhịp, ô nhịp, vạch nhịp, nhịp lấy đà (25)
    • 3. Tiết nhịp và loại nhịp đơn - cách phân nhóm trường độ trong ô nhịp của các loại nhịp đơn26 4. Các loại tiếp nhịp và loại nhịp phức, phách tương đối mạnh. cách phân nhóm trường độ trong ô nhịp đơn thuộc các loại nhịp phức (26)
    • 5. Các loại nhịp (28)
      • 5.1. Các loại tiết nhịp và loại nhịp hỗn hợp - cách phân nhóm trường độ ô nhịp của các loại nhịp hỗn hợp (28)
      • 5.2. Các loại nhịp biến đổi (29)
    • 6. Đảo phách (nhấn lệch) (29)
    • 7. Cách phân nhóm trường độ trong thanh nhạc (30)
    • 8. Nhịp độ (31)
    • 9. Các thủ pháp chỉ huy (33)
    • 10. Ý nghĩa của tiết tấu, tiết nhịp và nhịp độ trong âm nhạc (34)
  • CHƯƠNG IV. QUÃNG (35)
    • 1. Khái niệm và cấu tạo (35)
    • 2. Độ lớn số lượng và chất lượng của quãng, quãngđơn, quãng đi-a-tô-ních (36)
    • 3. Quãng tăng và quãng giảm (quãngcrô-ma-tích). Sự bằng nhau có tính chất trùng âm của các quãng (38)
    • 4. Đảo quãng (40)
    • 5. Quãng ghép (41)
    • 6. Quãng thuận và quãng nghịch (42)
  • CHƯƠNG V. ĐIỆU THỨC VÀ GIỌNG (44)
    • 1. Âm ổn định, âm chủ, âm không ổn định - sự giải quyết âm không ổn định - điệu thức (44)
    • 2. Điệu thức trưởng - gam trưởng tự nhiên - các bậc của điệu thức trưởng - tên gọi, kí hiệu và đặc tính của các bậc trong điệu trưởng (45)
    • 3. Giọng điệu, các giọng trưởng có dấu thăng và dấu giáng, vòng quãng năm - sự trùng âm của các giọng trưởng (48)
    • 4. Giọng trưởng hoà thanh và giọng trưởng giai điệu (51)
    • 5. Điệu thức thứ, gam thứ tự nhiên – các bậc của điệu thức thứ và các thuộc tính của chúng (52)
    • 6. Điệu thứ hoà thanh và điệu thứ giai điệu - các giọng thứ, các giọng song song, vòng quãngnăm của các giọng thứ (53)
    • 7. Các giọng cùng tên - một vài nét giống và khác nhau của điệu trưởng và thứ - ý nghĩa của điệu thức trưởng và thứ trong âm nhạc (58)
  • CHƯƠNG VI: QUÃNG Ở CÁC GIỌNG TRƯỞNG VÀ THỨ (60)
    • 1. Các quãng của điệu trưởng tự nhiên và điệu thứ tự nhiên (60)
    • 2. Quãng của điệu trưởng hoà thanh và điệu thứ hoà thanh – các quãng đặc biệt (62)
    • 4. Các quãng ổn định và không ổn định - sự khác nhau giữa tính ổn định và tính thuận - giữa tính không ổn định của quãngthuận với tính nghịch - sự giải quyết các quãng nghịch, sự giải quyết các quãng không ổn định theo sức hút (63)
  • CHƯƠNG VII. HỢP ÂM (68)
    • 1. Hợp âm - hợp âm ba- các dạng hợp âm ba - các hợp âm ba thuận và nghịch - đảo hợp âm 68 3. Các hợp âm ba chính ở điệu trưởng và thứ, sự liên kết các hợp âm ba chính (68)
    • 4. Các hợp âm ba phụ của điệu trưởng và thứ. các hợp âm ba trên các bậc của điệu trưởng, thứ tự nhiên và hòa thanh (71)
    • 5. Hợp âm bảy - hợp âm bảy át và các thể đảo - giải quyết hợp âm bảy át và các thể đảo (73)
    • 4. Các hợp âm bảy dẫn - hợp âm bảy của bậc II - hợp âm trong âm nhạc (75)
  • CHƯƠNG VIII. CÁC ĐIỆU THỨC TRONG ÂM NHẠC DÂN GIAN (77)
    • 1. Khái quát chung (77)
    • 2. Các điệu thức âm nhạc dân gian phương Tây (77)
    • 3. Các điệu thức năm âm (78)
  • CHƯƠNG IX. TÍNH CHẤT HỌ HÀNG CỦA CÁC GIỌNG (81)
    • 1. Tính chất họ hàng của các giọng (81)
    • 2. Crô-ma-tích - sự hoá (82)
    • 3. Gam crô-ma-tích - Quy tắc viết gam crô-ma-tích (83)
  • CHƯƠNG X. XÁC ĐỊNH GIỌNG, DỊCH GIỌNG (85)
    • 1. Xác định giọng (85)
    • 2. Dịch giọng (86)
  • CHƯƠNG XI. CHUYỂN GIỌNG (89)
    • 1. Chuyển giọng và chuyển tạm (89)
    • 2. Chuyển giọng sang các giọng họ hàng (89)
  • CHƯƠNG XII. GIAI ĐIỆU (91)
    • 2. Ý nghĩa của giai điệu trong tác phẩm âm nhạc – giai điệu của âm nhạc dân gian (ca khúc)91 3. Hướng chuyển động của giai điệu và tầm cữ của nó – các âm lướt và âm thêu (91)
    • 4. Sự phân chia giai điệu thành từng phần (khái niệm chung về cú pháp trong âm nhạc) - kết cấu, sự ngắt - đoạn nhạc, câu nhạc, sự kết, tiết nhạc - mô típ (94)
    • 4. Các sắc thái cường độ và mối quan hệ của chúng với sự phát triển giai điệu - phương pháp kí hiệu sắc thái cường độ (96)
    • 5. Phân tích tác động qua lại của một số nhân tố của giai điệu (97)
  • CHƯƠNG XIII. ÂM TÔ ĐIỂM; KÝ HIỆU VỀ MỘT SỐ THỦ PHÁP BIỂU DIỄN (98)
    • 1. Âm tô điểm: nốt dựa, âm vỗ, láy chùm, láy rền (98)
    • 2. Kí hiệu về một số thủ pháp biểu diễn (101)

Nội dung

ÂM THANH

Cơ sở vật lí của âm thanh

Danh từ “âm thanh” xác định khái niệm : thứ nhất - âm thanh là một hiện tượng vật lí, thứ hai - âm thanh là một cảm giác

Khi một vật thể đàn hồi như dây đàn rung động, nó tạo ra sự lan truyền của các dao động dưới dạng sóng trong môi trường không khí.

Những dao động này được coi là những sóng âm Từ nguồn phát âm, chúng lan truyền ra theo tất cả các hướng (theo hình cầu)

Cơ quan thính giác tiếp nhận sóng âm, gây ra kích thích trong hệ thống thính giác Những kích thích này được truyền qua hệ thần kinh đến bộ não, từ đó tạo ra cảm giác về âm thanh.

Các thuộc tính của âm thanh có tính nhạc

Chúng ta tiếp nhận nhiều âm thanh khác nhau, nhưng không phải tất cả đều phù hợp với âm nhạc Thính giác của chúng ta có khả năng phân biệt giữa âm thanh có tính nhạc và âm thanh mang tính chất tiếng động.

Âm thanh có tính chất tiếng động thường không có cao độ chính xác, như tiếng rít, tiếng kẹt cửa, tiếng gõ, tiếng sấm, và tiếng rì rào Do đó, những âm thanh này không thể được sử dụng trong âm nhạc.

- Đặc tính của âm thanh có tính nhạc được xác định bởi ba thuộc tính là độ cao, độ mạnh và âm sắc

Độ dài âm thanh đóng vai trò quan trọng trong âm nhạc, mặc dù nó không thay đổi tính chất vật lý Là một thuộc tính cơ bản, độ dài âm thanh có ý nghĩa thiết yếu trong việc tạo nên bản sắc và cảm xúc của tác phẩm âm nhạc.

Bây giờ ta hãy phân tích riêng từng thuộc tính của âm thanh có tính nhạc

- Độ cao của âm thanh phụ thuộc vào tần số (tốc độ) dao động của vật thể rung Dao động càng nhiều, âm thanh càng cao và ngược lại

Độ mạnh của âm thanh phụ thuộc vào sức mạnh của các dao động, tức là quy mô dao động của nguồn âm thanh Không gian diễn ra các dao động được gọi là biên độ dao động Khi biên độ dao động càng rộng, âm thanh phát ra càng lớn, và ngược lại, biên độ nhỏ sẽ tạo ra âm thanh yếu hơn.

1 Trong đàn nhạc hiện đại người ta sử dụng những nhạc cụ gõ có độ cao âm thanh không cố định, Ví dụ kẻng ba góc, trống con, xanh ban, trống cái, v.v

Các nhạc cụ hỗ trợ âm nhạc nhằm tăng cường tính diễn cảm Âm sắc, hay chất lượng âm thanh, được mô tả bằng các từ thuộc nhiều lĩnh vực cảm giác như mềm mại, gay gắt, hay du dương Mỗi nhạc cụ và giọng hát đều sở hữu âm sắc riêng, khiến cho cùng một âm thanh với cao độ nhất định khi phát ra từ các nhạc cụ khác nhau sẽ có màu sắc độc đáo riêng biệt.

Sự khác biệt của âm sắc tuỳ thuộc vào thành phần những âm cục bộ (tức các âm thanh phụ tự nhiên) mà ở mỗi âm thanh đều có

Các âm cục bộ (hay nói cách khác là các bồi âm1) được cấu tạo nên do hình thức phức tạp của sóng âm (xem hình vẽ số 3)

Độ dài của âm thanh phụ thuộc vào độ dài dao động của nguồn phát Cụ thể, nếu quy mô dao động khi âm thanh bắt đầu vang rộng hơn, thời gian ngân vang sẽ kéo dài hơn, miễn là nguồn phát âm được rung động tự do.

Bồi âm - hàng âm tự nhiên

Sóng âm phức tạp xuất hiện khi vật thể như dây đàn dao động, tạo ra các phần tách biệt và độc lập Những phần này phát ra những dao động riêng lẻ, hình thành các làn sóng phụ tương ứng với chiều dài của chúng Các dao động phụ này kết hợp lại tạo thành bồi âm, với độ cao khác nhau do tốc độ dao động của từng sóng tạo ra.

Nếu dây đàn chỉ phát ra âm cơ bản, hình thức sóng âm sẽ như hình vẽ minh họa Độ dài sóng của bồi âm thứ hai, được tạo ra bởi một nửa dây đàn, chỉ bằng nửa độ dài sóng của âm cơ bản Tần số dao động của bồi âm này nhanh hơn gấp đôi so với tần số của âm cơ bản.

1 Bồi âm có nghĩa là âm nằm trên

Nhanh hơn hai lần của các nửa

Nhanh hơn ba lầncủa một phần ba

Nhanh hơn bốn lần của một phần tư v.v

Nếu coi số lượng dao động của âm thanh cơ bản phát ra từ dây đàn là đơn vị, thì số lượng dao động của các bồi âm sẽ được biểu thị bằng một dãy số đơn.

