Xây dựng và khai thác nguồn tư liệu tham khảo cho việc dạy học văn học dân gian trong nhà trường trung học (Trường hợp tỉnh Trà Vinh).Xây dựng và khai thác nguồn tư liệu tham khảo cho việc dạy học văn học dân gian trong nhà trường trung học (Trường hợp tỉnh Trà Vinh).Xây dựng và khai thác nguồn tư liệu tham khảo cho việc dạy học văn học dân gian trong nhà trường trung học (Trường hợp tỉnh Trà Vinh).Xây dựng và khai thác nguồn tư liệu tham khảo cho việc dạy học văn học dân gian trong nhà trường trung học (Trường hợp tỉnh Trà Vinh).Xây dựng và khai thác nguồn tư liệu tham khảo cho việc dạy học văn học dân gian trong nhà trường trung học (Trường hợp tỉnh Trà Vinh).Xây dựng và khai thác nguồn tư liệu tham khảo cho việc dạy học văn học dân gian trong nhà trường trung học (Trường hợp tỉnh Trà Vinh).Xây dựng và khai thác nguồn tư liệu tham khảo cho việc dạy học văn học dân gian trong nhà trường trung học (Trường hợp tỉnh Trà Vinh).Xây dựng và khai thác nguồn tư liệu tham khảo cho việc dạy học văn học dân gian trong nhà trường trung học (Trường hợp tỉnh Trà Vinh).
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Từ việc xây dựng và hướng dẫn tổ chức các hoạt động khai thác nguồn tư liệu tham khảo khi
Luận án về DH VHDG trong chương trình Ngữ văn bậc TH sẽ thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học theo đặc thù thể loại, tập trung phát triển năng lực học sinh Mục tiêu là xây dựng một môi trường dạy học hiện đại, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh giáo dục Việt Nam.
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về nguồn tư liệu và PPDH VHDG theo định hướng phát triển năng lực.
- Mô tả thực trạng của việc DH và nguồn tư liệu DH VHDG trong nhà trường trung học tỉnh Trà Vinh.
- Xây dựng nguồn tư liệu DH và quy trình, cách thức khai thác nguồn tư liệu DH VHDG trong chương trình Ngữ văn TH (hiện hành và sau 2018).
PHẠM VI GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
-Phạm vi về nội dung:
Nguồn tư liệu tham khảo cho việc dạy và học văn học dân gian rất phong phú Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi tập trung nghiên cứu các hình thức tham khảo cơ bản, phù hợp với khả năng và điều kiện của nghiên cứu sinh, học sinh và giáo viên tại các trường TH ở Trà Vinh hiện nay Các tài liệu tham khảo chủ yếu là văn bản được xuất bản bằng tiếng Việt tại Việt Nam, cùng với các tài liệu hình ảnh, âm thanh như video, tranh ảnh và audio.
Các hình thức và phương pháp dạy học được đề xuất nhằm khai thác hiệu quả nguồn tư liệu văn hóa dân gian (VHDG) trong giáo dục cần phù hợp với đặc trưng của từng thể loại Đồng thời, việc tổ chức dạy học cũng cần hướng tới việc phát triển năng lực cho người học, giúp họ tiếp cận và hiểu sâu hơn về giá trị văn hóa dân gian.
Phạm vi khảo sát của chúng tôi được giới hạn tại một số khu vực của tỉnh Trà Vinh, nơi có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã và thành phố cùng 106 xã, phường, thị trấn Chúng tôi nhận thấy rằng cả nông thôn và thành thị đều có những ưu điểm riêng, đóng góp quan trọng cho việc đánh giá thực trạng tư liệu dạy học văn hóa dân gian Do đó, khảo sát sẽ được thực hiện đồng đều ở các khu vực này.
14 khu vực, với 850 phiếu khảo sát GV và HS ở bậc THCS, THPT đã phát ra.
- Phạm vi về thời gian: Thời gian nghiên cứu đề tài 36 tháng (từ 01/2016 đến 12/2018).
