Những vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
Khái quát về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
1.1.1.1 Khái niệm, cấu thành và phân loại hành vi vi phạm hành chính lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
Trước tiên, cần tìm hiểu khái niệm “LCTPHPĐT” Theo Từ điển tiếng Việt thì
“Hè phố” được hiểu là phần chạy dọc hai bên đường phố, cao hơn mặt đường, dành cho người đi bộ Mặc dù Thông tư 04/2008/TT-BXD đã hết hiệu lực, khái niệm “hè phố” trong Thông tư này vẫn được coi là đầy đủ và cụ thể Theo tác giả, “hè phố” (hay còn gọi là vỉa hè, hè, hè đường, lề đường) là bộ phận của đường đô thị dành cho người đi bộ và là nơi bố trí hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị Khái niệm này chỉ áp dụng cho đường phố trong đô thị, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 44 của Luật GTĐB 2008, yêu cầu đường đô thị phải có hè phố và tổ chức giao thông an toàn cho người đi bộ “Lấn chiếm” được định nghĩa là việc chiếm dụng đất công hoặc đất của người khác Trong lĩnh vực đất đai, thuật ngữ này được quy định tại Điều 3 Nghị định 102/2014/NĐ-CP Chỉ những hành vi lấn chiếm hè phố không được phép sử dụng tạm thời ngoài mục đích giao thông mới được coi là lấn chiếm, theo quy định tại Quyết định số 74/2008/QĐ-UBND và khoản 1 Điều 2 Luật XLVPHC.
Năm 2012, khái niệm về "VPHC" (vi phạm hành chính) được định nghĩa, trong đó tác giả đã đưa ra định nghĩa về hành vi VPHC Theo Luật Chuyên ngành về Pháp luật Đô thị, VPHC là những hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm pháp lý hành chính hoặc của tổ chức, khi sử dụng hè phố của đường đô thị không đúng mục đích.
1 http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/H%C3%A8 (Truy cập ngày 04/6/2017)
Theo Nguyễn Lân (1998) trong Từ điển Từ và ngữ Việt Nam, việc sử dụng hè phố ngoài mục đích giao thông mà không có sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền, dù cố ý hay vô ý, sẽ vi phạm quy định pháp luật về giao thông đường bộ và có thể phải chịu trách nhiệm hành chính.
Xét về mặt lý luận, VPHC LCTPHPĐT là một dạng cụ thể của VPHC nên cũng có đầy đủ 04 yếu tố cấu thành của VPHC, bao gồm:
Thứ nhất, mặt khách quan của VPHC LCTPHPĐT
Hành vi vi phạm hành chính (VPHC) liên quan đến luật giao thông đường bộ (LCTPHPĐT) có thể được thể hiện dưới hai hình thức: hành động và không hành động Cụ thể, hành vi đỗ xe hoặc để xe trên hè phố trái quy định là một ví dụ về hành động vi phạm Ngược lại, việc không hoàn trả lại phần đường, bao gồm hè phố, để phục vụ cho việc quản lý, bảo trì và bảo vệ công trình đường bộ sau khi thi công xong là một ví dụ về hành vi không hành động.
Hành vi vi phạm hành chính (VPHC) liên quan đến Luật giao thông đường bộ (LCTPHPĐT) được xác định bởi các hành vi bị pháp luật cấm mà cá nhân hoặc tổ chức vẫn thực hiện, chẳng hạn như điều khiển xe mô tô trên hè phố theo quy định tại điểm g khoản 4 Điều 6 Nghị định 46/2016/NĐ-CP Ngoài ra, còn có những hành vi mà pháp luật yêu cầu phải thực hiện nhưng không được thực hiện, ví dụ như không thu dọn biển báo và vật dụng thi công sau khi hoàn thành công việc theo điểm đ khoản 1 Điều 13 Nghị định 46/2016/NĐ-CP Hơn nữa, hành vi vượt quá phạm vi cho phép, như sử dụng hè phố làm nơi trung chuyển vật liệu xây dựng, cũng vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị định 100/2013/NĐ-CP Nếu hành vi này diễn ra ngoài khung giờ từ 22 giờ hôm trước đến 6 giờ hôm sau, có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo điểm d khoản 5 Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP.
Khi nghiên cứu Nghị định 46/2016/NĐ-CP, cần lưu ý rằng không nhất thiết phải có cụm từ “hè phố” hay “vỉa hè” trong điều luật để xác định hành vi vi phạm hành chính về lấn chiếm lòng đường, hè phố Sự linh hoạt trong việc xác định là cần thiết, vì một số điều khoản trong Nghị định quy định về vi phạm đối với “phạm vi đất dành cho đường bộ”, “đường bộ”, hay “đường phố” cũng có thể bao hàm các hành vi vi phạm liên quan.