Hàng âm như vậy gọi là hàng âm tự nhiên

Nếu lấy âm Đô của quãng tám lớn làm âm cơ bản, chúng ta sẽ có hàng âm sau :

Hệ thống âm nhạc, hàng âm, các bậc cơ bản và tên gọi của chúng, các quãng tám

Hệ thống âm thanh trong âm nhạc hiện nay bao gồm những âm có mối tương quan về độ cao, được sắp xếp thành hàng âm Mỗi âm thanh trong hàng âm là một bậc, và hệ thống hoàn chỉnh bao gồm 88 âm thanh khác nhau Các âm này dao động từ 16 đến 4176 lần trong một giây, nằm trong giới hạn mà tai người có thể phân biệt được.

Các bậc cơ bản của hàng âm trong hệ thống âm nhạc có bảy tên gọi độc lập Đồ Rê Mi Pha Son La Si ĐỐ

Các bậc cơ bản tương ứng với những âm thanh phát ra khi gõ các phím trắng của đàn pianô :

Bảy tên gọi của các bậc cơ bản được nhắc đến một cách chu kỳ trong hàng âm, bao gồm âm thanh của tất cả các bậc.

Mỗi âm thứ tám tính ngược lên từ âm thanh phát ra khi bấm các phím trắng được tạo ra bằng cách tăng gấp đôi số lượng dao động so với âm đầu tiên Do đó, âm này tương xứng với bồi âm thứ hai của âm xuất xứ, tạo nên sự hòa quyện hoàn hảo với âm đó.

Khoảng cách giữa các âm thanh cùng bậc được gọi là quãng tám, bao gồm bảy bậc cơ bản Toàn bộ hàng âm được chia thành các quãng tám, tạo nên cấu trúc âm nhạc phong phú.

Âm thanh của bậc Đô được coi là âm đầu của quãng tám, trong khi toàn bộ hàng âm bao gồm bảy quãng tám trọn vẹn và bốn âm tạo thành hai quãng tám thiếu ở hai đầu hàng âm trên đàn pianô Các quãng tám được phân loại từ thấp đến cao, bao gồm quãng tám cực trầm, quãng tám trầm, quãng tám lớn, quãng tám nhỏ, quãng tám thứ nhất, quãng tám thứ hai, quãng tám thứ ba, quãng tám thứ tư và quãng tám thứ năm.

Dưới đây là sơ đồ hàng âm của hệ thống âm nhạc dưới hàng bàn phím chia thành những quãng tám :

Hệ âm nhạc, hệ âm điều hoà, nửa cung và nguyên cung – các bậc chuyển hoá và tên gọi của chúng

Mối tương quan về độ cao tuyệt đối (được điều chỉnh chính xác) của các âm trong hệ thống âm nhạc gọi là hệ âm

Hệ âm hiện đại lấy điểm xuất phát từ 440 dao động trong một giây của âm La ở quãng tám thứ nhất

Trong hệ thống âm nhạc hiện nay, quãng tám được chia thành hai phần bằng nhau, tương ứng với mười hai nửa cung Hệ âm này được gọi là hệ âm điều hoà, và điểm khác biệt so với hệ âm tự nhiên là tất cả các nửa cung trong quãng tám đều có kích thước bằng nhau.

Quãng tám được chia thành mười hai nửa cung bằng nhau, trong đó nửa cung là khoảng cách nhỏ nhất giữa các âm trong hệ thống âm nhạc Khoảng cách được tạo ra bởi hai nửa cung được gọi là nguyên cung.

Trong âm nhạc, giữa các bậc cơ bản của hàng âm có hai nửa cung và năm nguyên cung, được sắp xếp theo thứ tự: Đồ, Rê, Mi, Pha, Son, La, Si, Đố.

1/2 cung 1 cung 1 cung 1 cung 1/2 cung

Các nguyên cung được chia thành nửa cung giữa các bậc cơ bản, với âm thanh từ các phím đen trên đàn pianô tạo ra những nửa cung này Do đó, quãng tám bao gồm mười hai âm thanh cách đều nhau.

Mỗi bậc cơ bản của âm nhạc có khả năng được nâng cao hoặc hạ thấp, và các âm tương ứng với các bậc này được gọi là bậc chuyển hoá Do đó, tên gọi của các bậc chuyển hoá được lấy từ tên gọi của các bậc cơ bản.

Trong âm nhạc, việc nâng cao các bậc cơ bản lên nửa cung được gọi là "thăng", trong khi hạ thấp chúng xuống nửa cung được gọi là "giáng" Thăng kép là việc nâng bậc cơ bản lên hai nửa cung, ví dụ như Pha thăng kép Ngược lại, giáng kép là hạ xuống hai nửa cung, chẳng hạn như Si giáng kép.

Việc nâng cao và hạ thấp các bậc cơ bản như đã nêu ở trên gọi là sự hoá

Sự trùng âm của các âm thanh

Tất cả các nửa cung trong quãng tám đều bằng nhau, dẫn đến việc cùng một âm thanh có thể xuất hiện dưới dạng âm chuyển hoá, do nâng bậc cơ bản thấp hơn hoặc hạ thấp bậc cơ bản cao hơn một nửa cung Ví dụ điển hình là Pha thăng và Son giáng.

Sự bằng nhau của bậc có cùng một độ cao nhưng khác tên và kí hiệu gọi là sự trùng âm

Bậc chuyển hoá có thể nằm ở cùng độ cao với bậc cơ bản, như Si thăng và Đô, hay Pha giáng và Mi Tình trạng này cũng xảy ra khi có thăng kép hoặc giáng kép, ví dụ như Pha thăng kép và Son, Mi thăng kép và Pha thăng, Mi giáng kép và Pha thăng, Mi giáng kép và Rê, cũng như Đô giáng kép và Si giáng.

Nửa cung Đi-a-tô-ních, Crô-ma-tích và nguyên cung

Nửa cung đi-a-tô-ních và nửa cung crô-ma-tích có những điểm khác biệt quan trọng Nửa cung đi-a-tô-ních thường liên quan đến các yếu tố như tần số và năng lượng của sóng, trong khi nửa cung crô-ma-tích tập trung vào màu sắc và cách ánh sáng tương tác với vật liệu Việc phân biệt giữa hai loại nửa cung này là cần thiết để hiểu rõ hơn về tính chất và ứng dụng của chúng trong các lĩnh vực khác nhau.

Nửa cung đi-a-tô-ních được hình thành giữa hai bậc kề nhau trong hàng âm Các bậc cơ bản của hàng âm tạo ra hai nửa cung quan trọng là Mi-Pha và Si-Đô.

Ngoài các nửa cung đã nêu, có thể tạo ra các nửa cung đi-a-tô-ních giữa các bậc cơ bản và bậc chuyển hoá nâng cao hoặc hạ thấp kề bên, cũng như giữa hai bậc chuyển hoá.

Nửa cung crô-ma-tích được hình thành giữa bậc cơ bản và các bậc nâng cao hoặc hạ thấp của nó Cụ thể, nó xuất hiện giữa bậc nâng cao và sự nâng cao kép, cũng như giữa bậc hạ thấp và bậc hạ thấp kép.

Nguyên cung đi-a-tô-ních được hình thành giữa hai bậc kề nhau, và có năm nguyên cung cơ bản bao gồm: Đô - Rê, Rê - Mi, Pha - Son, Son - La, và La - Si.

Ngoài ra nguyên cung đi-a-tô-ních có thể được tạo nên giữa bậc cơ bản và bậc chuyển hoá cũng như giữa hai bậc chuyển hoá

Nguyên cung crô-ma-tích được hình thành giữa bậc cơ bản và sự nâng cao hoặc hạ thấp kép của nó, giữa hai bậc chuyển hoá của một bậc cơ bản, và giữa các bậc cách nhau một bậc.

Kí hiệu âm thanh bằng hệ thống chữ cái

Trong âm nhạc, bên cạnh việc sử dụng tên gọi bằng vần cho các âm thanh, người ta còn áp dụng phương thức ký hiệu âm thanh bằng chữ cái dựa trên bảng chữ cái Latinh Các bậc cơ bản được ký hiệu gồm bảy bậc khác nhau.

C, D, E, F, G, A, B Đô, Rê, Mi, Pha, Son, La, Si

Vào thời kỳ trung cổ, hệ thống âm nhạc được hình thành với hàng âm bắt đầu từ âm La, trong đó Si giáng là bậc cơ bản Sau này, Si giáng được thay thế bằng Si, dẫn đến sự thay đổi trong cấu trúc của hàng âm.

La, Si giáng, Đô, Rê, Mi, Pha, Son Để kí hiệu các bậc chuyển hoá người ta thêm vào các chữ cái những vần : is - thăng, isis

- thăng kép, es - giáng, eses - giáng kép Ví dụ : cis - Đô thăng fisis - Pha thăng kép des -Rê giáng gesé - Son giáng kép

Trường hợp ngoại lệ là bậc chuyển hoá Si giáng vẫn giữ nguyên kí hiệu bằng chữ cái B, b

Khi gặp những nguyên âm a và e, để tiện phát âm, người ta tước bỏ trong vần es, thành ra:

Mi giáng không phải là ees mà là es

La giáng được ký hiệu là "as" chứ không phải "aes" Để biểu thị quãng tám, người ta sử dụng các con số và vạch nhỏ Các âm thanh của quãng tám lớn và nhỏ được ký hiệu bằng chữ cái hoa và chữ cái thường.

Ví dụ La quãng tám lớn là A, Son quãng tám nhỏ là g

Các âm thanh của những quãng tám trầm và cực trầm được kí hiệu bằng chữ hoa kèm theo con số hoặc các vạch ở dưới Ví dụ :

Si quãng tám trầm là B1 hoặc B

La quãng tám cực trầm là A2 hoặc A

Câu hỏi hướng dẫn học tập

Chương này học viên cần nắm vững các kiến thức cơ bản :

- Các thuộc tính của âm thanh

- Hệ thống âm nhạc, hàng âm, các bậc cơ bản và tên gọi của chúng

- Hệ thống âm nhạc, hệ âm điều hoà, nửa cung và nguyên cung

Câu 1 Thế nào là âm thanh có tính nhạc

Câu 2 Vẽ sơ đồ hệ thống âm nhạc dưới dạng bàn phím chia thành những quãng tám

Câu 3 Giữa các bậc cơ bản của hàng âm có mấy nửa cung và 1 cung

Câu 4 Hãy ghi kí hiệu của các âm thanh bằng hệ thống chữ cái.

PHƯƠNG PHÁP GHI ÂM BẰNG NỐT

Nốt nhạc, trường độ và kí hiệu trường độ (hình dạng) - khuông nhạc

Hệ thống ghi âm thanh bằng những kí hiệu đặc biệt, những nốt nhạc - được hình thành trong quá trình lịch sử, gọi là cách viết bằng nốt

Nốt nhạc là hình tròn có thể rỗng hoặc đặc, được sử dụng để biểu thị các trường độ âm thanh khác nhau Để phân biệt các trường độ, người ta thêm vào nốt nhạc những vạch thẳng đứng (đuôi) và vạch ngang để nhóm các trường độ nhỏ lại với nhau Tên gọi và ký hiệu của các trường độ âm thanh được thể hiện qua nốt nhạc.