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Để xây dựng cơ sở lý luận và tài liệu tham khảo cho đề tài văn hóa dân gian, việc thu thập tài liệu liên quan đến thể loại này là rất quan trọng Do đó, phương pháp nghiên cứu tài liệu với các bước phân tích và khái quát hóa đã được áp dụng ngay từ đầu.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu các tác phẩm và công trình liên quan đến văn hóa dân gian (VHDG), bao gồm sưu tầm, tuyển tập và các nghiên cứu về phương pháp dạy học VHDG Bên cạnh đó, chúng tôi cũng phân tích cấu trúc và thời lượng chương trình VHDG trong sách giáo khoa Ngữ văn bậc trung học hiện hành và sau năm 2018 Những nghiên cứu này không chỉ cung cấp cơ sở lý luận cho luận án mà còn giúp xác định nguồn tư liệu cần thiết cho việc dạy học VHDG.
Chúng tôi tiến hành phân tích mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học (PPDH) của các bài dạy văn học dân gian trong chương trình Ngữ văn bậc trung học hiện hành và chương trình môn Ngữ văn sau.
2018 Từ đó chúng tôi sẽ có cái nhìn hệ thống, tích hợp để định hướng xây dựng hệ thống tư liệu hỗ trợ việc dạy học VHDG phù hợp.
Chúng tôi áp dụng kỹ thuật phân loại - hệ thống để tổ chức và phân loại nguồn tài liệu liên quan đến các vấn đề nghiên cứu Mục tiêu là phục vụ cho việc xây dựng cơ sở lý luận của đề tài và định hướng khai thác nguồn tài liệu dạy học văn hóa dân gian ở bậc trung học tại Trà Vinh.
Phương pháp điều tra giáo dục
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng dạy học văn hóa dân gian (VHDG) tại một số trường trung học ở tỉnh Trà Vinh thông qua phiếu điều tra, quan sát dự giờ và phỏng vấn học sinh (HS), giáo viên Ngữ văn và Ban giám hiệu Đối với HS, chúng tôi sử dụng phiếu điều tra để thu thập dữ liệu tổng thể, trong khi phỏng vấn sâu giáo viên và Ban giám hiệu nhằm thu thập thông tin chi tiết hơn Ngoài ra, phương pháp quan sát dự giờ được áp dụng để nắm bắt trực tiếp thực trạng dạy học VHDG.
DH, tư liệu VHDG ở các trường TH và kết quả thực nghiệm.
Trà Vinh có 9 huyện, thị xã, thành phố, bao gồm Thành phố Trà Vinh, thị xã Duyên Hải và các huyện như Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Duyên Hải, Tiểu Cần, Trà Cú Để đảm bảo tính đại diện về đặc điểm kinh tế - xã hội và dân cư, chúng tôi đã khảo sát 01 trường THCS và 01 trường THPT tại mỗi huyện Cụ thể, khảo sát được thực hiện ở Thành phố Trà Vinh, huyện Duyên Hải, Trà Cú, Cầu Kè, Cầu Ngang, Tiểu Cần, Châu Thành, Càng Long và Thị xã Duyên Hải Phương pháp lấy mẫu là ngẫu nhiên thuận tiện, với tổng mẫu khảo sát gồm 850 người, bao gồm 92 giáo viên, 729 học sinh và 17 lãnh đạo trường từ 17 cơ sở giáo dục (09 trường THPT, 07 trường THCS và 01 Trung tâm Giáo dục Thường xuyên Hướng nghiệp Dạy nghề Thành phố Trà Vinh).
Chúng tôi đã sử dụng phần mềm SPSS để xử lý kết quả khảo sát, đảm bảo tính đáng tin cậy Đây là cơ sở quan trọng giúp xây dựng hệ thống tài liệu tham khảo về các phương pháp khai thác hiệu quả tư liệu văn hóa dân gian, nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn tại các trường THPT tỉnh Trà Vinh.
Phương pháp chuyên gia
Phương pháp chuyên gia được áp dụng để khai thác trí tuệ và thu thập ý kiến từ các chuyên gia có trình độ cao và kinh nghiệm thực tiễn trong nghiên cứu giáo dục Phương pháp này không chỉ giúp nghiên cứu sinh định hướng nghiên cứu và công bố kết quả, mà còn hỗ trợ trong việc vận dụng các đề xuất khai thác tư liệu qua các hoạt động dạy học văn hóa dân gian (VHDG) Có hai hình thức chính của phương pháp này: tổ chức xê-mi-na tại Trường Đại học Đà Lạt vào ngày 16/5/2018 để thu thập ý kiến từ các chuyên gia nghiên cứu VHDG, và phỏng vấn sâu các chuyên gia giáo dục, nhà nghiên cứu văn học, cũng như giáo viên phổ thông có kinh nghiệm trong dạy Ngữ văn tại Trà Vinh.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Chúng tôi thực hiện thí nghiệm bằng cách áp dụng nguồn tư liệu và phương pháp khai thác đã đề xuất, nhằm thiết kế một số giáo án dạy học cho các tác phẩm văn học dân gian trong chương trình Ngữ văn bậc học.