3 Điểm e khoản 3 Điều 5 Nghị định 46/2016/NĐ-CP
4 Điểm đ khoản 1 Điều 13 Nghị định 46/2016/NĐ-CP vi phạm trên “hè phố” Bởi căn cứ theo quy định tại khoản 1, 4 và 9 Điều 3 Luật
Theo GTĐB 2008 và điểm a khoản 1 Điều 3 Thông tư 50/2015/TT-BGTVT, các quy định liên quan đến quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ được hướng dẫn thực hiện theo Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 Những nội dung này đã bao hàm đầy đủ các yêu cầu và quy định cần thiết trong lĩnh vực giao thông.
Hành vi “đổ rác ra đường bộ không đúng nơi quy định” theo Nghị định 46/2016/NĐ-CP có thể bị xử phạt linh hoạt, bao gồm cả trường hợp thực hiện trên hè phố Mặc dù Nghị định chỉ đề cập đến “đường bộ”, nhưng việc xả rác trên hè phố, một phần của đường bộ, cũng được xem là hành vi vi phạm và sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính.
Thời gian, địa điểm và phương tiện thực hiện vi phạm hành chính (VPHC) là những yếu tố quan trọng trong việc xác định và phân biệt hành vi VPHC LCTPHPĐT Mặc dù không phải lúc nào cũng được quy định, những yếu tố này thường được coi là dấu hiệu phổ biến hoặc bắt buộc Chẳng hạn, hành vi vi phạm liên quan đến địa điểm như "bán hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm bán hàng" được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP.
Hiện nay, các tuyến phố cấm bán hàng được quy định khác nhau tùy theo từng địa phương Tại TP HCM, Quyết định số 669/QĐ-UBND ban hành ngày 06/02/2013 quy định danh mục các tuyến đường cho phép sử dụng tạm thời một phần vỉa hè làm bãi giữ xe công cộng có thu phí, phục vụ cho hoạt động kinh doanh, buôn bán hàng hóa và cho phép đỗ xe dưới lòng đường có thu phí.
Hậu quả của vi phạm hành chính liên quan đến lĩnh vực giao thông đường bộ (VPHC LCTPHPĐT) rất đa dạng, từ những vi phạm nhỏ đến những hậu quả nghiêm trọng Theo ông Nguyễn Ngọc Tường, Phó Ban An toàn giao thông TP HCM, mỗi năm có hơn 100 người đi bộ tử vong do đi không đúng phần đường quy định, con số này cao gấp 4 - 5 lần so với các quốc gia khác Mặc dù hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của đa phần các VPHC LCTPHPĐT, nhưng trong một số trường hợp, như hành vi thi công trên đường bộ mà không có biện pháp đảm bảo an toàn giao thông, hậu quả gây ra ùn tắc giao thông nghiêm trọng thì mới bị xử phạt theo quy định.
5 http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/le-duong-bi-lan-chiem-hon-100-nguoi-di-bo-chet-moi-nam-
Thứ hai, khách thể của VPHC LCTPHPĐT
Hè phố là một phần quan trọng trong kết cấu hạ tầng giao thông đô thị, thuộc nhóm hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ Khách thể vi phạm hành chính liên quan đến hè phố có những đặc điểm riêng, bao gồm các hành vi xâm phạm quy định về trật tự quản lý nhà nước đối với các quy tắc giao thông và kết cấu hạ tầng đường phố Những quy định này được quy định trong Luật Giao thông đường bộ 2008, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, và Nghị định 46/2016/NĐ-CP.
Theo Điều 5 Luật 2012 và khoản 1 Điều 2 Nghị định 46/2016/NĐ-CP, đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến Luật Chuyển giao công nghệ và đầu tư tại Việt Nam bao gồm cá nhân, tổ chức, cả người nước ngoài, nếu có hành vi vi phạm trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cá nhân từ 14 đến dưới 16 tuổi sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) nếu có lỗi cố ý, trong khi những người từ 16 tuổi trở lên sẽ bị xử phạt cho tất cả các hành vi vi phạm.
Theo khoản 10 Điều 2 Luật XLVPHC 2012, khái niệm “tổ chức” được định nghĩa một cách rập khuôn và chưa đầy đủ, chỉ liệt kê những hình thức cụ thể mà không bao quát hết Để mở rộng khái niệm này, luật còn bổ sung một câu không rõ ràng: “và tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật”.
Những quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
Nguyên tắc trong quản lý nhà nước là những tư tưởng chỉ đạo cơ bản cho tổ chức và hoạt động quản lý Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) đối với hành vi lấn chiếm đất đai (LCTPHPĐT) giúp nhà nước kiểm soát hiệu quả các hành vi này Do đó, việc tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là khoản 1 Điều 3 của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, là rất cần thiết.
Mọi hành vi vi phạm hành chính (VPHC) cần được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, đồng thời phải bị xử lý nghiêm minh Tất cả hậu quả do VPHC gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật, như quy định tại điểm a khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012.