Tên Ký hiệu Độc lập Theo nhóm

Nốt trắng (bằng ẵ nốt trũn)

Nốt đen (bằng ẵ nốt trắng)

; Nốt múc đơn (bằng ẵ nốt đen)

Nốt múc kộp (bằng ẵ nốt múc đơn)

Nốt múc tam (bằng ẵ nốt múc kộp)

Nốt múc tứ (bằng ẵ nốt múc tam)

- Dấu lặng: lặng là sự ngừng vang Độ dài dấu lặng cũng đo như độ dài âm thanh

Dấu lặng tròn Dấu lặng trắng (bằng ẵ Dấu trũn)

Dấu lặng đen (bằng ẵ Dấu trắng) Dấu lặng múc đơn (bằng ẵ Dấu đen) Dấu lặng múc kộp (bằng ẵ nốt múc đơn)

Dấu lặng múc tam (bằng ẵ nốt múc kộp)

Dấu lặng múc tứ (bằng ẵ nốt múc tam) được sử dụng để xác định độ cao của âm thanh trên khuông nhạc, bao gồm năm dòng kẻ song song Các nốt được viết trên các dòng và giữa các dòng, tức là trong các khe Nốt ngắn hơn và nốt có trường độ lớn hơn nốt tròn ít được sử dụng hơn.

Ngoài các dòng kẻ chính, còn dùng những dòng kẻ phụ ngắn cho một số nốt Những dòng này viết dưới hoặc trên khuông nhạc

Để đếm các dòng phụ, tiến hành như sau: đối với các dòng phía trên, bắt đầu từ dòng phụ thứ nhất trở lên; còn đối với các dòng phía dưới, bắt đầu từ dòng phụ thứ nhất trở xuống.

Trên khuông nhạc, đuôi nốt nhạc được đặt bên cạnh hình tròn của nốt Đối với các nốt từ khe thứ hai trở xuống, đuôi sẽ nằm bên phải và quay lên, trong khi các nốt từ dòng thứ ba trở lên sẽ có đuôi bên trái và quay xuống.

Khi nhóm các nốt nhạc có độ cao khác nhau, cần chọn vị trí tối ưu cho các vạch dọc và ngang dựa vào phần giữa của khuông nhạc.

Khoá

Khoá là tên gọi của kí hiệu dùng để xác định một độ cao nhất định cho các âm thanh nằm trên dòng và khe

Khoá đặt ở đầu khuông nhạc, trên một trong những dòng kẻ chính, sao cho dòng đó chạy qua trung tâm nó

Khóa nhạc xác định độ cao và tên gọi của âm thanh, giúp xác định vị trí của các nốt nhạc trên khuông nhạc.

Hiện nay người ta dùng ba loại khác nhau

Tên khoá Chức năng Ký hiệu

Khoá Son quy định nốt Son quãng tám thứ nhất nằm trên dòng kẻ thứ hai từ dưới lên của khuông nhạc

Khóa Pha đánh dấu nốt Pha quãng tám nhỏ trên dòng kẻ thứ tư từ dưới lên của khuông nhạc, trong khi khóa Đô An-tô xác định nốt Đô quãng tám thứ nhất nằm trên dòng kẻ thứ ba từ dưới lên của khuông nhạc.

Tên khoá Chức năng Ký hiệu

Khoá Đô Tê-no quy định nốt Đô quãng tám thứ nhất nằm trên dòng kẻ thứ tư từ dưới lên của khuông nhạc

Khoá Đô an-tô dùng cho đàn an-tô và kèn t’rôm-bôn

Khoá Đô tê-nó dùng cho đàn vi-ô-lông-xen, pha-gốt và t’rôm-bôn

Trước đây, có nhiều loại khóa Đô được sử dụng, bao gồm khoá Đô xô-pra-ô ở dòng thứ nhất, khoá Đô mét-dô xô-pra-nô ở dòng thứ hai, và khoá Đô ba-ri-tông ở dòng thứ năm Những loại khóa này chủ yếu phục vụ cho thanh nhạc, với tên gọi tương ứng với các ngữ âm của giọng người.

Trong hệ thống ghi âm nhạc, việc sử dụng các loại khóa khác nhau giúp giảm thiểu số lượng dòng kẻ phụ, từ đó làm cho việc đọc nốt nhạc trở nên dễ dàng hơn.

Dấu hoá

Vị trí của nốt nhạc có thể bị ảnh hưởng bởi dấu hoá, bao gồm dấu hoá theo khoá và dấu hoá bất thường Dấu hoá theo khoá có hiệu lực trong toàn bộ tác phẩm và áp dụng cho tất cả các quãng tám, trong khi dấu hoá bất thường chỉ có hiệu lực trong một ô nhịp cụ thể.

+ Dấu thăng kép: ký hiệu x

+ Dấu giáng kép: ký hiệu bb

+ Dấu hoàn (dấu bình): ký hiệu

Các dấu hoá đặt bên khoá được gọi là dấu hoá theo khoá, còn khi đặt cạnh nốt nhạc là dấu hoá bất thường

Các dấu hoá theo khoá có hiệu lực trong suốt tác phẩm âm nhạc, đối với tất cả các quãng tám

Các dấu hoá bất thường chỉ có hiệu lực trong một ô nhịp và chỉ đối với âm thanh đứng sau nó.

Những dấu hiệu bổ sung vào nốt Nhạc để tăng thêm độ dài của âm thanh

Ngoài các loại độ dài cơ bản nói trong mục 9, khi viết nốt nhạc người ta còn sử dụng những dấu hiệu tăng độ dài

Các loại dấu đó gồm có : a) Dấu chấm tăng thờm độ dài sẵn cú thờm ẵ , ghi ở bờn phải nốt nhạc :

Dấu chấm thứ hai trong âm nhạc không chỉ tăng thêm trường độ mà còn làm cho độ dài của dấu chấm đầu tiên tăng lên một nửa Dấu liên kết hình vòng cung kết nối độ dài của các nốt cùng cao độ bên cạnh nhau, với tổng độ dài của chúng bằng tổng độ dài các nốt được liên kết Cuối cùng, dấu miễn nhịp cho phép tăng độ dài không hạn định và được biểu thị bằng hình nửa vòng tròn nhỏ có một chấm ở giữa.

Dẫu miễn nhịp đặt trên hoặc dưới nốt nhạc :

Ghi âm nhạc hai bè, ghi âm nhạc cho đàn pi-a-nô Dấu ac - cô - lát, ghi âm nhạc cho hợp ca và hợp xướng

Trong âm nhạc, ta có thể ghi hai bè độc lập trên cùng một khuông nhạc Cụ thể, đuôi các nốt của từng bè được viết riêng biệt và hướng về các chiều khác nhau: đuôi bè trên quay lên, trong khi đuôi bè dưới quay xuống.

Ví dụ : Dân ca Nga “Hỡi cánh đồng của ta“

21 Âm nhạc cho đàn pi-a-nô viết trên hai khuông nhạc, liên kết với nhau bằng một dấu ngoặc ở đầu khuông, gọi là dấu ac-co-lat

Các chồng hai âm và các hợp âm (tức nhiều âm thanh ngân vang cùng một lúc) trong âm nhạc pi-a-nô thường được viết với một đuôi

Ví dụ : D.Ka-ba-lép-xki - Xô-na- ti-op, chương I

Allergo assai e lusinhando (Rất nhanh và đùa nghịch)

Có trường hợp âm nhạc pi-a-nô viết trên ba khuông nhạc (hiếm gặp)

Âm nhạc cho hợp xướng có thể được sáng tác cho bốn bè với cùng một loại giọng, như giọng trẻ em, giọng nữ hoặc giọng nam, hoặc cho hợp xướng hỗn hợp Các tác phẩm này thường được ghi trên hai hoặc bốn khuông nhạc.

Bản ghi nhạc hợp xướng, tứ tấu dây, các loại ăng-xăm khác nhau và dàn nhạc được gọi là tổng phổ.

Các loại dấu viết tắt trong hệ thống ghi âm bằng nốt nhạc

Để đơn giản hóa và rút ngắn cách ghi nhạc, người ta sử dụng dấu hiệu dịch lên hoặc dịch xuống một quãng tám, nhằm giảm số lượng dòng phụ và giúp việc đọc nốt trở nên dễ dàng hơn.

Dấu nhắc lại - tái hiện được sử dụng khi cần nhắc lại một đoạn hoặc toàn bộ tác phẩm, thường áp dụng cho các tác phẩm nhỏ như bài dân ca.

Khi nhắc lại một đoạn nhạc, nếu có sự thay đổi ở cuối đoạn hoặc tác phẩm, các ô nhịp có thay đổi sẽ được đánh dấu bằng dấu ngoặc vuông Sau đó, những ô nhịp cần biểu diễn khi nhắc lại cũng sẽ có dấu ngoặc vuông Dưới dấu ngoặc vuông, người ta ghi số 1 và số 2, tương ứng với dấu nhảy (vôn-ta) thứ nhất và thứ hai, dùng cho lần nhắc lại đầu tiên và thứ hai Đối với tác phẩm theo thể ba đoạn, nếu không muốn lặp lại đoạn ba (là sự lặp lại nguyên đoạn một), ở cuối đoạn hai sẽ ghi "Da capo al fine" (từ đầu đến chữ hết), và ở cuối đoạn một sẽ ghi "fine" (hết).

Nếu như đoạn một không nhắc lại từ đầu, thì trên ô nhịp cần bắt đầu nhắc lại, người ta đặt dấu

(segno), còn ở cuối đoạn hai người ta viết : Dal segno al fine có nghĩa là từ dấu segno đến hết

Khi cần quay lại phần nhạc đã được lặp lại, người ta sử dụng cụm từ "Da capo al segno poi coda", có nghĩa là trở về điểm đánh dấu segno và tiếp tục đến phần coda Để nhắc lại một ô nhịp nào đó nhiều lần, người ta thường sử dụng dấu hiệu đặc biệt Nếu chỉ cần lặp lại một hình nét giai điệu trong cùng một ô nhịp, có thể thay thế bằng những vạch chỉ độ dài thay vì viết lại toàn bộ.

Âm thanh hoặc hợp âm cần nhắc lại được ghi chú rõ ràng, trong khi T’rê-mô-lô thể hiện sự luân phiên nhanh và đều đặn giữa hai âm hoặc hai chùm âm thanh, được ký hiệu một cách cụ thể.

Khi âm thanh lặp lại trong âm hình t’rê-mô-lô, độ dài chung được thể hiện bằng một nốt có độ dài tương đương, trong khi các vạch ngang xác định trường độ biểu diễn âm hình Để tăng cường âm thanh với một âm cao hoặc thấp hơn một quãng tám, người ta ghi số 8 trên hoặc dưới nốt đó.

Khi cần tăng cường liên tục các nốt quãng tám, người ta viết 8va nếu tăng cường về phía trên và 8va basse, nếu tăng cường về phía dưới

Câu hỏi hướng dẫn học tập

Chương này học viên cần nắm vững các kiến thức :

- Kí hiệu trường độ, khuông nhạc, các loại khoá, dấu hoá

- Dấu hiệu bổ sung, dấu lặng

- Các loại dấu viết tắt

Câu 1 Kẻ dòng nhạc và ghi kí hiệu trường độ các nốt tròn, trắng, đen, móc đơn, móc kép, móc tam ở 3 cao độ Son, La, Si

Câu 2 Ghi các kí hiệu dấu lặng tương ứng của trường độ.