Chúng tôi đã tiến hành trao đổi và thảo luận với giáo viên các trường TH tại tỉnh Trà Vinh để tăng cường tính khả thi trong việc giảng dạy Ngữ văn với nguồn tư liệu văn hóa dân gian (VHDG) Để đa dạng hóa hình thức dạy học, chúng tôi đã tổ chức hoạt động trải nghiệm VHDG, tạo cơ hội cho học sinh (HS) và giáo viên (GV) trình bày các bài nghiên cứu và cảm nhận về việc tự học Ngữ văn Hoạt động diễn xướng các tác phẩm VHDG Khmer Trà Vinh đã thu hút sự quan tâm và khuyến khích HS, GV tham gia tích cực hơn vào quá trình dạy học Để thu thập thông tin phản hồi, chúng tôi sẽ thực hiện dự giờ, phỏng vấn và kiểm tra năng lực HS thông qua các hình thức đánh giá phù hợp, với kế hoạch thực nghiệm 05 bài dạy, bao gồm 02 bài dạy đọc hiểu văn bản VHDG và khảo sát 173 HS.
Chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu với 05 giáo viên từ 05 lớp thực nghiệm ở bậc Trung học cơ sở và Trung học phổ thông Dựa trên kết quả thu được, chúng tôi tiến hành phân tích, đánh giá và điều chỉnh để rút ra những kết luận quan trọng cho đề tài nghiên cứu.
Ngoài các phương pháp đã đề cập, nghiên cứu còn áp dụng phương pháp xử lý số liệu thông qua thống kê, biểu đồ và đồ thị để phân tích các dữ liệu thu thập từ quan sát, điều tra giáo dục và thực nghiệm sư phạm.
KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận án gồm 04 chương sau:
Chương 1, chúng tôi thực hiện tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở khoa học của đề tài.
Trong đó, chúng tôi xác định tình hình tư liệu VHDG Việt Nam và văn học dân gian Trà Vinh, tình
Nghiên cứu về PPDH văn học dân gian trong nhà trường Việt Nam tập trung vào việc xây dựng và khai thác nguồn tư liệu tham khảo, đặc biệt tại tỉnh Trà Vinh Chúng tôi xác định cơ sở khoa học, lý luận và thực tiễn cho việc này, nhằm khẳng định giả thuyết nghiên cứu và làm nền tảng cho quá trình triển khai đề tài Việc nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học văn học dân gian trong trường học.
Chương 2, chúng tôi xây dựng nguồn tư liệu tham khảo trong DH VHDG ở trường TH tỉnh
Trà Vinh chú trọng đến việc xây dựng và phát triển các nguyên tắc, định hướng cho việc giảng dạy văn hóa dân gian (VHDG) trong nhà trường Việt Nam Chúng tôi tập trung vào việc cung cấp nguồn tư liệu VHDG cụ thể cho từng bài dạy, đồng thời chú ý đến tính giáo dục và đặc trưng thể loại Đặc biệt, việc phát triển năng lực cho học sinh trong dạy học ngữ văn bậc trung học sau năm 2018 là một mục tiêu quan trọng.
Trong Chương 3, chúng tôi đề xuất các biện pháp khai thác nguồn tư liệu tham khảo văn hóa dân gian đã được xây dựng ở Chương 2 để áp dụng vào dạy học trong các trường TH tại tỉnh Trà Vinh Các nguyên tắc và định hướng phương pháp dạy học văn hóa dân gian được đưa ra, tập trung vào việc phát triển năng lực của học sinh thông qua các bài dạy cụ thể.
Trong Chương 4, chúng tôi tiến hành thực nghiệm tại một số trường tiểu học ở tỉnh Trà Vinh nhằm kiểm chứng tính khả thi của các đề xuất về nguồn tư liệu và biện pháp khai thác nguồn tư liệu tham khảo trong dạy học văn hóa dân gian Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đưa ra một số kiến nghị cho việc dạy học văn hóa dân gian trong các trường tiểu học sau năm 2018.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1.Những nghiên cứu về văn học dân gian trong và ngoài nước.