Khi phát hiện vi phạm, cần ngay lập tức ngăn chặn hành vi để giảm thiệt hại và lập biên bản vi phạm nhằm xử phạt Hình thức và mức xử phạt phải nghiêm minh, tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi, xem xét lỗi và các tình tiết liên quan Nếu vi phạm gây hậu quả thực tế, người có thẩm quyền phải áp dụng biện pháp khắc phục theo quy định tại Điều 28 Luật XLVPHC 2012 và Nghị định 46/2016/NĐ-CP, như buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép hoặc khôi phục tình trạng ban đầu Hành vi vi phạm liên quan đến sử dụng đất dành cho đường bộ đang diễn ra phức tạp và phổ biến, vì vậy việc phát hiện và xử lý kịp thời là rất quan trọng để giảm thiệt hại, đặc biệt là những hành vi gây ùn tắc và tai nạn giao thông.
Thứ hai, việc XPVPHC được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật (điểm b khoản
9 Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr 40
Xử phạt nhanh chóng là yếu tố then chốt để đảm bảo hiệu quả xử phạt, giúp thi hành kịp thời và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả Nếu xử phạt chậm trễ, người vi phạm có thể trốn tránh, phương tiện và tang vật vi phạm có nguy cơ bị tẩu tán, và phản ứng xã hội sẽ tiêu cực hơn Đặc biệt, với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại đường phố, có tính chất di động và diễn ra đa dạng, việc xử phạt vi phạm hành chính cần được thực hiện nhanh chóng để chấm dứt vi phạm, đảm bảo trật tự an toàn giao thông và mỹ quan đô thị.
Yếu tố “công khai, khách quan” trong việc xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) là cần thiết để mọi người có thể tham gia kiểm soát và ngăn chặn sai phạm từ những người có thẩm quyền Đồng thời, việc đảm bảo sự “công bằng” là nguyên tắc pháp lý quan trọng tại Việt Nam, khẳng định rằng “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.” Nếu hoạt động xử phạt được thực hiện công bằng, quyền và lợi ích của các bên sẽ được bảo vệ một cách tuyệt đối.
Luật XLVPHC 2012 quy định rằng việc xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) phải do người có thẩm quyền thực hiện Nguyên tắc này yêu cầu pháp luật cần phân định rõ ràng thẩm quyền XPVPHC đối với hành vi liên quan đến lĩnh vực đầu tư Nghị định 46/2016/NĐ-CP, từ Điều 70 đến Điều 73, đã quy định một cách chặt chẽ và thống nhất về vấn đề này, giúp việc xử phạt diễn ra đồng bộ và hiệu quả, đồng thời hạn chế tranh chấp về thẩm quyền xử phạt giữa các bên liên quan trong thực tiễn áp dụng.
Xử phạt theo đúng quy định pháp luật là nguyên tắc hàng đầu trong xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) Nguyên tắc này được áp dụng cho các cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo đảm tính pháp chế trong quản lý nhà nước.
Việc xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) phải dựa trên tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi vi phạm, cũng như đối tượng vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 3 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Nguyên tắc này yêu cầu các cán bộ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện XPVPHC đối với hành vi LCTPHPĐT cần xem xét cả hai khía cạnh "chất" và "lượng".
10 Điều 16 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
11 Nguyễn Cảnh Hợp (Chủ biên) (2015), Bình luận khoa học Luật XLVPHC năm 2012, NXB Đại học quốc gia, TP HCM, tr 92
Hiến pháp năm 2013 đã loại bỏ nguyên tắc này, tuy nhiên, Luật XLVPHC 2012 được ban hành khi Hiến pháp năm 1992 còn hiệu lực và vẫn quy định nguyên tắc đó.
Để đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) chính xác và phù hợp với thực tiễn, cần xác định đúng mức độ vi phạm và tính chất của hành vi Việc xử phạt đúng người và mức độ vi phạm là rất quan trọng, bởi không phải tất cả các vi phạm đều có mức độ nguy hiểm như nhau Người tái phạm thường có thái độ chấp hành pháp luật tiêu cực hơn, và điều này được xem là tình tiết tăng nặng trong việc áp dụng hình thức xử phạt Tuy nhiên, Nghị định 46/2016/NĐ-CP thiếu các điều khoản quy định cụ thể về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, khiến cho việc áp dụng trở nên không hợp lý Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 chỉ đưa ra các tình tiết giảm nhẹ mang tính khung, trong khi lĩnh vực GTĐB có nhiều đặc thù cần quy định cụ thể hơn để tránh khó khăn trong thực tiễn.