TIẾT TẤU VÀ TIẾT NHỊP

Tiết tấu - cách phân chia cơ bản và tự do các loại trường độ

Tiết tấu là tương quan trường độ của các âm thanh nối tiếp nhau

Âm nhạc được hình thành từ sự luân phiên các trường độ âm thanh, tạo nên mối tương quan về thời gian giữa chúng Khi các âm thanh được kết hợp theo một thứ tự nhất định, trường độ sẽ hình thành những nhóm tiết tấu, từ đó tạo ra đường nét tiết tấu chung cho toàn bộ tác phẩm âm nhạc.

Trong âm nhạc, người ta sử dụng các loại trường độ :

1) Cơ bản (chia sẵn), đã nói ở chương hai, đó là những nốt tròn, trắng, đen, móc đơn,v.v

2) Tự do là những trường độ được tạo nên do sự phân chia tự do (ước lệ) các loại trường độ cơ bản thành những phần bằng nhau với bất cứ một số lượng nào

Cách chia tự do thường gặp bao gồm: a) Chùm ba được tạo ra từ việc phân chia độ dài cơ bản thành ba phần; b) Chùm năm được hình thành từ việc chia độ dài cơ bản thành năm phần; c) Chùm sáu được tạo nên từ việc phân chia độ dài cơ bản thành sáu phần; d) Chùm bảy được tạo ra từ việc chia độ dài cơ bản thành bảy phần; và đ) Chùm hai được hình thành từ việc phân chia độ dài cơ bản thành hai phần.

25 e) Chùm bốn được tạo nên do sự phân chia độ dài cơ bản có chấm thành bốn phần (xem

Trong nhóm trường độ, có thể xuất hiện dấu lặng có giá trị tương đương với một trong các trường độ trong nhóm đó Hiếm khi có sự phân chia nhỏ hơn các loại độ dài cơ bản Ví dụ, có những nhóm âm thanh bao gồm 9, 11 hoặc nhiều hơn nữa.

Trọng âm, tiết nhịp, loại nhịp, ô nhịp, vạch nhịp, nhịp lấy đà

Âm thanh trong âm nhạc được tổ chức theo thời gian, tạo ra sự chuyển động nhịp nhàng được gọi là nhịp đập Trong chuyển động này, một số âm thanh nổi bật hơn, được gọi là trọng âm.

Những phách có trọng âm gọi là phách mạnh

Những phách không có trọng âm gọi là phách yếu

Sự nối tiếp đều đặn các phách mạnh và nhẹ gọi là tiết nhịp

Phách của tiết nhịp có thể được thể hiện bằng các trường độ khác nhau

Sự thể hiện các phách của tiết nhịp bằng một trường độ nhất định gọi là loại nhịp

Trong việc ghi âm bằng nốt, loại nhịp được biểu thị bằng hai chữ số đặt cạnh khóa Các chữ số này được sắp xếp sau các dấu hóa, với số ở trên đặt dưới số ở dưới.

Chữ số trên chỉ số phách thể hiện tiết nhịp, trong khi chữ số dưới chỉ ra trường độ của mỗi phách trong loại nhịp đó Đoạn nhạc từ phách mạnh này đến phách mạnh tiếp theo được gọi là ô nhịp.

Trong phương pháp ghi âm bằng nốt, các ô nhịp được phân chia bởi những vạch thẳng đứng cắt ngang khuông nhạc, được gọi là vạch nhịp Vạch nhịp này được đặt trước phách mạnh để làm nổi bật âm thanh của nó.

Khi một bản nhạc bắt đầu từ phách nhẹ, nó sẽ xuất hiện một ô nhịp không đầy đủ được gọi là nhịp lấy đà Thông thường, nhịp lấy đà này không chiếm quá nửa ô nhịp.

Nhịp lấy đà có thể xuất hiện ngay giữa tác phẩm, trước bất kỳ đoạn nào, và thường được đặt ở cuối tác phẩm hoặc cuối mỗi đoạn với hai vạch nhịp.

Trong nhiều trường hợp, các tác phẩm hoặc đoạn văn thường bắt đầu bằng nhịp lấy đà và kết thúc bằng một ô nhịp không đầy đủ, tạo sự bổ sung cho nhịp khởi đầu.

Tiết nhịp và loại nhịp đơn - cách phân nhóm trường độ trong ô nhịp của các loại nhịp đơn26 4 Các loại tiếp nhịp và loại nhịp phức, phách tương đối mạnh cách phân nhóm trường độ trong ô nhịp đơn thuộc các loại nhịp phức

Tiết nhịp trong đó các trọng âm (phách mạnh) lặp lại đều đặn cách một phách một lần gọi là tiết nhịp hai phách

Tiết nhịp trong đó các trọng âm lặp lại đều đặn cách hai phách gọi là tiết nhịp ba phách

Tiết nhịp hai và ba phách có trọng âm được gọi là tiết nhịp đơn, trong đó tất cả các loại nhịp của những tiết nhịp này đều được xem là nhịp đơn Nhịp đơn bao gồm các loại như nhịp 2 phách, còn được gọi là nhịp phân đôi, với các ký hiệu 2/4, 2/2 và 2/8 (ít gặp).

Nhịp 2/2 còn gọi là alla breve và còn kí hiệu khác là : b) Nhịp ba phách 3/2, 3/4, 3/8, 3/19 (ít gặp hơn)

Việc cấu tạo các nhóm trong ô nhịp gọi là sự phân nhóm trường độ

Khi phân nhóm trường độ trong nhịp đơn, các phách cơ bản bản của ô nhịp (những phách có tính chất tiết nhịp) phải được tách rời nhau

Cho phép những trường hợp ngoại lệ sau đây trong việc phân nhóm trường độ ở các loại nhịp đơn

1) Khi các độ dài giống nhau, có thể liên kết tất cả bằng một vạch chung

Trong loại nhịp , vì các phách trong ô nhịp nhỏ, cho nên được phép phân nhóm như sau:

2) Âm thanh có độ dài bằng cả ô nhịp thì ghi bằng một nốt, không dùng dấu nối

Các dấu lặng cũng phân nhóm như các nốt nhạc

4 Các loại tiếp nhịp và loại nhịp phức, phách tương đối mạnh cách phân nhóm trường độ trong ô nhịp đơn thuộc các loại nhịp phức

Các tiết nhịp phức được hình thành do kết hợp các loại nhịp đơn cùng loại

Tiết nhịp phức được cấu thành từ hai hoặc nhiều tiết nhịp đơn, tạo nên nhiều tiết mạnh Số lượng phách mạch trong tiết nhịp phức tương ứng với số lượng các tiết nhịp đơn có trong thành phần của nó.

Trong tiết nhịp phức, trọng âm của phách thứ nhất mạnh hơn các trọng âm khác, vì vậy phách này được gọi là phách mạnh Ngược lại, những phách có trọng âm yếu được gọi là phách tương đối mạnh.

Tất cả các loại nhịp đều thể hiện những tiết nhịp phức, được gọi là nhịp phức Do đó, những thông tin đã đề cập về nhịp phức cũng áp dụng cho tất cả các loại nhịp phức.

Các loại nhịp thể hiện tiết nhịp phức thường gặp bao gồm: nhịp bốn phách như 4/4 (hoặc C), 4/8, và 4/16 (ít gặp hơn); nhịp sáu phách như 6/4, 6/8, và 6/16 (ít gặp hơn); nhịp chín phách như 9/4, 9/8, và 9/16 (ít gặp hơn); và nhịp mười hai phách như 12/8 và 12/16 (ít gặp hơn).

Trong phân nhóm nhịp phức, các loại nhịp đơn không liên kết thành nhóm tiết tấu chung mà tạo thành những nhóm độc lập Âm thanh có độ dài bằng cả ô nhịp phức thường được ghi bằng một trường độ chung, nhưng cũng có thể ghi thành nhiều nốt có dấu nối liên kết, tổng số trường độ của chúng tương đương với các ô nhịp đơn Phương pháp này phù hợp với nguyên tắc phân nhóm trong nhịp phức.

Các loại nhịp

5.1.Các loại tiết nhịp và loại nhịp hỗn hợp - cách phân nhóm trường độ ô nhịp của các loại nhịp hỗn hợp

Các tiết nhịp đơn có thể kết hợp để tạo thành tiết nhịp phức, trong đó sự kết hợp của hai hoặc nhiều loại tiết nhịp tạo ra tiết nhịp phức hỗn hợp Để đơn giản, những tiết nhịp này được gọi là tiết nhịp hỗn hợp, và các loại nhịp thể hiện chúng được gọi là các loại nhịp hỗn hợp.

Trong âm nhạc, nhịp hỗn hợp ít phổ biến hơn so với nhịp đơn và nhịp phức Các loại nhịp năm và bảy phách như 5/4, 5/8, 7/4 và 7/8 thường gặp hơn.

Nhịp hỗn hợp khác nhịp phức ở một số đặc điểm :

1 Cấu trúc của các loại nhịp hỗn hợp phụ thuộc ở trình tự nối tiếp của các loại nhịp đơn hợp thành các loại nhịp hỗn hợp đó, điều này còn có ảnh hưởng đến sự luân phiên của các phách mạnh và tương đối mạnh trong ô nhịp

2 Các phách mạnh và tương đối mạnh trong ô nhịp luân phiên không đều

Ví dụ : a) Loại nhịp năm phách:

Trong nhịp bảy phách, trọng âm có thể rơi vào phách thứ nhất và phách thứ ba, hoặc phách thứ nhất và phách thứ tư.

Trọng âm trong âm nhạc có thể rơi vào các phách khác nhau của ô nhịp Cụ thể, trong trường hợp thứ nhất, trọng âm nằm ở các phách thứ nhất, thứ tư và thứ sáu, trong khi trường hợp thứ hai, trọng âm xuất hiện ở các phách thứ nhất, thứ ba và thứ năm.

Nhịp 7/4 với cấu trúc ô nhịp (3/4+2/4+2/4) là một loại nhịp hiếm gặp trong âm nhạc Trong một số tác phẩm, có thể thấy sự thay đổi trình tự luân phiên giữa các loại nhịp đơn, tạo thành nhịp hỗn hợp Để dễ dàng đọc nốt nhạc trong nhịp hỗn hợp, người ta thường thêm một ký hiệu phụ trong ngoặc đơn bên cạnh ký hiệu cơ bản của loại nhịp, nhằm chỉ rõ hình thức luân phiên các loại nhịp đơn trong ô nhịp.

Ngoài ra, đôi khi còn dùng vạch nhịp phụ bằng các dấu chấm, chỉ rõ chỗ bắt đầu của các loai nhịp đơn trong ô nhịp

Phân nhóm trường độ trong nhịp hỗn hợp tương tự như trong nhịp phức, với đặc điểm nổi bật là sự không cân bằng giữa các nhóm tiết tấu Điều này xảy ra do tính không đồng nhất của các nhịp đơn có mặt trong nhịp hỗn hợp.

Ví dụ về các loại nhịp hỗn hợp :

Chất liệu âm nhạc múa dân gian dân tộc Cao Lan

5.2 Các loại nhịp biến đổi

Trong âm nhạc, có những tác phẩm mà tiết nhịp có sự thay đổi, dẫn đến sự biến đổi cả loại nhịp Các loại nhịp này được gọi là nhịp biến đổi.