Văn học dân gian Việt Nam đã thu hút sự chú ý của nhiều thế hệ nhà khoa học, với những nghiên cứu đáng ghi nhận về nguồn gốc, thể loại, đặc trưng và tính chất của các thể loại VHDG Các nghiên cứu này không chỉ làm sáng tỏ mối quan hệ giữa VHDG và văn học thành văn, mà còn khám phá ảnh hưởng của VHDG đối với văn hóa dân gian Những tài liệu này đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu và giảng dạy VHDG, đồng thời là nguồn tư liệu quý giá cho luận án của chúng tôi.
Về những vấn đề chung:
Từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX, giảng dạy văn học dân gian (VHDG) đã được triển khai một cách có hệ thống tại các trường đại học Đến đầu những năm 60, nhiều giáo trình về VHDG đã được xuất bản, trong đó nổi bật là "Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, tập I: Văn học dân gian" (1961) của Bùi Văn Nguyên và các tác giả khác, cùng với "Văn học dân gian Việt Nam" (1962) của Đinh Gia Khánh.
Chu Xuân Diên và các tác giả như Đinh Gia Khánh, Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, và Nguyễn Hùng Vĩ đã có những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu văn học dân gian (VHDG) Việt Nam qua các công trình từ những năm 1970 đến 1990 Ban đầu, quan niệm về VHDG chủ yếu dựa trên văn học viết, nhưng đến những năm 70, cách tiếp cận này đã đổi mới, xác định rõ những đặc trưng khác biệt của VHDG Đến cuối thập niên 80 và đầu 90, hệ thống lý luận về VHDG đã được hoàn thiện, phân kỳ các giai đoạn phát triển, xác định thể loại, và đặt VHDG trong mối quan hệ với văn hóa dân gian Những giáo trình này đã làm rõ quá trình phát triển và lịch sử của VHDG Việt Nam, nhấn mạnh mối liên hệ giữa VHDG với văn nghệ, văn hóa và đời sống thực tiễn, từ đó đưa các yếu tố văn hóa như âm nhạc, nhảy múa, và diễn xướng vào giảng dạy.
Sự đổi mới trong giảng dạy và học tập VHDG đã mang lại hiệu quả tích cực, thể hiện qua hệ thống giáo trình của các tác giả như Đỗ Bình Trị (1991), Nguyễn Thị Bích Hà (2008), Vũ Anh Tuấn (2012), và Phạm Đặng Xuân Hương, Nguyễn Việt Hùng (2012) Các giáo trình này không chỉ kế thừa mà còn phát triển liên tục, góp phần hoàn thiện chương trình giảng dạy VHDG tại các trường đại học.
Nghiên cứu tiến trình văn học dân gian (VHDG) Việt Nam đã được thể hiện qua nhiều chuyên luận quan trọng, cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự hình thành và phát triển của VHDG Các tác phẩm như "Lịch sử văn học Việt Nam, tập I: Văn học dân gian" (1961) của Bùi Văn Nguyên và các tác giả khác, "Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam" (1974) của Cao Huy Đỉnh, và "Nghiên cứu tiến trình lịch sử văn học dân gian Việt Nam" (1978) của Đỗ Bình Trị đã đóng góp giá trị khoa học to lớn, giúp hiểu rõ hơn về văn hóa và lịch sử văn học dân gian Việt Nam cho đến ngày nay.
Những công trình sưu tầm VHDG:
Khi nghiên cứu văn hóa dân gian (VHDG), các nhà nghiên cứu cần xem tác phẩm VHDG là đối tượng khảo sát chính Nghiên cứu VHDG qua văn bản đã được các nhà folklor học quan tâm từ lâu, tạo ra một hướng tiếp cận ngữ văn đối với Folklore Ở Việt Nam, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Đổng Chi, và Vũ Ngọc Phan là những người tiên phong trong lĩnh vực này từ đầu thế kỷ XX, với nhiều công trình sưu tập có giá trị cho đến nay Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Nguyễn Văn Ngọc đã có những đóng góp quan trọng như tác phẩm "Tục ngữ phong dao" (1928) với 6.500 câu tục ngữ và hơn 850 bài ca dao, cùng với "Truyện cổ nước Nam" (1934) sưu tầm các truyện cổ tích và ngụ ngôn Sau năm 1945, Nguyễn Đổng Chi và Vũ Ngọc Phan tiếp tục đạt nhiều thành tựu trong việc sưu tầm truyện dân gian, với bộ "Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam" và cuốn "Truyện cổ".