Theo quy định tại Điều 3 Luật XLVPHC 2012, chỉ có thể xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) khi có hành vi vi phạm được pháp luật xác định Mỗi hành vi VPHC chỉ bị xử phạt một lần, và nếu nhiều người cùng thực hiện một hành vi, mỗi người đều bị xử phạt Đối với những cá nhân hoặc tổ chức thực hiện nhiều hành vi VPHC, họ sẽ bị xử phạt cho từng hành vi vi phạm riêng biệt Đặc biệt, trong lĩnh vực liên quan đến sử dụng hè phố đô thị, các hành vi được quy định trong Nghị định XPVPHC sẽ được coi là VPHC Nếu hành vi không nằm trong quy định của Nghị định, dù có tính chất nguy hiểm cho xã hội, thì không bị coi là VPHC Ví dụ, việc sử dụng tạm thời hè phố để tổ chức đám cưới theo quy định tại Nghị định 100/2013/NĐ-CP là một hành vi được chấp nhận, miễn là không vượt quá thời gian quy định.
Nghị định 46/2016/NĐ-CP hiện không có điều khoản xử phạt hành vi sử dụng tạm thời hè phố để tổ chức đám cưới vượt quá thời gian quy định Điều này dẫn đến việc không thể xử lý vi phạm trong thực tế Khi một cá nhân thực hiện hành vi vi phạm, họ phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
13 Trường Đại học Luật TP HCM (2014), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP HCM, tr 541
Theo Cao Vũ Minh (2012), trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) tại TP HCM, việc xử phạt một hành vi vi phạm chỉ được thực hiện một lần trong một khoảng thời gian và không gian xác định, nhằm tránh tình trạng chồng chéo và đảm bảo tính nhân đạo Trong trường hợp nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm, mỗi cá nhân sẽ bị xử phạt riêng biệt Luật XLVPHC 2012 đã có điểm mới so với các Pháp lệnh trước, quy định rằng nếu một cá nhân hoặc tổ chức vi phạm nhiều lần mà chưa bị xử phạt, thì sẽ bị xử lý cho từng hành vi vi phạm khi bị phát hiện.
Trong Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, hai khái niệm “thực hiện nhiều hành vi VPHC” và “VPHC nhiều lần” được hiểu là khác nhau Tuy nhiên, luật này lại quy định xử phạt theo cùng một nguyên tắc, dẫn đến sự bất cập Cụ thể, luật quy định rằng “VPHC nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”, nhưng đồng thời cũng coi đây là tình tiết tăng nặng theo điểm b khoản 1 Điều 10.
Thứ năm, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh VPHC
Hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
1.2.2.1 Hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
Thứ nhất, về hình thức xử phạt chính
Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định hai hình thức xử phạt chính đối với hành vi LCTPHPĐT, bao gồm cảnh cáo và phạt tiền, trong khi các hình thức khác chỉ được áp dụng như xử phạt bổ sung Hình thức xử phạt cảnh cáo chỉ áp dụng cho hành vi LCTPHPĐT do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện, trong khi các trường hợp còn lại sẽ bị xử phạt bằng tiền.
Phạt tiền là hình thức xử phạt vi phạm hành chính mà người vi phạm phải nộp phạt bằng tiền mặt Đối với hành vi liên quan đến lĩnh vực giao thông đường bộ, mức phạt tiền tối thiểu đối với cá nhân là 100.000 đồng và tối đa là 20.000.000 đồng Đối với tổ chức, mức phạt tiền tối thiểu là 200.000 đồng và tối đa là 40.000.000 đồng Các mức phạt này phù hợp với quy định trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo Điều 23 và điểm b khoản 1 của các quy định liên quan.
So với Nghị định 171/2013/NĐ-CP, Nghị định 46/2016/NĐ-CP đã tăng mức phạt tiền đối với một số hành vi LCTPHPĐT tại Điều 12, nhằm chấn chỉnh tình hình vi phạm đang gia tăng và gây mất mỹ quan đô thị nghiêm trọng.
18 Nguyễn Cửu Việt (2013), tlđd 9, tr 519
Nghị định 46/2016/NĐ-CP Đổ, để trái phép vật liệu, chất phế thải trong phạm vi đất dành cho đường bộ
- Cá nhân: Phạt tiền từ 3 - 5 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền từ 6 - 10 triệu (Điểm a Khoản 4)
- Cá nhân: Phạt tiền từ 4 - 6 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền từ 8 - 12 triệu (Điểm a Khoản 5)
Việc sử dụng trái phép đất của đường bộ để làm nơi tập kết hoặc trung chuyển hàng hóa, vật tư, vật liệu xây dựng, máy móc, thiết bị và các loại vật dụng khác là hành vi vi phạm pháp luật Hành động này không chỉ gây ảnh hưởng đến an toàn giao thông mà còn làm giảm chất lượng hạ tầng đường bộ Cần có biện pháp xử lý nghiêm khắc để ngăn chặn tình trạng này, bảo vệ quyền lợi của người dân và đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
- Cá nhân: Phạt tiền từ 3 - 5 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền từ 6 - 10 triệu (Điểm d Khoản 4)
- Cá nhân: Phạt tiền từ 4 - 6 triệu
Tổ chức sẽ bị phạt tiền từ 8 đến 12 triệu đồng theo điểm d khoản 5 nếu bày bán máy móc, thiết bị, vật tư, vật liệu xây dựng hoặc sản xuất, gia công hàng hóa trên hè phố.
