1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi

109 18 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 109
Dung lượng 2,96 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG TRƯỜNG HỢP BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI (12)
    • 1.1. Lược sử pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi trước khi có Bộ luật Dân sự năm 2015 (12)
      • 1.1.1. Trước khi có Bộ luật Dân sự năm 1995 (12)
      • 1.1.2. Từ khi có Bộ luật Dân sự năm 1995 (17)
    • 1.2. Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (21)
      • 1.2.1. Quy định chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi (21)
        • 1.2.1.1. Bên bị thiệt hại có lỗi một phần (23)
        • 1.2.1.2. Bên bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi (24)
      • 1.2.2. Một số quy định cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi (27)
        • 1.2.2.1. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (27)
        • 1.2.2.2. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (29)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG TRƯỜNG HỢP BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT (33)
    • 2.1. Thực tiễn áp dụng quy định chung về bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi và kiến nghị hoàn thiện pháp luật (33)
      • 2.1.1. Xác định nội hàm yếu tố lỗi của bên bị thiệt hại (33)
      • 2.1.2. Xác định mức độ lỗi của bên bị thiệt hại (37)
    • 2.2. Thực tiễn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật (41)
    • 2.3. Thực tiễn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợpbên bị thiệt hại có lỗi và kiến nghị hoàn thiện pháp luật (46)
  • KẾT LUẬN (52)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG TRƯỜNG HỢP BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI

Lược sử pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi trước khi có Bộ luật Dân sự năm 2015

1.1.1 Trước khi có Bộ luật Dân sự năm 1995

Dưới triều đại phong kiến, các đạo, chiếu, lệnh và chính sách ruộng đất của nhà nước Lý, Trần, Hồ đã đánh dấu sự kiện quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam, khi lần đầu tiên các vấn đề về sở hữu và hợp đồng được quy định một cách rõ ràng trong hệ thống pháp luật.

Các chế định về dân sự lần đầu tiên được quy định trong pháp luật Việt Nam vào thời Lý-Trần-Hồ, chủ yếu tập trung vào sở hữu, hợp đồng và thừa kế, trong khi quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chưa xuất hiện Đến thời nhà Lê, pháp luật phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của Bộ Quốc triều Hình luật, được coi là bộ luật tiêu biểu nhất trong lịch sử pháp luật phong kiến Việt Nam Tuy nhiên, nội dung các quy định dân sự trong bộ luật này vẫn chỉ giới hạn ở các quan hệ sở hữu, hợp đồng và thừa kế, với trọng tâm là ruộng đất.

Bộ Hoàng Việt luật lệ, được ban hành dưới triều vua Gia Long, là văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất trong hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam Văn bản này bổ sung cho Bộ Quốc triều Hình luật bằng cách quy định rõ ràng về sở hữu, hợp đồng và thừa kế trong lĩnh vực dân sự.

1 Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, trang 144

Bộ Hoàng Việt luật lệ đã mở rộng quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đặc biệt trong lĩnh vực dân sự Luật quy định ba hình thức lỗi: lỗi cố ý, lỗi vô ý và lỗi sơ ý, nhằm phân biệt mức độ trách nhiệm bồi thường Các nhà làm luật xưa đã chú ý đến sự phân biệt này để tăng cường bồi thường trong trường hợp lỗi cố ý, do cổ pháp chưa phân định rõ giữa trách nhiệm hình sự và dân sự Mặc dù tiền bồi thường nhằm đền bù thiệt hại cho nạn nhân, nhưng cũng được xem như hình phạt và có tính chất thị uy để ngăn ngừa hành vi vi phạm Vào ngày 23/3/1972, Thông tư số 173/UBTP của Tòa án nhân dân tối cao đã được ban hành.

TANDTC đã ban hành hướng dẫn xét xử liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Theo văn bản này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ được xác định khi có đủ bốn điều kiện cần thiết.