Bùi Văn Nguyên là một trong những tác gia nổi bật trong nghiên cứu folklore Việt Nam, với nhiều bài báo, tạp chí và sách xuất bản Ông không ngừng khám phá những khía cạnh mới mẻ trong nghiên cứu văn hóa dân gian Tuyển tập "Sưu tầm, nghiên cứu Tục ngữ - Ca dao - Dân ca Việt Nam" của Vũ Ngọc Phan (1956) là một tác phẩm có giá trị sâu sắc, được tái bản nhiều lần, tổng hợp tinh hoa văn hóa từ các cộng đồng dân tộc Việt Nam Công trình này không chỉ bao gồm chuyên luận về nội dung và hình thức nghệ thuật của tục ngữ, ca dao, dân ca mà còn tập hợp các bài dân ca và câu tục ngữ của đồng bào miền núi Những nghiên cứu này đã góp phần hình thành các nguyên tắc văn bản hóa quan trọng, và từ thập niên 70 của thế kỷ XX, quá trình văn bản hóa tác phẩm diễn ra mạnh mẽ với sự tham gia của nhiều người yêu thích văn hóa truyền thống.
Folklore là một lĩnh vực văn hóa phong phú, đặc biệt là các tuyển tập văn hóa dân gian Nam Bộ Nổi bật trong số đó là tác phẩm "Ca dao dân ca Nam Bộ" (1984), được biên soạn bởi nhóm tác giả Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh và Bùi Mạnh, góp phần quan trọng vào việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa dân gian của vùng đất này.
Nhị sưu tầm và giới thiệu các tác phẩm dân ca nổi bật như "Dân ca Hậu Giang" của nhóm tác giả Lê Giang, Lư Nhất Vũ, Nguyễn Văn Hoa và Minh Luân (1986), cùng với "Dân ca Cửu Long" của Lư Nhất Vũ, Nguyễn Văn Hoa, Lê Giang và Thạch An (1986) Ngoài ra, các tài liệu về văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long do Khoa Ngữ Văn trường Đại học Cần Thơ biên soạn năm 1997, cũng như "Văn học dân gian Sóc Trăng" (2002) và "Văn học dân gian Bạc Liêu" cũng được đề cập.
(2004) của Chu Xuân Diên (chủ biên)
Những nghiên cứu thể loại và thi pháp VHDG Việt Nam:
Sau giai đoạn tập trung nghiên cứu nội dung và tư tưởng của văn học dân gian (VHDG), các nhà khoa học đã chuyển hướng sang phân tích cấu trúc hình thức, thể loại và các phương diện nghệ thuật của VHDG Nhiều bài viết ngắn nhưng có giá trị như “Đề tài hôn nhân trong truyện cổ tích thần kì Mường” của Đặng Thái Thuyên, “Hiện tượng văn xuôi xen lẫn văn vần trong truyện kể dân gian” của Lê Trường Phát, và “Những đặc trưng cơ bản của văn bản văn học dân gian” của Trần Đức Ngôn đã đánh dấu những bước tiến quan trọng trong nghiên cứu Bên cạnh đó, các chuyên luận như “Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám” (Đinh Gia Khánh, 1968) và “Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam” (1971) đã làm rõ đặc điểm của các thể loại VHDG Những tác phẩm như “Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học” (Chu Xuân Diên, 1987) và “Cổ tích thần kỳ người Việt - đặc điểm cấu tạo cốt truyện” (Tăng Kim Ngân, 1994) cũng đóng góp vào việc khắc họa diện mạo của VHDG.