- Cá nhân: Phạt tiền từ 3 - 5 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền từ 6 - 10 triệu (Điểm e Khoản 4)
- Cá nhân: Phạt tiền từ 4 - 6 triệu
- Tổ chức Phạt tiền từ
(Điểm e Khoản 5) Chiếm dụng hè phố từ 05 m 2 đến dưới 10 m 2 làm nơi trông, giữ xe
- Cá nhân: Phạt tiền từ 3 - 5 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền từ 6 - 10 triệu (Điểm g Khoản 4)
- Cá nhân: Phạt tiền từ 4 - 6 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền từ 8 - 12 triệu (Điểm g Khoản 5) Xây dựng nhà ở trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ ở đoạn đường trong đô thị
- Cá nhân: Phạt tiền từ 5 - 7 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền từ 10 - 14 triệu (Điểm a Khoản 5)
- Cá nhân: Phạt tiền từ 15 - 20 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền từ 30 - 40 triệu (Điểm a Khoản 8) Chiếm dụng hè phố từ 10 m 2 đến dưới 20 m 2 làm nơi trông, giữ xe
- Cá nhân: Phạt tiền từ 5 - 7 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền từ 10 - 14 triệu (Điểm b Khoản 5)
- Cá nhân: Phạt tiền từ 6 - 8 triệu
- Tổ chức: Phạt tiền từ 12 - 16 triệu (Khoản 6)
Thứ hai, về các hình thức xử phạt bổ sung
Hành vi vi phạm Luật Giao thông đường bộ có thể bị xử phạt chính bằng hình thức phạt tiền, tuy nhiên, hình thức xử phạt bổ sung là tước quyền sử dụng giấy phép, cụ thể là giấy phép lái xe, cũng được áp dụng Cụ thể, hình thức này sẽ được thực hiện đối với những hành vi như đỗ xe trái phép hoặc điều khiển xe trên hè phố đô thị dẫn đến tai nạn giao thông, theo quy định tại điểm c khoản 12 Điều 6 Nghị định 46/2016/NĐ-CP.
Theo Nghị định 46/2016/NĐ-CP, người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (bao gồm cả xe máy điện) có thể bị xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép lái xe từ 02 đến 04 tháng Đối với người lái xe ô tô, nếu điều khiển xe trên hè phố mà không gây ra tai nạn giao thông, mức tước quyền sử dụng giấy phép lái xe sẽ là từ 01 đến 03 tháng Nghị định này cũng quy định các hình thức tước quyền khác liên quan đến việc vi phạm luật giao thông.
Chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ có thời gian từ 02 đến 04 tháng, áp dụng cho người điều khiển xe máy chuyên dùng khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về giao thông và gây ra tai nạn.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 77 Nghị định 46/2016/NĐ-CP, thời điểm bắt đầu tính thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép lái xe, giấy phép thi công và chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ được xác định rõ ràng Trong thời gian tước quyền, người có thẩm quyền xử phạt sẽ giữ giấy phép, chứng chỉ và thông báo cho cơ quan cấp phép biết Khi hết thời hạn tước quyền theo quyết định xử phạt, giấy phép và chứng chỉ sẽ được trả lại cho cá nhân hoặc tổ chức đã bị tước.
Hình thức xử phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn, được quy định trong Luật XLVPHC 2012, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn đối với cá nhân và tổ chức vi phạm mà không cần giấy phép Đặc biệt, đối với hành vi liên quan đến thi công trên đường bộ mà không đảm bảo an toàn giao thông, hình thức này sẽ được áp dụng cho các trường hợp gây ùn tắc giao thông nghiêm trọng, theo điểm b khoản 2 Điều 13 Nghị định 46/2016/NĐ-CP, với thời hạn đình chỉ từ 01 đến 03 tháng.