Nhịp biến đổi có thể gặp trong dân ca, trong sáng tác của các nhạc sĩ cổ điển Nga và các nhạc sĩ Xô-Viết, v.v

Sự luân phiên giữa các loại nhịp có thể diễn ra đều hoặc không đều Trong trường hợp luân phiên đều, ký hiệu của các loại nhịp được trình bày song song thành hai cột bên cạnh khóa nhạc Ngược lại, khi luân phiên không đều, ký hiệu được ghi ngay trong bản nhạc tại vị trí cần thay đổi nhịp Loại luân phiên không đều thường xuất hiện nhiều hơn trong các tác phẩm âm nhạc.

Trong âm nhạc cũng gặp sự kết hợp đồng thời các loại tiết nhịp khác nhau gọi là tiết nhịp pha

Tiết nhịp pha trong âm nhạc đề cập đến sự kết hợp giữa các giọng (bè) khác nhau, mỗi giọng có tiết nhịp riêng biệt Những trọng âm của các tiết nhịp này có thể trùng hợp hoặc không, tạo nên sự phong phú và đa dạng trong cấu trúc âm nhạc.

Đảo phách (nhấn lệch)

Đảo phách là một hình thức nối tiếp tiết tấu trong âm nhạc, trong đó trọng âm tiết tấu không trùng với trọng âm của nhịp Hiện tượng này thường xảy ra khi phách nhẹ của tiết nhịp kéo dài sang phách mạnh tiếp theo, dẫn đến việc trọng âm chuyển sang phách nhẹ của nhịp.

Âm thanh từ thì nhẹ của bất kỳ phách nào trong tiết nhịp sẽ chuyển sang thì mạnh của phách tiếp theo trong tiết nhịp.

Dưới đây là những hình thức đảo phách cơ bản thường gặp: a) Đảo phách từ ô nhịp này sang ô nhịp khác và b) Đảo phách trong một ô nhịp.

Ngoài ra đảo phách còn có thể hình thành sau dấu lặng ở phách có trọng âm

Khi viết các đảo phách trong ô nhịp, quy tắc phân nhóm trường độ có thể bị lược bỏ Thường thì, đảo phách bên trong ô nhịp kết hợp phách nhẹ với phách mạnh thành một nốt, hoặc được ghi thành hai nốt theo quy tắc phân nhóm Đảo phách giữa các ô nhịp có thể được thể hiện bằng hai nốt nối với nhau qua vạch nhịp.

Cách phân nhóm trường độ trong thanh nhạc

Trong âm nhạc dành cho giọng hát có lời ca, trường độ được phân nhóm theo cách tương ứng với sự phân vần của ngôn ngữ Mỗi vần có độ dài riêng biệt và không liên kết trực tiếp với các trường độ kề bên Khi một vần tương ứng với nhiều âm thanh, các trường độ của những âm thanh đó sẽ được liên kết thành một nhóm theo quy định nhất định.

Văn Cao - “Đàn chim Việt”

Nhịp độ

Nhịp độ là tốc độ chuyển động trong âm nhạc, đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện cảm xúc của tác phẩm Nó phụ thuộc vào nội dung và ý nghĩa mà nhạc sĩ muốn truyền đạt.

Nhịp độ âm nhạc được phân chia thành ba nhóm cơ bản: chậm, vừa và nhanh Để diễn tả các loại nhịp độ này, người ta chủ yếu sử dụng các danh từ tiếng Ý.

Dưới đây là những kí hiệu chủ yếu về nhịp độ

Andante - thanh thản, không vội vã

Khi có sự khác biệt so với những nhịp độ chuyển động cơ bản, người ta dùng một số kí hiệu phụ để làm rõ những sắc thái ấy:

Non tanto - không đến thế

Meno mosso - kém linh hoạt hơn

Piu mosso - linh hoạt hơn, giúp tăng cường tính diễn cảm trong biểu diễn âm nhạc Người nghệ sĩ có thể sử dụng hình thức tăng nhanh hoặc ghìm chậm chuyển động chung của tác phẩm Trong bản nhạc, kí hiệu để ghìm chậm lại là Ritenuto, thể hiện sự cần thiết của việc điều chỉnh nhịp điệu để tạo ra cảm xúc sâu sắc hơn.

In music, various terms indicate changes in tempo, such as "Rallentando," which means to slow down, and "Accelerando," signifying a speed increase "Animado" conveys a sense of excitement, while "Stringendo" also indicates a faster pace The term "Stretto" refers to a more condensed or compressed tempo To return to the original tempo, specific symbols are used.

Tempo primo - trở lại độ nhanh đầu

Tempo le - trở lại độ nhanh thứ nhất

L’istesso tempo - cũng nhịp độ ấy (như độ nhanh trên)

Các loại nhịp độ trong âm nhạc thường được chỉ định bằng ngôn từ, nhưng chỉ mang tính tương đối Để xác định nhịp độ một cách chính xác, người ta sử dụng dụng cụ gọi là Mê-t’rô-nôm, với loại phổ biến nhất là của nhà sáng chế Men-xen Do đó, Mê-t’rô-nôm thường được ký hiệu tắt là M.M, tức là "Mê-t’rô-nôm của Men-xen".

Mê-t’rô-nôm sử dụng quả lắc để phát ra tiếng gõ theo một số lượng nhất định trong một phút, với tốc độ được điều chỉnh bằng quả cân Quá trình chuyển động của quả lắc được điều khiển bởi một bộ máy chạy dây cót Mỗi tiếng gõ đại diện cho một đơn vị thời gian, tương ứng với một phách trong tiết nhịp cụ thể, và có thể được xem như trường độ của các nốt nhạc như nốt trắng, nốt đen hay nốt móc đơn, tùy thuộc vào loại nhịp.

Nhạc sĩ ghi kí hiệu nhịp độ theo Mê-t’rô-nôm sau kí hiệu bằng chữ

Những sai lệch nhỏ trong biểu diễn so với tốc độ do tác giả quy định thường phản ánh cá tính nghệ thuật của người biểu diễn Thông thường, những sai lệch này không ảnh hưởng đến giá trị nghệ thuật, vì chúng liên quan đến cách xử lý và truyền đạt một hình tượng âm nhạc đã được cân nhắc kỹ lưỡng.

Các thủ pháp chỉ huy

Chỉ huy là quá trình điều khiển việc biểu diễn tác phẩm âm nhạc thông qua hợp xướng, dàn nhạc hoặc các ăng-xâm lớn khác Trong lĩnh vực hát và xướng âm, chỉ huy không chỉ đóng vai trò đếm thời gian mà còn chỉ ra độ dài và sự chuyển phách trong ô nhịp, đồng thời xác định nhịp độ cho từng tác phẩm cụ thể.

Cơ sở của các thủ pháp chỉ huy là những hình vung tay hai, ba và bốn phách

Các sơ đồ dưới đây minh họa cho tay phải, trong đó tất cả các loại nhịp đơn hai phách đều được chỉ huy bằng hai lần vung tay - một lần đi xuống và một lần đi lên.

Chú ý : Khởi đầu của mỗi phách trong ô nhịp là lúc kết thúc của động tác vung tay, vào điểm tựa củachuyển động

Hình 1 b) Tất cả các loại nhịp đơn ba phách chỉ huy bằng ba lần vung tay - xuống, sang phải và lên :

Hình 7 c) Loại nhịp bốn phách sử dụng bốn lần vung tay : xuống, sang trái, sang phải và lên :

Nhịp sáu phách được chỉ huy bằng sáu lần vung tay, tương tự như cách chỉ huy bốn phách Trong phương pháp này, động tác vung tay xuống và sang phải được lặp lại hai lần, tạo nên sự nhấn mạnh cho nhịp điệu.

Khi chơi nhạc ở tốc độ nhanh, các nhịp 6/4 và 6/8 thường được chỉ huy giống như nhịp đơn hai phách, với một lần vung tay cho ba phách Đối với nhịp chín phách, chỉ huy sẽ thực hiện chín lần vung tay.

Thủ pháp chỉ huy nhịp điệu âm nhạc dựa vào cách chỉ huy ba phách, với mỗi động tác vung tay lặp lại ba lần Ở tốc độ nhanh, nhịp chín phách được chỉ huy bằng một lần vung tay cho ba lần phách Đối với nhịp mười hai phách, cần mười hai lần vung tay, tương tự như cách chỉ huy bốn phách Mỗi hướng chuyển động tương ứng với một ô nhịp đơn và mỗi động tác vung tay cũng được nhắc lại ba lần Nhịp năm phách yêu cầu năm lần vung tay, trong đó động tác xuống hoặc sang phải được nhắc lại hai lần, tùy theo trình tự nhịp đơn Cuối cùng, nhịp bảy phách được chỉ huy bằng bảy lần vung tay, với các động tác được lặp lại hai lần theo trình tự nhịp đơn 3+2+2 hoặc 2+2+3.

Ý nghĩa của tiết tấu, tiết nhịp và nhịp độ trong âm nhạc

Trong âm nhạc, tiết tấu, tiết nhịp và nhịp độ đóng vai trò quan trọng vì chúng quyết định chuyển động, tính tổ chức và đặc điểm của tác phẩm âm nhạc.

Một số thể loại âm nhạc đặc trưng với những tiết nhịp và tiết tấu riêng biệt, như hành khúc, ma-duốc-ca, pôn-ca và van-xơ Những thể loại này không chỉ mang đến sự phong phú cho nền âm nhạc mà còn thể hiện rõ nét các đặc điểm văn hóa và cảm xúc của người sáng tác.

Có thể minh hoạ ý nghĩa tổ chức tiết tấu bằng tiếng trống thường được dùng để luyện bước đi đều khi diễu hành tập thể:

Nhịp độ có ý nghĩa rất quan trọng trong âm nhạc Nhịp độ bắt đầu không đúng sẽ làm méo mó hình tượng âm nhạc

Câu hỏi hướng dẫn học tập

Chương này các học viên cần nắm vững các kiến thức :

- Tiết tấu, cách phân chia cơ bản và tự do các loại trường độ

- Các loại nhịp và cách phân nhóm trường độ trong ô nhịp

- Đảo phách, các thủ pháp chỉ huy

Câu 1 Hãy viết các chùm 3, chùm 4, chùm 5, chùm 6, chùm 7, chùm 2 tương ứng với các loại trường độ tròn, trắng, đen

Câu 2 Hãy viết các hình thức đảo phách

Câu 3 Vẽ sơ đồ các thủ pháp chỉ huy các loại nhịp 2 phách, 3 phách, 4 phách, 6 phách,

QUÃNG

Khái niệm và cấu tạo

Quãng là sự kết hợp đồng thời hoặc nối tiếp nhau của hai âm thanh Khi các âm thanh này phát ra nối tiếp, chúng tạo thành quãng giai điệu Sự phát ra của các âm thanh trong quãng là yếu tố quan trọng trong việc hình thành giai điệu âm nhạc.

36 đồng thời tạo ra quãng hoà thanh Âm dưới của quãng gọi là âm gốc, còn âm trên gọi là âm ngọn của quãng

Những quãng đi lên và đi xuống được tạo ra trong sự chuyển động của giai điệu :

Ví dụ: M Gin-ca Phu-ga cho pi-a-nô

Tất cả các quãng hòa thanh và quãng giai điệu đi lên đều được đọc từ gốc lên, trong khi các quãng giai điệu đi xuống được đọc từ trên xuống Đồng thời, cần nhấn mạnh cả hướng chuyển động của các quãng này.