Theo Nguyễn Xuân Kính, thuật ngữ thi pháp văn học dân gian (VHDG) ở Việt Nam được sử dụng muộn, bắt đầu từ năm 1980 khi Lê Kinh Khiên đề cập trong bài báo “Một số vấn đề lí thuyết chung về mối quan hệ văn học dân gian - Văn học viết” Tiếp theo, Chu Xuân Diên cũng đã nhắc đến khái niệm này trong Tạp chí Văn học năm 1981 Đến những năm 90 của thế kỷ XX, nghiên cứu thi pháp VHDG Việt Nam phát triển mạnh mẽ với nhiều tác phẩm tiêu biểu như "Tục ngữ Việt Nam cấu trúc và thi pháp" của Nguyễn Thái Hoà (1997), "Những thế giới nghệ thuật ca dao" của Phạm Thu Yến (1998), và "Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian Việt Nam" của Đỗ Bình Trị (1999).
Trường Phát; Những vấn đề thi pháp VHDG (2003) của Nguyễn Xuân Đức, Truyện thơ Tày, nguồn gốc, quá trình và thi pháp thể loại (2004) của Vũ Anh Tuấn
Vào cuối thế kỷ XX, lý thuyết và phương pháp nghiên cứu biểu tượng đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Năm 2011, Đặng Thị Oanh đã xuất bản luận án tiến sĩ của mình thành sách, góp phần quan trọng vào lĩnh vực này.
Biểu tượng Lanh trong dân ca dân tộc H’Mông (NXB Đại học Quốc gia) Trong cuốn Truyện kể dân
Trong bài viết "20 gian, đọc bằng type và motif" (2001) của tác giả Nguyễn Tấn Đắc, hai vấn đề quan trọng được đặt ra là mối quan hệ giữa truyện kể dân gian Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á, cùng với việc áp dụng phương pháp "type" và "motif" trong nghiên cứu Tiếp theo, La Mai Thi Gia trong tác phẩm "Motif trong nghiên cứu truyện kể dân gian: Lý thuyết và ứng dụng" (2018) đã tổng hợp lý thuyết và phương pháp nghiên cứu motif, đồng thời khảo sát lịch sử nghiên cứu motif trong văn học dân gian Việt Nam Tác giả đã ứng dụng nghiên cứu cụ thể về motif tái sinh, một yếu tố phổ biến trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam và thế giới Những nghiên cứu này mở ra hướng tiếp cận mới cho việc dạy học và nghiên cứu văn hóa dân gian, đặc biệt là trong việc giảng dạy truyện kể dân gian Khmer tại Trà Vinh.
Những nghiên cứu về mối quan hệ giữa VHDG – VH viết Việt Nam:
Bài nghiên cứu "Nhà văn và sáng tác dân gian" của Chu Xuân Diên, xuất bản năm 1966, đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng và văn học dân gian (VHDG) Tác giả nhấn mạnh rằng những sáng tác dân gian đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tài liệu quý giá, giúp các nhà văn xây dựng các biện pháp nghệ thuật và ngôn ngữ phù hợp với yêu cầu thẩm mỹ truyền thống của đông đảo quần chúng.
Vào năm 1969, Đặng Văn Lung trong bài viết “Vai trò của văn học dân gian trong sự phát triển của văn học dân tộc” đã khảo sát nhiều hiện tượng ảnh hưởng của văn học dân gian (VHDG) đến văn học viết, nhấn mạnh các yếu tố nghệ thuật như motif, hình tượng, nhân vật và cốt truyện dân gian Đến năm 1980, Lê Kinh Khiên trong tác phẩm “Một số vấn đề lí thuyết chung về mối quan hệ văn học dân gian – văn học viết” đã chỉ ra sự khác biệt trong đặc trưng thi pháp của VHDG khi so sánh với văn học viết.
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.2.1.1.Các khái niệm liên quan
Tư liệu dạy học và tư liệu tham khảo trong dạy học Ngữ văn:
Phương tiện dạy học, đặc biệt là tư liệu dạy học VHDG, đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện chất lượng và hiệu quả hoạt động dạy học Theo Hoàng Phê, tư liệu được định nghĩa là "Tài liệu sử dụng cho việc nghiên cứu", và nó là nguồn tri thức giúp làm rõ nội dung sách giáo khoa Tư liệu không chỉ làm nổi bật các khái niệm trong sách giáo khoa mà còn là nguyên liệu để tạo ra công cụ hỗ trợ học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập theo chương trình, đồng thời nâng cao sự hiểu biết của học sinh.