1.2.2.2 Các biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
Dựa trên quy định của Luật XLVPHC 2012, thì trong lĩnh vực GTĐB các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 46/2016/NĐ-
Đối với các hành vi LCTPHPĐT, biện pháp “buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu” là phương án chủ yếu được áp dụng nhằm đảm bảo nguyên tắc khắc phục mọi hậu quả VPHC Biện pháp này không chỉ ngăn chặn việc cá nhân, tổ chức chấp nhận phạt tiền để duy trì hành vi vi phạm mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và hệ thống quản lý nhà nước Ngoài ra, còn có các biện pháp khắc phục hậu quả đặc thù như buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép, biển quảng cáo, di dời cây trồng trái phép, và thu dọn rác, vật tư, chất phế thải, hàng hóa, máy móc, thiết bị.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
Pháp luật trao quyền xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) cho nhiều cá nhân nhằm tăng cường khả năng phát hiện và xử lý kịp thời Tuy nhiên, việc phân định rõ ràng quyền hạn của các cơ quan và chủ thể có thẩm quyền là cần thiết để tránh chồng chéo và bảo đảm trật tự pháp luật Theo Điều 52 Luật XLVPHC 2012 và Điều 74 Nghị định 46/2016/NĐ-CP, pháp luật quy định cụ thể thẩm quyền của từng chức danh và nguyên tắc xác định phạm vi xử phạt Cảnh sát giao thông đường bộ và Thanh tra đường bộ là hai lực lượng chính có quyền xử phạt các hành vi vi phạm luật giao thông theo Điều 86 và 87 Luật GTĐB 2008 Ngoài ra, các lực lượng như Cảnh sát trật tự, Cảnh sát cơ động, Cảnh sát 113, và Công an xã cũng tham gia phối hợp để đảm bảo an toàn giao thông Việc huy động thêm lực lượng được thực hiện theo Nghị định số 27/2010/NĐ-CP và Thông tư 47/2011/TT-BCA Theo Điều 54 Luật XLVPHC 2012, cấp phó của một số chức danh cũng có quyền xử phạt nếu được giao quyền, và việc giao quyền phải được thể hiện bằng văn bản, rõ ràng về phạm vi, nội dung và thời hạn.
Cụ thể, các chủ thể có thẩm quyền XPVPHC đối với các hành vi LCTPHPĐT được quy định trong Nghị định được chia thành 03 nhóm sau:
Nhóm 1 là Chủ tịch UBND các cấp: Trong bộ máy hành chính của nước ta,
UBND các cấp là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trên từng đơn vị lãnh thổ Theo khoản 3 Điều 52 của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, Chủ tịch UBND các cấp có quyền xử phạt các hành vi liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước.
Nghị định 46/2016/NĐ-CP trong phạm vi quản lý của địa phương mình (khoản 1 Điều 70 và Điều 71 Nghị định 46/2016/NĐ-CP) Cụ thể như sau:
Một là, Chủ tịch UBND cấp xã có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 4.000.000 đồng; Áp dụng một số biện pháp khắc phục hậu quả
Hai là, Chủ tịch UBND cấp huyện có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến
20.000.000 đồng; Tước quyền sử dụng giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Áp dụng một số biện pháp khắc phục hậu quả
Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền áp dụng các hình thức xử phạt như phạt cảnh cáo, phạt tiền lên đến 40.000.000 đồng, tước quyền sử dụng giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn, cùng với việc thực hiện tất cả các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định này.
Nhóm 2 là Công an nhân dân: Theo quy định của Luật XLVPHC 2012 và Điều 72 Nghị định 46/2016/NĐ-CP thì thẩm quyền xử phạt được sửa đổi theo hướng tăng thẩm quyền xử phạt cho cấp cơ sở Cụ thể như sau:
Một là, Chiến sĩ Công an nhân dân đang thi hành công vụ có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến 400.000 đồng
Hai là, Đội trưởng, Trạm trưởng Công an nhân dân có quyền: Phạt cảnh cáo;
Ba là, Trưởng Công an cấp xã, Trưởng đồn Công an, và Trạm trưởng Trạm Công an cửa khẩu, khu chế xuất có quyền xử lý vi phạm bằng cách phạt cảnh cáo, phạt tiền tối đa 2.000.000 đồng, và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả.
Trưởng Công an cấp huyện, Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh sát giao thông, và các Trưởng phòng Công an cấp tỉnh như Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát trật tự, Trưởng phòng Cảnh sát phản ứng nhanh, Trưởng phòng Cảnh sát giao thông, và Trưởng phòng Cảnh sát GTĐB - đường sắt, cùng với Thủ trưởng đơn vị Cảnh sát cơ động từ cấp đại đội trở lên, có quyền thực hiện các hình thức xử phạt như phạt cảnh cáo, phạt tiền lên đến 8.000.000 đồng, tước quyền sử dụng giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn, và áp dụng một số biện pháp khắc phục hậu quả.
Năm là, Giám đốc Công an cấp tỉnh có quyền: Phạt cảnh cáo; Phạt tiền đến
20.000.000 đồng; Tước quyền sử dụng giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Áp dụng một số biện pháp khắc phục hậu quả
Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông và Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội có quyền thực hiện các biện pháp xử lý vi phạm, bao gồm phạt cảnh cáo, phạt tiền lên đến 40 triệu đồng, tước quyền sử dụng giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn, cũng như áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả.
Nhóm 3 là Thanh tra GTĐB: Điều 73 Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định quyền XPVPHC của các chức danh của cơ quan Thanh tra GTĐB, từ Thanh tra viên đang thi hành công vụ đến Chánh Thanh tra Bộ Giao thông vận tải Cụ thể như sau:
Thanh tra viên, người thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, có quyền trong quá trình thi hành công vụ bao gồm việc phạt cảnh cáo, phạt tiền tối đa 400.000 đồng và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả.