Độ lớn số lượng và chất lượng của quãng, quãngđơn, quãng đi-a-tô-ních

Mỗi quãng âm nhạc được xác định bởi hai độ lớn: độ lớn số lượng và độ lớn chất lượng Độ lớn số lượng biểu thị số bậc hợp thành quãng, trong khi độ lớn chất lượng thể hiện số nguyên cung và nửa cung Các quãng nằm trong phạm vi một quãng tám được gọi là quãng đơn, với tổng cộng tám quãng đơn Tên gọi của chúng dựa vào số lượng bậc trong quãng, được lấy từ tiếng La-tinh dưới dạng số thứ tự, cho biết vị trí âm trên so với âm dưới Để tiện lợi, các quãng thường được ký hiệu bằng chữ số.

Sau đây là tất cả các quãng đơn, cũng như cấu trúc của các quãng đó từ âm Đô, đi lên và đi xuống

- Pri - ma - 1, quãng một (hai thanh âm đồng âm)

- Xê-cun-đa - 2, quãng hai

- Xếp-ti-ma - 7, quãng bảy

- ốc-ta-va - 8, quãng tám

Khoảng cách giữa hai bậc kề nhau có thể là một nửa cung hoặc một nguyên cung, do đó một quãng hai có thể bao gồm nửa cung hoặc nguyên cung.

Ví dụ, quãng hai Mi - Pha bằng 1/2 cung, quãng hai Pha - Son bằng một cung

Các quãng cùng loại khác cũng không giống nhau về số lượng cung

Ví dụ, quãng ba Đô - Mi bằng hai cung, quãng ba Rê - Pha bằng một cung 1/2

Độ lớn chất lượng của quãng đóng vai trò quan trọng trong việc phân biệt âm thanh giữa các quãng cùng loại Các thuật ngữ như thứ, trưởng, đúng, tăng và giảm được sử dụng để biểu thị độ lớn chất lượng của quãng.

Giữa các bậc cơ bản của hàng âm (trong phạm vi quãng tám) hình thành những quãng sau đây :

Tất cả các quãng được đề cập đều thuộc về quãng cơ bản, còn được gọi là quãng đi-a-tô-ních Những quãng này nằm giữa các bậc của cả điệu thức trưởng tự nhiên và điệu thức thứ tự nhiên (xem chương 5).

Tất cả các quãng đi-a-tô-ních đều có thể được cấu tạo từ bất cứ bậc cơ bản hoặc chuyển hoá nào, đi lên và đi xuống

Quãng đi-a-tô-ních là nền tảng của giai điệu, cho phép tạo ra sự diễn cảm phong phú thông qua việc kết hợp các quãng giai điệu theo nhiều kiểu nối tiếp khác nhau.

Dân ca U-cren - “Mặt trời lặn trên thảo nguyên”

Quãng tăng và quãng giảm (quãngcrô-ma-tích) Sự bằng nhau có tính chất trùng âm của các quãng

Mỗi quãng đi-a-tô-ních có thể thay đổi độ cao bằng cách điều chỉnh một nửa cung Crô-rô-ma-tích của các bậc cấu thành Cần lưu ý rằng các quãng tăng được hình thành từ quãng đúng và trưởng, trong khi các quãng giảm xuất phát từ quãng đúng và thứ Đặc biệt, quãng một đúng là trường hợp ngoại lệ vì nó không thể giảm.

Tất cả các quãng tăng và giảm gọi là quãng crô-ma-tích

Không nên lẫn lộn quãng bốn tăng và năm giảm (quãng ba cung) với các quãng crô-ma- tích vì chúng là những quãng đi-a-tô-ních

Các quãng tăng: a) Tạo ra do nâng cao bậc trên (ngọn):

39 b) Do hạ thấp bậc dưới (gốc):

1 tăng 2 tăng 3 tăng 5 tăng 6 tăng 7 tăng 8 tăng a) Tạo ra do hạ thấp bậc trên (ngọn): b) Do nâng cao bậc dưới (gốc):

Số lượng cung của mỗi quãng crô-ma-tích với số lượng cung của một quãng nào đó thuộc loại đi-a-tô-ních (cơ bản) :

Ví dụ : quãng 2 tăng bằng quãng 3 thứ ( 1 1/2 cung), quãng 7 giảm bằng quãng 6 trưởng (4 1/2 cung),

Các quãng có âm thanh giống nhau mà có độ lớn số lượng khác nhau gọi là các quãng trùng âm

Các quãng trùng âm có thể có độ lớn tương đương khi có sự thay thế trùng âm cho cả hai âm trong một trong những quãng được so sánh.

Ngoài những quãng crô-ma-tích kể trên, có thể tạo nên những quãng tăng kép bằng cách tăng lên hay giảm xuống hai nửa cung crô-ma-tích

Quãng bốn tăng kép và quãng năm giảm kép là những quãng hay gặp hơn :

Đảo quãng

Sự xáo trộn các âm của quãng, khiến âm dưới thành âm trên, âm trên thành âm dưới gọi là đảo quãng

Có hai cách đảo các âm thanh, đó là :

1 Chuyển âm gốc của quãng (âm dưới) lên một quãng tám

2 Chuyển âm ngọn của quãng (âm trên) xuống một quãng tám Do đảo quãng mà ta có quãng mới:

Theo nguyên tắc, các quãng nhạc đúng sẽ chuyển đổi thành quãng đúng, thứ thành trưởng, trưởng thành thứ, và tăng thành giảm, ngược lại Khi cộng quãng và dạng đảo của nó, ta sẽ nhận được một quãng tám Do đó, tổng số độ lớn chất lượng của các quãng đảo luôn giữ nguyên Tuy nhiên, quãng tám tăng là trường hợp ngoại lệ vì nó không có dạng đảo.

Để dễ dàng lập quãng sáu và quãng bảy đi lên hoặc đi xuống từ một âm thanh nhất định, ta sử dụng phương pháp đảo quãng Để tạo quãng đi lên, ta lấy một quãng tám từ âm khởi điểm và trừ đi phần đảo của quãng đó tính từ trên xuống Ví dụ, để lập quãng sáu thứ từ âm Pha đi lên, ta thực hiện như vậy Ngược lại, để cấu tạo quãng đi xuống, ta cũng lấy một quãng tám từ âm khởi điểm nhưng trừ đi phần đảo của quãng đó tính từ dưới lên Chẳng hạn, để lập quãng bảy trưởng từ âm Đô thăng đi xuống, ta áp dụng phương pháp tương tự.

Quãng ghép

Trong âm nhạc, bên cạnh các quãng đơn, còn tồn tại quãng ghép, là những quãng rộng hơn quãng tám Quãng ghép được hình thành bằng cách thêm một quãng tám vào các quãng đơn, tạo nên sự chồng chéo của các quãng này Tên gọi của các quãng ghép phản ánh phương thức cấu tạo của chúng, mang đến sự phong phú cho giai điệu âm nhạc.

Kí hiệu độ lớn chất lượng của các quãng ghép cũng giống như các quãng đơn, nghĩa là đúng, trưởng, thứ, tăng, giảm

Phương thức chuyển âm khi đảo quãng ghép bao gồm hai cách: Thứ nhất, một trong hai âm của quãng ghép có thể chuyển dịch hai quãng tám, tức là âm dưới lên trên hoặc âm trên xuống dưới Thứ hai, cả hai âm của quãng ghép có thể di chuyển một quãng tám theo hướng ngược chiều nhau, tức là đan chéo.

Có thể tạo ra các quãng ghép lớn hơn quãng mười lăm, cụ thể là quãng tám kép Trong trường hợp này, tên gọi của các quãng đơn vẫn được giữ nguyên, nhưng sẽ có thêm hai hoặc ba quãng tám chồng lên nhau.

Chẳng hạn như quãng ba trưởng chồng lên hai quãng tám

Có thể đảo quãng ghép thành quãng kép Trong trường hợp này các âm chuyển ngược chiều nhau, qua hai quãng tám

Ví dụ về quãng ghép:

V Mô-da - “Múa dân gian”

Quãng thuận và quãng nghịch

Các quãng hoà thanh đi-a-tô-ních chia thành quãng thuận và quãng nghịch

Khái niệm thuận trong âm nhạc có nghĩa là âm thanh vang lên (cùng vang lên) hoà hợp êm tai

Khái niệm nghịch có nghĩa là âm thanh vang lên không hoà hợp, gay gắt

Quãng thuận rất hoàn toàn:

Quãng thuận không hòan toàn

Quãng nghịch là các quãng sau đây :

Về nguyên tắc, các quãng thuận đảo thành quãng thuận, còn các quãng nghịch đảo thành quãng nghịch

Câu hỏi hướng dẫn ôn tập

Chương này các học viêc cần nắm vững kiến thức

- Chất lượng của quãng (đơn, kép, tăng, giảm)

- Quãng ghép, quãng thuận và nghịch

Câu 1 Từ nốt Rê quãng 81, trình bày các quãng từ 1 đến 8

Câu 2 Từ nốt Đô quãng 81, hãy thành lập các quãng 1 đúng, 2 thứ, 2 trưởng, 3 thứ, 3 trưởng, 4 đúng, 4 tăng, 5 giảm, 6 thứ, 7 trưởng, 8 đúng

Câu 3 Hãy cho biết những quãng nào là thuận, quãng nào là nghịch

Câu 4 Từ âm Pha quãng 8thứ nhất, hãy thành lập quãng 6 thứ, 5 đúng, 3 thứ, 3 trưởng,

7 thứ, 7 trưởng và các thể đảo của nó

ĐIỆU THỨC VÀ GIỌNG

Âm ổn định, âm chủ, âm không ổn định - sự giải quyết âm không ổn định - điệu thức

Khi nghe hoặc biểu diễn một tác phẩm âm nhạc, chúng ta nhận thấy sự tồn tại của các mối quan hệ tương quan giữa các âm thanh trong tác phẩm Điều này đặc biệt thể hiện qua sự phát triển của âm nhạc và giai điệu, nơi từ khối âm thanh chung, một số âm thanh nổi bật lên như các âm tựa Thông thường, giai điệu sẽ kết thúc tại một trong các âm tựa này.

Ví dụ: Thật là hay của nhạc sỹ Hoàng Lân

Trong Ví dụ này, phần đầu có các âm tựa là Son và Đô, phần thứ hai là Mi và Đô

Âm tựa, thường được gọi là âm ổn định, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo cảm giác yên tĩnh và ổn định cho giai điệu Khi một giai điệu kết thúc bằng âm tựa, nó mang lại cảm giác hoàn thiện và sự an tâm cho người nghe.

Âm chủ là âm ổn định nổi bật hơn các âm khác, đóng vai trò là điểm tựa chính trong một bản nhạc Trong ví dụ đã nêu, âm chủ được xác định là âm Đô.

Âm không ổn định trái ngược với âm ổn định và có xu hướng bị hút về các âm ổn định Sự tương tác này giữa âm không ổn định và âm ổn định thường xảy ra ở khoảng cách một quãng hai.

Dân ca Nga - “Chúng ta đã hát hết mọi bài“

Trong Ví dụ này, các âm ổn định (âm tựa) là : Son, Mi và Đô (chúng được đánh dấu >)

Các âm không ổn định bị hút về chúng : La về Son, Pha về Mi và Rê về Đô

Trong giai điệu này âm Đô là âm chủ

Sự giải quyết là quá trình chuyển đổi từ âm không ổn định sang âm ổn định Ví dụ 122 minh họa rõ ràng sự chuyển đổi này khi âm Rê chuyển về âm Đô, âm chủ, thể hiện sự ổn định trong âm thanh.