Trong nghiên cứu này, tư liệu dạy học (DH) được định nghĩa là hệ thống thông tin hỗ trợ quá trình dạy học, bao gồm các tư liệu học tập dưới dạng phương tiện trực quan như tranh ảnh, mẫu vật, phim video, âm thanh, hoặc ngôn ngữ chữ viết Giáo viên (GV) có thể sử dụng các tư liệu này để tổ chức quá trình dạy học, trong khi học sinh (HS) cũng có thể khai thác để tự tìm hiểu và phát hiện tri thức mới.
Tư liệu tham khảo trong dạy học Ngữ văn rất phong phú và đa dạng, nhưng nếu được chọn lọc và sắp xếp hợp lý, nó sẽ trở thành công cụ hỗ trợ hiệu quả cho giáo viên và học sinh Tư liệu dạy học có thể được áp dụng ở nhiều giai đoạn trong quá trình dạy, bao gồm mở bài, giảng dạy kiến thức mới, củng cố và kiểm tra đánh giá Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn mới đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng tư liệu trong giảng dạy.
5 Hoàng Phê (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Đẵng, Trung tâm Từ điển học, tr.1071.
Thiết bị dạy học tối thiểu cho môn Ngữ văn bao gồm tủ sách tham khảo với đầy đủ các loại văn bản lớn như văn bản văn học, văn bản nghị luận và văn bản thông tin Trong mỗi loại văn bản lớn, cần có các tiểu loại cụ thể: văn bản văn học bao gồm truyện, thơ, kịch, kí; văn bản nghị luận chia thành nghị luận văn học và nghị luận xã hội; văn bản thông tin gồm văn bản thuyết minh và văn bản nhật dụng Ngoài ra, cần có tranh ảnh minh họa như chân dung các nhà văn lớn và hình ảnh nghệ thuật của những tác phẩm nổi bật như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Truyện Kiều, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, và Tuyên ngôn Độc lập.
Hướng dẫn thực hiện Chương trình phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn mạnh tầm quan trọng của nguồn sách tham khảo đa dạng về thể loại và phong phú về số lượng Đồng thời, phương pháp dạy học cũng được chú trọng, đặc biệt là việc sử dụng các trang thiết bị hiện đại phù hợp với thời đại công nghệ thông tin hiện nay.
Các trường học cần được trang bị Internet, máy tính, màn hình và máy chiếu để phục vụ việc dạy và học tiếng Việt Ngoài ra, cần có phần mềm học tiếng Việt, các CD và video clip giới thiệu danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, cùng với các bộ phim hoạt hình và phim truyện chuyển thể từ tác phẩm văn học Các tài liệu như CD ghi các vở diễn, nhạc phổ từ thơ và văn bản đọc mở rộng, cùng với các cuộc giao lưu, nói chuyện chuyên đề của nhà văn và nhà nghiên cứu cũng rất cần thiết Cuối cùng, sách giáo khoa Ngữ văn và tài liệu giáo dục văn học dạng điện tử sẽ hỗ trợ hiệu quả cho quá trình giảng dạy.
Trong luận án, chúng tôi xác định rằng tư liệu tham khảo trong dạy học văn hóa dân gian bao gồm sách chuyên khảo, bài báo khoa học, tranh ảnh, CD và video clip, được lưu trữ dưới nhiều dạng thức khác nhau Nguồn tư liệu này hỗ trợ hoạt động dạy học của giáo viên và học sinh, giúp họ tham khảo, tìm kiếm thông tin và mở rộng kiến thức liên quan đến văn bản văn hóa dân gian trong sách giáo khoa Nếu được tổ chức hiệu quả, nguồn tư liệu này sẽ góp phần tạo ra những bài dạy văn hóa dân gian sâu sắc về nội dung và hấp dẫn về hình thức.
6 Bộ Giáo dục và Đào tạo, tldd (8), tr.91.
7 Bộ Giáo dục và Đào tạo, tldd (8), tr.91.
Khái niệm năng lực và dạy học theo định hướng phát triển năng lực:
Từ những năm 90 của thế kỉ XX, chương trình giáo dục trên thế giới chủ yếu được xây dựng theo hai cách tiếp cận: tiếp cận nội dung và tiếp cận kết quả đầu ra Bước sang thế kỉ XXI, một cách tiếp cận mới đã được các nhà giáo dục đề xuất, đó là tiếp cận theo năng lực Hiện nay, ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới đang xây dựng chương trình giáo dục dựa trên phương pháp này.