Chánh Thanh tra Sở Giao thông vận tải và Chánh Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường, cùng với Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của cơ quan quản lý đường bộ thuộc Tổng cục Đường bộ Việt Nam, có quyền áp dụng hình thức phạt cảnh cáo đối với các vi phạm trong lĩnh vực giao thông và môi trường.
Vi phạm có thể bị phạt tiền lên đến 20.000.000 đồng, tước quyền sử dụng giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề, hoặc đình chỉ hoạt động trong một thời gian nhất định Đồng thời, sẽ áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 của Nghị định này.
Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của Sở Giao thông vận tải và Sở Tài nguyên và Môi trường có quyền thực hiện các biện pháp xử lý vi phạm, bao gồm phạt cảnh cáo, phạt tiền lên đến 28.000.000 đồng, tước quyền sử dụng giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề, cũng như đình chỉ hoạt động có thời hạn Ngoài ra, họ còn có thể áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định liên quan.
Chánh Thanh tra Bộ Giao thông vận tải, Chánh Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường, cùng với Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường và Tổng cục trưởng Tổng cục Đường bộ Việt Nam, có quyền thực hiện các biện pháp xử lý vi phạm như: phạt cảnh cáo, phạt tiền lên đến 40.000.000 đồng, tước quyền sử dụng giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn, và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định này.
Pháp luật ngày càng mở rộng quy định về các chủ thể có quyền xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) nhằm đáp ứng sự gia tăng và đa dạng của các vi phạm hành chính Sự phát triển của bộ máy hành chính nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc này Chẳng hạn, Luật Thanh tra năm 2010 đã bổ sung nhiều chủ thể có thẩm quyền XPVPHC trong hệ thống thanh tra chuyên ngành, giới thiệu khái niệm mới về “cơ quan và người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành”.
Thủ tục xử phạt, thi hành và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
1.2.4.1 Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
Khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính (VPHC), người có thẩm quyền phải ngay lập tức chấm dứt hành vi đó Luật xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) 2012 quy định rõ các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý VPHC, được chia thành hai chương với 14 điều Mục đích của các biện pháp này là ngăn chặn kịp thời vi phạm và đảm bảo xử lý đúng quy định Chỉ những người có thẩm quyền mới được quyết định hoặc thực hiện các biện pháp này, đặc biệt trong việc tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC Đối với hành vi đỗ xe trái phép, việc tạm giữ phương tiện chỉ được thực hiện theo quy định cụ thể nhằm bảo đảm thi hành quyết định xử phạt hoặc xác minh thông tin Luật cũng cho phép cá nhân, tổ chức vi phạm có thể giữ phương tiện dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước nếu đáp ứng đủ điều kiện, nhằm hỗ trợ các phương tiện giao thông phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
Việc tạm giữ tang vật và phương tiện vi phạm hành chính (VPHC) phải chấm dứt ngay khi xác minh đủ căn cứ xử phạt, khi hành vi vi phạm không còn gây nguy hiểm cho xã hội hoặc khi quyết định xử phạt đã được thi hành Cơ quan có thẩm quyền cần lập biên bản xử lý tạm giữ theo quy định tại Điều 81 và Điều 125 của Luật XLVPHC 2012 Biên bản này phải tuân thủ mẫu quy định trong Thông tư số 05/2014/TT-BGTVT (mẫu số 17), trong đó cần ghi rõ tên và số lượng tang vật.
20 Cao Vũ Minh (2013), “Pháp luật về XPVPHC trong lĩnh vực GTĐB - Những bất cập và hướng hoàn thiện”, Luật học, (09), tr 43
Theo Lê Vương Long (2014), trong việc xử lý vi phạm hành chính, cần ghi rõ chủng loại, số đăng ký (nếu có), tình trạng và chất lượng của vật, tiền, hàng hóa, phương tiện bị tạm giữ Biên bản tạm giữ phải có chữ ký của người thực hiện, người bị xử phạt hoặc đại diện tổ chức bị xử phạt cùng với người chứng kiến Nếu người bị xử phạt vắng mặt, cần có ít nhất hai người chứng kiến Đối với tang vật và phương tiện cần niêm phong, việc niêm phong phải được thực hiện ngay trước mặt người bị xử phạt hoặc đại diện tổ chức và phải được ghi nhận trong biên bản.
Mọi trường hợp xử phạt, dù áp dụng biện pháp nào, đều phải tuân thủ quy định pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, bao gồm cả thủ tục lập biên bản và thủ tục không lập biên bản (thủ tục đơn giản).