Trong âm nhạc, mối quan hệ về độ cao của các âm thanh được điều chỉnh bởi một hệ thống nhất định, cho thấy sự tương quan rõ ràng giữa chúng.

Hệ thống các mối tương quan giữa âm ổn định và không ổn định gọi là điệu thức

Mỗi giai điệu và tác phẩm âm nhạc đều dựa trên một điệu thức nhất định, đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức mối tương quan về độ cao của âm thanh Điệu thức, kết hợp với các phương tiện diễn cảm khác, tạo nên tính chất đặc trưng cho âm nhạc, phù hợp với nội dung mà nó truyền tải.

Điệu thức trưởng - gam trưởng tự nhiên - các bậc của điệu thức trưởng - tên gọi, kí hiệu và đặc tính của các bậc trong điệu trưởng

Kí hiệu và đặc tính của các bậc trong điệu trưởng cho thấy âm nhạc dân gian có nhiều dạng điệu thức phong phú Sáng tác dân gian được phản ánh một phần trong âm nhạc cổ điển, bao gồm cả Nga và quốc tế, điều này thể hiện tính đa dạng của điệu thức Trong đó, điệu trưởng và điệu thứ là hai loại điệu thức phổ biến nhất Điệu trưởng được định nghĩa là điệu thức có âm ổn định, với hợp ba âm trưởng bao gồm ba âm thanh cách nhau quãng ba: âm dưới và âm giữa cách nhau quãng ba trưởng, trong khi âm giữa và âm trên cách nhau quãng ba thứ Cuối cùng, hai âm ngoài cùng của hợp âm ba tạo thành quãng năm đúng.

Hợp âm ba xây dựng trên âm chủ là hợp âm ba chủ

Những âm không ổn định nằm xen kẽ giữa các âm ổn định Điệu trưởng gồm bảy âm thanh

Hàng âm của điệu thức hay gam 1 được định nghĩa là sự sắp xếp các âm thanh theo thứ tự độ cao, bắt đầu từ âm chủ và kết thúc ở âm chủ của quãng tám tiếp theo.

Các âm thanh họp thành gam gọi là các bậc

Trong gam của điệu trưởng có bảy bậc, được kí hiệu bằng các số La-mã Cần phân biệt rõ giữa các bậc của điệu thức và bậc của hệ thống âm nhạc Các bậc trong hệ thống âm nhạc không sử dụng kí hiệu chữ số và được sắp xếp theo thứ tự độ cao trong toàn bộ tầm cữ âm nhạc.

Các bậc của điệu trưởng tạo ra một nối tiếp các quãng hai Thứ tự các bậc và các quãng hai như sau :

Gam trưởng tự nhiên là gam có trình tự sắp xếp các bậc cụ thể, và điệu thức tương ứng với trình tự này được gọi là điệu thức trưởng tự nhiên.

Ngoài kí hiệu bằng chữ số, mỗi bậc của điệu thức còn có tên riêng nữa :

Bậc II - âm dẫn đi xuống ;

Bậc III - âm trung (mê-đi-ăng) ;

Bậc IV - âm hạ sát (S) ;

Bậc VI - âm hạ trung;

Bậc VII - âm dẫn đi lên (âm cảm) ;

Âm chủ, hạ át và át được gọi là những bậc chính trong âm nhạc, trong khi các âm khác là bậc phụ Âm át cao hơn âm chủ một quãng năm đúng, với bậc ba nằm giữa hai âm này, được gọi là âm trung Âm hạ át thấp hơn âm chủ một quãng năm đúng, và âm hạ trung nằm giữa âm hạ át và âm chủ Dưới đây là sơ đồ vị trí của các bậc âm này.

Các âm dẫn có tên như vậy vì chúng bị hút về âm chủ Âm dẫn nằm dưới bị hút lên, âm dẫn nằm trên bị hút xuống :

VII I II Ở trên đã nói, trong điệu trưởng có ba âm ổn định đó là các bậc I, III, và V Mức độ ổn định của chúng không giống nhau Bậc I - âm chủ - là âm tựa chủ yếu và do đó ổn định hơn cả Các bậc III và V kém ổn định hơn

Các bậc II, IV, VI, VII của điệu trưởng có mức độ không ổn định khác nhau, phụ thuộc vào khoảng cách giữa âm không ổn định và âm ổn định, cũng như mức độ ổn định của âm có sức hút Các bậc VII về I, IV về III (cách các âm ổn định một nửa cung) và II về I (do mức độ ổn định của bậc I) bị hút mạnh nhất, trong khi các bậc khác có mức độ hút ít hơn.

IV về V, II về III và IV về V Dưới đây là sơ đồ hướng bị hút của các âm không ổn định :

VII I II III IV V VI 1/2c 1c 1c 1/2c 1c 1c

Các Ví dụ về sự giải quyết các âm không ổn định :

Dân ca Nga - “Bên kia biển xanh“

Giọng điệu, các giọng trưởng có dấu thăng và dấu giáng, vòng quãng năm - sự trùng âm của các giọng trưởng

Điệu trưởng tự nhiên có thể được hình thành từ bất kỳ bậc nào của hàng âm, bao gồm cả bậc cơ bản và bậc chuyển hoá, miễn là hệ thống sắp xếp các bậc được giữ nguyên như đã nêu trong phần trước.

Giọng là yếu tố quyết định độ cao để phân loại điệu thức trong âm nhạc Tên gọi của giọng phản ánh âm chủ, bao gồm ký hiệu của âm chủ và điệu thức tương ứng.

Ví dụ Đô trưởng hay C-dur2 (theo hệ thống chữ cái)

Giọng trưởng, hay giọng Đô trưởng, được hình thành từ âm Đô và bao gồm tất cả các bậc cơ bản của hàng âm Cấu trúc của giọng này đã được minh họa trong phần trước, cụ thể là trong ví dụ về điệu trưởng.

Trong các giọng điệu trưởng, thành phần âm bao gồm cả các bậc chuyển hóa, với số lượng khác nhau tùy thuộc vào từng giọng Một số giọng trưởng chỉ sử dụng các bậc thăng, và số lượng dấu thăng tương ứng cần được ghi chú Do đó, các điệu trưởng được phân loại thành hai loại: giọng có dấu thăng và giọng có dấu giáng Dấu hoá trong các giọng này được ghi bên cạnh khóa và được gọi là dấu hoá theo khóa.

Các giọng họ hàng được xác định bởi các dấu hoá theo khoá, với thành phần gồm sáu âm chung Giọng họ hàng có dấu thăng của Đô trưởng là Son trưởng, trong đó bậc I cao hơn âm chủ của giọng Đô trưởng một quãng năm đúng Đô trưởng (C-dur) tạo ra quãng 5 đúng, và ở bậc VII của gam Son trưởng, có dấu thăng đầu tiên là Pha thăng.

Âm Son là âm chủ trong ví dụ này, với pha thăng xuất hiện để tạo âm dẫn lên Sự cần thiết này xuất phát từ yêu cầu giữa các bậc VII và I phải có một quãng hai thứ (1/2 cung).

Cao hơn giọng Son trưởngmột quãng năm đúng là giọng Rê trưởng : Ở bậc VII của Rê trưởng có dấu thăng thứ hai - Đô thăng :

Nếu lấy bậc V của giọng trước làm cơ sở cho mỗi gam mới, ta sẽ dần dần có tất cả các giọng trưởng có dấu thăng Mỗi giọng sẽ xuất hiện một dấu hoá ở bậc VII của gam, và quá trình này tiếp tục cho đến khi có bảy dấu hoá Giọng có bảy dấu hoá là giọng tận cùng, vì tất cả các âm của nó đều là những bậc chuyển hoá Tất cả các dấu thăng được viết cạnh khoá theo thứ tự bổ sung dần trong các giọng, với điều kiện sắp xếp theo những quãng năm đúng đi lên.

Sự sắp xếp tất cả các giọng có dấu thăng theo thứ tự họ hàng cho ta một chuỗi các giọng trưởng có dấu thăng sau đây:

Thứ tự sắp xếp các giọng trưởng được xác định bằng cách sắp xếp giọng có dấu thăng theo quãng năm đúng theo chiều đi lên, trong khi giọng có dấu giáng được sắp xếp theo quãng năm đúng theo chiều đi xuống Điều này tạo thành một vòng quãng năm.

Trong âm nhạc, vòng quãng năm khép kín tạo thành một vòng chung cho các giọng có dấu thăng và dấu giáng, nhưng về lý thuyết, các vòng quãng năm (thăng và giáng) tồn tại độc lập như những đường xoắn ốc Khi tiếp tục đi lên theo các quãng năm đúng, sẽ xuất hiện các giọng mới với số lượng dấu thăng ngày càng tăng, trong khi đi xuống sẽ tạo ra những giọng mới với số lượng dấu giáng cũng tăng dần.

Thứ tự các giọng trưởng có dấu giáng trên cơ sở họ hàng cũng xuất hiện như vậy, nhưng là theo các quãng năm đi xuống

Giọng có dấu giáng liên quan đến giọng Đô trưởng thông qua giọng Pha trưởng Cụ thể, bậc I của Pha trưởng thấp hơn âm chủ của Đô trưởng một quãng năm đúng và nằm ở bậc IV (hạ át) của Đô trưởng.

Bằng cách tuần tự xây dựng một quãng năm đi xuống từ âm chủ của giọng trước và sử dụng bậc đó làm nền tảng cho một giọng mới, chúng ta sẽ dần dần hình thành tất cả các giọng trưởng có dấu giáng.

Trong mỗi giọng có dấu giáng, dấu hoá được áp dụng theo khoá mới, với dấu giáng (b) nằm ở bậc IV của gam Khi sắp xếp tất cả các giọng có dấu giáng theo thứ tự họ hàng, ta sẽ có hệ thống các giọng trưởng có dấu giáng.

Ges-dur Đô giáng trưởng

Mỗi giọng trưởng với năm, sáu hoặc bảy dấu thăng tương ứng với một giọng có dấu giáng trong số các giọng có từ năm đến bảy dấu giáng, và điều này cũng đúng theo chiều ngược lại.

Các giọng trùng âm là những giọng có độ cao giống nhau nhưng cókí hiệu (tên gọi) khác nhau.

Giọng trưởng hoà thanh và giọng trưởng giai điệu

Trong âm nhạc, điệu trưởng có bậc VI hạ thấp, được gọi là điệu trưởng hòa thanh, là một khái niệm phổ biến Điệu trưởng hòa thanh thường được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm âm nhạc cổ điển của nhiều nhạc sĩ nước ngoài.

Việc hạ thấp bậc VI xuống một nửa cung làm tăng sức hút về bậc V, tạo ra sự độc đáo cho điệu trưởng nhờ sự hiện diện của các âm hình giai điệu Điều này mang lại cho điệu trưởng một màu sắc đặc trưng của điệu thứ.

Bậc VI hạ thấp không chỉ thay đổi cấu trúc của các hợp âm mà còn ảnh hưởng đến tính chất phần đệm hòa thanh của giai điệu Vấn đề này sẽ được phân tích chi tiết hơn trong chương bảy, và từ đó, điệu thức này được gọi là điệu trưởng hòa thanh.