Knud Illeris cho rằng năng lực là yếu tố then chốt giúp con người đối phó với những thách thức trong bối cảnh khó khăn Các nghiên cứu về năng lực hiện nay được tiếp cận và định nghĩa theo nhiều cách khác nhau Mulder, Weigel và Collins phân loại các nghiên cứu này thành ba quan điểm chính: tiếp cận hành vi, tiếp cận chung và tiếp cận nhận thức Điều này dẫn đến việc cần phân biệt rõ ràng giữa khái niệm năng lực và các khái niệm liên quan như kỹ năng, khả năng, phẩm chất và trình độ.
Năng lực được định nghĩa là khả năng đáp ứng thành công những yêu cầu phức tạp trong bối cảnh cụ thể, thông qua việc huy động các yếu tố tâm lý xã hội Tại Việt Nam, có sự chuyển hướng mạnh mẽ từ nền giáo dục hàn lâm sang nền giáo dục tập trung vào việc phát triển năng lực hành động, khuyến khích tính chủ động và sáng tạo của người học Năng lực được hiểu là thuộc tính tâm lý phức hợp, bao gồm tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm đạo đức, cho phép cá nhân giải quyết các tình huống cụ thể một cách hiệu quả và có trách nhiệm.
8 Illeris, Knud (2009), “Introduction”, International Perspectives on Competence Development, Illeris, Knud (ed.), London and NewYork Routledge, pp 1 - 4.
9 Mulder, M.; Weigel; T & Collins, K (2006), “The concept of competence in the development of vocational education and training in selected EU member states – a critical analysis”, Journal of Vocational Education and training, 59, 1, pp 65 - 85
In their work, Rychen and Salganik (2003) present a comprehensive framework for understanding key competencies essential for achieving a successful life and fostering a well-functioning society, as detailed in their publication by Hogrefe & Huber Publishers Additionally, Meier and Nguyễn Văn Cường (2011) discuss the foundational aspects of innovative teaching methods in their collaborative research, emphasizing the importance of modern educational approaches in enhancing learning outcomes.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, năng lực được hiểu là thuộc tính cá nhân hình thành từ tố chất bẩm sinh và quá trình học tập, cho phép con người kết hợp kiến thức, kỹ năng và các yếu tố cá nhân như hứng thú, niềm tin, và ý chí để thực hiện thành công một hoạt động cụ thể Trong môn Ngữ văn, năng lực ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ là những năng lực đặc thù, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển khả năng cảm thụ và sáng tạo của học sinh.
Năng lực là khả năng kết hợp linh hoạt và có tổ chức các kiến thức, kỹ năng, thái độ và động cơ để đáp ứng yêu cầu phức tạp của một hoạt động, đảm bảo chất lượng trong tình huống cụ thể Nó thể hiện qua việc sử dụng kiến thức và kỹ năng trong các tình huống thực tế, không chỉ đơn thuần là tiếp thu tri thức rời rạc Năng lực bao gồm các thành tố như kiến thức, kỹ năng, thái độ, giá trị và động cơ cá nhân Trong giáo dục dựa trên năng lực, giáo viên đóng vai trò hướng dẫn và thiết kế nội dung giảng dạy, trong khi học sinh tự xây dựng kiến thức thông qua tìm tòi và sáng tạo Do đó, môi trường giáo dục cần được tạo ra để thúc đẩy học sinh hiện thực hóa năng lực của mình, bao gồm tổ chức học nhóm, học cá nhân hóa và khuyến khích ứng dụng công nghệ trong dạy học.
Khái niệm phương pháp dạy học và phương tiện dạy học:
Tác phẩm văn chương, đặc biệt là tác phẩm văn học dân gian, thể hiện sự sáng tạo độc đáo của nghệ sĩ Quá trình dạy học các văn bản này trong lớp học là sự khám phá và giải mã tác phẩm giữa thầy và trò, diễn ra qua các mối quan hệ biện chứng giữa tác giả, giáo viên và học sinh Trong đó, học sinh đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệm vụ và phương pháp dạy học của giáo viên.
12 Bộ Giáo dục và Đào tạo, tlđd (1), tr.37.
Năm 2010, tài liệu Giáo dục học định nghĩa PPDH là phương thức hoạt động phối hợp giữa giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học, với giáo viên giữ vai trò chủ đạo.