Thứ nhất, thủ tục XPVPHC không lập biên bản (thủ tục đơn giản)
Theo Điều 56 Luật XLVPHC 2012, hình thức xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng cho các mức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền dưới 250.000 đồng đối với cá nhân và 500.000 đồng đối với tổ chức Người có thẩm quyền sẽ ra quyết định xử phạt tại chỗ và cá nhân, tổ chức vi phạm có thể nộp tiền phạt ngay tại chỗ, kể cả ngoài giờ hành chính Quy định này nhằm tạo thuận lợi cho người vi phạm, giúp họ không phải đi lại nhiều lần chỉ để thực hiện quyết định xử phạt có mức phạt thấp Trong lĩnh vực xử phạt các hành vi liên quan đến trật tự an toàn giao thông, thủ tục này áp dụng cho những hành vi vi phạm có mức phạt tiền không quá 250.000 đồng, như việc đỗ xe sai quy định của các loại phương tiện như xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp theo các quy định tại Nghị định 46/2016/NĐ-CP.
Theo quy định, các hành vi vi phạm phải được xử phạt ngay tại chỗ, vì vậy người có thẩm quyền cần ra quyết định xử phạt ngay lập tức mà không cần lập biên bản.
Thứ hai, thủ tục XPVPHC có lập biên bản và hồ sơ XPVPHC
Thủ tục xử phạt có lập biên bản áp dụng cho các vụ vi phạm phức tạp, với mức phạt trên 250.000 đồng cho cá nhân và trên 500.000 đồng cho tổ chức Điều này cũng áp dụng cho mọi trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện thông qua thiết bị kỹ thuật và nghiệp vụ Những hành vi vi phạm này thường mang tính chất nghiêm trọng.
Theo Đinh Phan Quỳnh (2017), việc xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) trong lĩnh vực giao thông đường bộ (GTĐB) ở Việt Nam cần thời gian để các cơ quan chức năng xác minh đầy đủ các vấn đề liên quan nhằm đảm bảo tính khách quan và chính xác trong quyết định xử phạt Lập biên bản vi phạm hành chính là quy định bắt buộc, trừ trường hợp xử phạt theo thủ tục đơn giản, và nội dung biên bản phải tuân thủ theo quy định tại khoản 2 Điều 58 Luật XLVPHC 2012 Sau khi lập biên bản, cơ quan có thẩm quyền cần tuân theo Điều 66 Luật XLVPHC 2012 để ra quyết định xử phạt Đối với các vụ việc đơn giản, nếu hành vi vi phạm rõ ràng, quyết định xử phạt phải được ban hành trong vòng 07 ngày kể từ ngày lập biên bản.
1.2.4.2 Thi hành và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
Theo Điều 73 Luật XLVPHC 2012, cá nhân và tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính phải thực hiện quyết định xử phạt trong vòng 10 ngày, trừ khi có thời hạn thi hành dài hơn Nếu mức phạt vượt quá 3.000.000 đồng và người bị phạt gặp khó khăn đặc biệt do thiên tai, dịch bệnh hoặc các nguyên nhân khác, họ có thể xin hoãn thi hành quyết định phạt Trong thời hạn 05 ngày sau khi nhận đơn, người ra quyết định xử phạt sẽ xem xét yêu cầu hoãn Quy định này nhằm đảm bảo tính thực tiễn và tăng cường trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện quyết định xử phạt.
Nếu cá nhân hoặc tổ chức không tự nguyện thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) sau thời hạn quy định, sẽ bị cưỡng chế thi hành Những đối tượng bị cưỡng chế phải chịu mọi chi phí liên quan đến việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế Việc cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC và thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế được thực hiện theo quy định tại các Điều 86, 87, 88 của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 và Nghị định số 166/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 12/11/2013.
Thời hiệu xử phạt và thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm trái phép hè phố đô thị
Thời hiệu XPVPHC là khoảng thời gian mà pháp luật quy định, trong đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các biện pháp xử phạt hành chính đối với cá nhân hoặc tổ chức vi phạm hành chính Điều này được quy định tại điểm a khoản 1 Điều
6 Luật XLVPHC 2012 thì thời hiệu XPVPHC đối với các hành vi LCTPHPĐT là
Theo Điều 6 Luật XLVPHC 2012, thời hiệu xử lý vi phạm hành chính (XPVPHC) được tính khác nhau tùy thuộc vào trạng thái của hành vi vi phạm Cụ thể, đối với hành vi đã chấm dứt, thời hiệu được tính từ thời điểm kết thúc hành vi vi phạm, trong khi đối với hành vi đang diễn ra, thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện Thời hạn được coi là chưa bị XPVPHC là khoảng thời gian mà người vi phạm không tái phạm; sau thời gian này, họ sẽ được xem như chưa vi phạm Đối với các hành vi liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước, nếu quyết định xử phạt là cảnh cáo, thời hạn này là 06 tháng, còn nếu là quyết định XPVPHC khác, thời hạn sẽ là 01 năm.