Dấu hoá hạ thấp bậc VI được viết trước nốt nhạc khi cần đến và được gọi là dấu hoá bất thường

Ví dụ: Đô trưởng hoà thanh:

I II III IV V VI VII (I)

Trong gam của điệu trưởng hoà thanh, thứ tự các quãng hai được sắp xếp như sau: hai trưởng, hai trưởng, hai thứ, hai trưởng, hai thứ, hai tăng và hai thứ Đặc điểm nổi bật của gam trưởng hoà thanh là quãng hai tăng nằm giữa bậc VI và VII.

Trong âm nhạc, điệu trưởng giai điệu ít phổ biến hơn Trong thể loại này, các bậc VI và VII được hạ thấp, tạo ra âm thanh đặc trưng Điệu thức này thường được sử dụng khi giai điệu di chuyển xuống, mang tính chất tương tự như điệu thức tự nhiên.

Điệu thức thứ, gam thứ tự nhiên – các bậc của điệu thức thứ và các thuộc tính của chúng

Điệu thức thứ là một dạng âm nhạc trong đó các âm ổn định kết hợp tạo thành hợp âm ba thứ Hợp âm này bao gồm quãng ba thứ giữa bậc I và III, cùng với quãng ba trưởng giữa bậc II và V Ngoài ra, hai âm ngoài cùng của hợp âm ba thứ tạo thành quãng năm đúng, mang lại sự hòa quyện âm thanh đặc trưng cho điệu thức này.

Hợp âm ba thứ có cấu trúc quãng ba sắp xếp ngược lại so với hợp âm ba trưởng Cả hai điệu trưởng và điệu thứ đều có bảy bậc, nhưng gam thứ khác gam trưởng ở cách nối tiếp các quãng hai.

Thứ tự các quãng hai trong gam thứ tự nhiên như sau : hai trưởng, hai thứ, hai trưởng, hai trưởng, hai thứ, hai trưởng, hai trưởng

Các bậc của gam thứ tự nhiên cũng có những kí hiệu chữ số và tên gọi giống như gam trưởng

Trong điệu thứ tự nhiên, vị trí các âm không ổn định khác với điệu trưởng Cụ thể, sự hút nửa cung xảy ra ở các bậc II, III và VI về V Những âm dẫn sẽ bị hút về âm chủ thông qua một nguyên cung.

Dưới đây là sơ đồ hướng bị hút của các âm không ổn định trong điệu thứ tự nhiên :

Ví dụ âm nhạc ở điệu thứ tự nhiên :

Huy Du - “Anh vẫn hành quân“

Điệu thứ hoà thanh và điệu thứ giai điệu - các giọng thứ, các giọng song song, vòng quãngnăm của các giọng thứ

Trong sự phát triển của âm nhạc, điệu thứ đã trải qua nhiều biến đổi, thể hiện qua sự chuyển hóa của các bậc cơ bản Những thay đổi này ảnh hưởng đến khả năng hấp dẫn của các âm không ổn định.

Ngoài dạng tự nhiên, các dạng thứ hòa thanh và thứ giai điệu được sử dụng phổ biến Điệu thứ hòa thanh khác biệt với điệu thứ tự nhiên ở việc có bậc VII được nâng cao, điều này nhằm tăng cường mức độ hấp dẫn của âm dẫn lên.

Thứ tự các quãng hai trong gam thứ hoà thanh như sau : hai trưởng, hai thứ, hai trưởng, hai thứ, hai tăng, hai thứ :

La thứ (a moll) hoà thanh

1 cung ẵ cung 1 cung 1 cung ẵ cung 1 cung 1 cung

Bậc I II III IV V VI VII (I) có đặc điểm tiêu biểu là điệu thứ hòa thanh với quãng hai tăng giữa các bậc VI và VII Những ví dụ âm nhạc trong điệu thứ hòa thanh thể hiện rõ nét sự kết hợp này.

Dân ca U-cren - “Trăng ơi, đừng chiếu sáng“ Điệu thứ giai điệu khác điệu thứ tự nhiên ở chỗ bậc VI và bậc VII được nâng cao Bậc

Việc nâng cao bậc VI trong gam thứ giai điệu tạo ra sự sắp xếp đều đặn cho các bậc phía trên, đồng thời duy trì âm dẫn đi lên về bậc I cách một nửa cung Tuy nhiên, trong chuyển động đi xuống của gam thứ tự nhiên, bậc nâng cao này không được giữ lại, vì cần phục hồi đặc tính của bậc VI, đó là sự hút về bậc V Hơn nữa, trong quá trình đi xuống, việc nâng cao bậc VII cũng không còn cần thiết.

Trong âm nhạc, có những trường hợp chuyển động đi xuống theo các bậc của điệu thứ giai điệu, đặc biệt là với các bậc VI và VII nâng cao.

Trong gam thứ giai điệu, thứ tự của các quãng hai khi chuyển động đi lên được sắp xếp như sau: hai trưởng, hai thứ, hai trưởng, hai trưởng, hai trưởng, hai trưởng, và cuối cùng là hai thứ.

La thứ (a moll) giai điệu

Bậc : I II III IV V VI VII (I)

Ví dụ âm nhạc ở điệu thứ giai điệu : Đ Ka-ba-lép-xki – “Những biến tấu dễ” op.40 số 2

Bảng so sánh gam thứ tự nhiên, hoà thanh và giai điệu

Các loại giọng thứ cũng vẫn bao gồm những bậc cơ bản và chuyển hoá của hàng âm như trong các giọng trưởng

Các loại giọng thứ có mối quan hệ tương đồng với các giọng trưởng và được sắp xếp theo thứ tự tăng dần dấu hoá Cụ thể, các giọng có dấu thăng được xếp theo quãng năm đi lên, trong khi các giọng có dấu giáng được sắp xếp theo quãng năm đi xuống.

Các giọng trưởng và giọng thứ có thành phần âm thanh tương đồng, hay nói cách khác, chúng có số dấu hóa theo khóa giống nhau, được gọi là các giọng song song Ví dụ, Đô trưởng và La thứ, Mi giáng trưởng và Đô thứ là những cặp giọng song song điển hình.

Âm chủ của giọng thứ song song luôn thấp hơn âm chủ của giọng trưởng một quãng ba thứ, tương ứng với bậc VI của giọng trưởng Khi đã nắm vững các giọng trưởng, việc xác định giọng thứ với bất kỳ số lượng dấu hoá nào sẽ trở nên dễ dàng.

Các dấu thăng tuần tự xuất hiện ở bậc II của mỗi gam trong các gam thứ, các dấu giáng

Dấu hoá của các giọng thứ viết cạnh khoá là rất quan trọng, đặc biệt khi sử dụng các dấu hoá bất thường để chỉ rõ sự thay đổi trong crô-ma-tích của các bậc VI và VII Những dấu hoá này cần được viết trước các nốt nhạc để đảm bảo tính chính xác trong việc thể hiện âm nhạc.

Số lượng giọng thứ tương đương với giọng trưởng, tổng cộng có 15 giọng Tên gọi của các giọng thứ được hình thành tương tự như tên gọi của giọng trưởng Trong hệ thống chữ cái, giọng thứ được ký hiệu bằng chữ moll.

Sắp xếp các giọng thứ theo trình tự họ hàng, ta có hệ thống giọng sau đây :

Các giọng thứ có dấu thăng

Fis-moll Đô thăng thứ

Các giọng thứ có dấu giáng

Son thứ g-moll Đô thứ c-moll

La giáng thứ as-moll

Các giọng có họ hàng của điệu thứ được sắp xếp cách nhau một quãng năm đúng, tạo thành một vòng quãng năm độc lập cho tất cả các giọng của điệu thứ.

Trong tổng số các giọng thứ và giọng trưởng, có sáu giọng trùng âm, bao gồm ba giọng thăng trùng âm với ba giọng giáng và ngược lại.

Son thăng thứ trùng âm với La giáng thứ

Rê thăng thứ trùng âm với Mi giáng thứ

La thăng thứ trùng âm với Si giáng thứ.

Các giọng cùng tên - một vài nét giống và khác nhau của điệu trưởng và thứ - ý nghĩa của điệu thức trưởng và thứ trong âm nhạc

Các giọng trưởng và thứ có âm chủ giống nhau gọi là các giọng cùng tên

Các gam tự nhiên của giọng trưởng và giọng thứ cùng tên khác nhau ở ba bậc III, VI và VII Trong gam thứ, mỗi bậc đó thấp hơn so với những bậc tương ứng ở gam trưởng một nửa cung cromatic Ví dụ, Đô trưởng (C-dur) và Đô thứ (c-moll) thể hiện sự khác biệt này.

Các gam trưởng hoà thanh và thứ hoà thanh cùng tên về âm thanh chỉ khác nhau ở bậc III

Nét giống nhau của chúng là quãng hai tăng giữa các bậc VI và VII

Ví dụ: La trưởng (A-dur) La thứ (a-moll)

Về âm thanh, gam thứ giai điệu khác gam trưởng tự nhiên cùng tên ở bậc III

La trưởng (A-dur) La thứ (a-moll)

Âm nhạc có khả năng diễn cảm nhờ vào sự tương tác của các phương tiện biểu đạt Trong đó, điệu thức đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải nội dung và tính cách nhất định qua âm nhạc.

Âm nhạc, dù cùng một điệu thức, có thể mang đến những sắc thái biểu hiện khác nhau khi kết hợp với các yếu tố khác Nhìn vào âm nhạc hiện đại, đặc biệt là các ca khúc của nhạc sĩ Xô-viết, có thể thấy rằng điệu thứ thường thể hiện nội dung u buồn, khắc nghiệt và đầy kịch tính.

Ví dụ: V.Xa-xa-vi-ốp Xê-đôi - “Chiều hải cảng”

59 Điệu trưởng là đặc tính của loại âm nhạc miêu tả những nội dung trang trọng, vui tươi

Ví dụ: Lưu Hữu Phước - “Ca ngợi Hồ Chủ tịch“

Câu hỏi hướng dẫn học tập

Chương này các học viên cần nắm vững kiến thức :

- Âm ổn định, âm chủ điệu thức

- Điệu thức trưởng có dấu thăng và giáng, vòng quãng 5

- Trưởng hoà thanh, trưởng giai điệu

- Điệu thứ tự nhiên, hoà thanh, giai điệu, giọng song song

Từ nốt Đô quãng 8 thứ nhất, hãy xây dựng điệu thức trưởng, hòa thanh và giai điệu Tương tự, từ nốt La quãng 8 thứ nhất, hãy phát triển điệu thức thứ hòa thanh và giai điệu.

Câu 3 Vẽ sơ đồ vòng quãng 5 các giọng trưởng và thứ

QUÃNG Ở CÁC GIỌNG TRƯỞNG VÀ THỨ

HỢP ÂM

CÁC ĐIỆU THỨC TRONG ÂM NHẠC DÂN GIAN

TÍNH CHẤT HỌ HÀNG CỦA CÁC GIỌNG

XÁC ĐỊNH GIỌNG, DỊCH GIỌNG

CHUYỂN GIỌNG

GIAI ĐIỆU

ÂM TÔ ĐIỂM; KÝ HIỆU VỀ MỘT SỐ THỦ PHÁP BIỂU DIỄN

Ngày đăng: 10/02/2022, 18:51

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w