- Phải có hành vi trái pháp luật;

- Phải có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật;

- Phải có lỗi của người gây thiệt hại

Trong điều kiện thứ 4 về lỗi của người gây thiệt hại, có nhiều hình thức lỗi được đề cập như “lỗi cố ý”, “lỗi vô ý”, “lỗi nhẹ”, “lỗi vô ý nhẹ”, “lỗi vô ý nặng” và “lỗi nghiêm trọng” Tuy nhiên, các thuật ngữ này chưa được quy định cụ thể về cách hiểu và xác định, dẫn đến sự thiếu rõ ràng trong việc áp dụng.

Về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi người bị thiệt hại có lỗi đƣợc quy định cụ thể nhƣ sau:

Khi người bị thiệt hại có lỗi vô ý nặng, Tòa án sẽ xác định trách nhiệm hỗn hợp, yêu cầu người gây thiệt hại chỉ bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình.

2 Huỳnh Công Bá (2017), Định chế pháp luật và tố tụng Triều Nguyễn (1802-1885), Nxb Thuận Hóa, Hồ Chí Minh, trang 396

Nếu người bị thiệt hại có lỗi vô ý nhẹ, thì không áp dụng trách nhiệm hỗn hợp; trong trường hợp này, người gây thiệt hại phải hoàn toàn chịu trách nhiệm cho toàn bộ thiệt hại xảy ra.

Trong trường hợp người bị thiệt hại cố ý mong muốn gây ra thiệt hại cho bản thân, người gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường Ví dụ điển hình là trường hợp người đi đường lao vào ô tô đang chạy với ý định tự tử.

Khi người bị thiệt hại có lỗi vô ý nặng, họ sẽ được xem xét như là có lỗi một phần, theo quy định của Bộ luật Dân sự.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, người gây thiệt hại chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường tương ứng với phần lỗi của mình Nếu người bị thiệt hại có lỗi vô ý nhẹ, người gây thiệt hại sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn Khi có đủ bốn điều kiện về thiệt hại, hành vi trái pháp luật, mối quan hệ nhân quả và lỗi của người gây thiệt hại, nếu người bị thiệt hại không có lỗi, người gây thiệt hại vẫn phải bồi thường toàn bộ Điều này dẫn đến việc trong hai trường hợp, trách nhiệm bồi thường đều thuộc về người gây thiệt hại, đặt ra câu hỏi về tính cần thiết của quy định về lỗi vô ý nhẹ Ngược lại, nếu người bị thiệt hại có lỗi cố ý, thì theo quy định, người gây thiệt hại không phải bồi thường Trường hợp trách nhiệm hỗn hợp chỉ xảy ra khi cả hai bên đều có lỗi, với lỗi của người bị thiệt hại là vô ý nặng.

Theo Khoản 4 Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015, nếu bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây ra thiệt hại, thì bên đó sẽ không được bồi thường cho phần thiệt hại do lỗi của chính mình gây ra.

Theo Khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015, người gây thiệt hại không phải bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định pháp luật khác.

Sau Thông tư 173/UBTP của TANDTC ngày 23 tháng 3 năm 1972, Thông tư số 03-TATC ra đời vào ngày 05 tháng 4 năm 1983, hướng dẫn giải quyết các vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại trong tai nạn ô tô Tại thời điểm này, thuật ngữ “nguồn nguy hiểm cao độ” được hình thành với nội dung cho rằng “hoạt động của ô tô là một nguồn nguy hiểm cao độ” Thông tư này xác định ô tô là nguồn nguy hiểm cao độ, nội dung này sau đó được Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005 và 2015 kế thừa, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Theo khoản 1 Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015, phương tiện giao thông vận tải cơ giới, bao gồm ô tô, được xem là một trong những nguồn nguy hiểm cao độ Văn bản này cũng quy định rõ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi người bị thiệt hại có lỗi.

Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015

bị thiệt hại có lỗi theo Bộ luật Dân sự năm 2015

Trong lĩnh vực kỹ thuật lập pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi người bị thiệt hại có lỗi đã được điều chỉnh theo hướng mới, không còn theo quy định cụ thể như Điều 621 BLDS 1995 hay Điều 617 BLDS 2005 Thay vào đó, trách nhiệm này được quy định tại Mục về Quy định chung trong Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể tại Điều 584 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại và Điều 585 về nguyên tắc bồi thường thiệt hại.

1.2.1 Quy định chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi

Khái niệm “bên bị thiệt hại” đƣợc quy định tại khoản 2 Điều 584 BLDS

Khoản 3 và khoản 4 Điều 585 BLDS 2015 giới thiệu khái niệm mới về "người bị thiệt hại", thay thế cho thuật ngữ cũ trong BLDS 2005 Sự thay đổi này nhằm phản ánh thực tiễn rằng từ "người" thường chỉ liên quan đến cá nhân, trong khi quy định mới mở rộng đối tượng bị thiệt hại.

16 bên bị thiệt hại được hiểu bao gồm người (cá nhân) bị thiệt hại và tổ chức (pháp nhân) bị thiệt hại

Khoản 2 Điều 584 BLDS 2015 quy định: Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại Và khoản 4 Điều 585 BLDS 2015 quy định nhƣ sau: Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra

Với sự sửa đổi, bổ sung của Bộ luật Dân sự 2015, khái niệm “lỗi” không còn là căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

"Lỗi" là yếu tố then chốt trong việc xác định mức độ chịu trách nhiệm giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 không cung cấp định nghĩa rõ ràng về "lỗi", ngoài việc phân loại thành lỗi cố ý và lỗi vô ý theo Điều 364 Theo quy định này, "lỗi" được hiểu là nhận thức của chủ thể về hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra cho người khác Cụ thể, "lỗi" phản ánh thái độ tâm lý của người gây thiệt hại, thể hiện sự nhận thức và mong muốn liên quan đến hành vi gây thiệt hại Một số học giả cũng cho rằng "lỗi" là trạng thái tâm lý mà con người có thể kiểm soát và nhận thức được hành vi cùng hậu quả của nó.

Theo một nhà nghiên cứu, Bộ luật Dân sự và Nghị quyết số 03 không đưa ra định nghĩa cụ thể về “lỗi”, nhưng qua khái niệm “lỗi vô ý” và “lỗi cố ý”, có thể thấy rằng cả hai loại lỗi này đều liên quan đến “nhận thức” về thiệt hại mà người gây ra hành vi đó phải chịu.

9 Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, trang 79

10 Lê Văn Sua (2004), “Vài suy nghĩ về Điều 621 BLDS”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11

Trong cuốn sách "Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam bản án và bình luận án" do Đỗ Văn Đại chủ biên (2016), Nxb Hồng Đức và Hội luật gia Việt Nam xuất bản, trang 114, tác giả đã phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Việt Nam Nội dung cuốn sách cung cấp cái nhìn sâu sắc về các bản án và bình luận, giúp người đọc hiểu rõ hơn về quy định và thực tiễn áp dụng luật trong lĩnh vực này.

1.2.1.1 Bên bị thiệt hại có lỗi một phần

Khoản 4 Điều 585 BLDS 2015 quy định nội dung này nhƣ sau: “Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra” Đây không phải nội dung mới của BLDS 2015 mà đã được quy định trước đó tại BLDS 2005 Điều này thuyết phục bởi lẽ nó phù hợp với tính chất công bằng giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự

Bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi một phần thuộc trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Để áp dụng quy định này, cần thỏa mãn các điều kiện như có hành vi trái pháp luật của bên gây thiệt hại (trừ trường hợp do nguồn nguy hiểm cao độ), thiệt hại thực tế xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại Thêm vào đó, bên bị thiệt hại cũng phải có lỗi trong việc gây ra thiệt hại để quy định bồi thường được áp dụng.

Sau khi thỏa mãn các điều kiện bồi thường thiệt hại khi bên bị thiệt hại có lỗi, việc xác định mức độ lỗi của mỗi bên trở nên cần thiết Theo Điều 617 BLDS 2015, khi người bị thiệt hại cũng có lỗi, bên gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình Nguyên tắc này được nhấn mạnh trong Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP, yêu cầu việc xác định mức bồi thường thiệt hại phải dựa vào mức độ lỗi của các bên, từ đó buộc người gây thiệt hại bồi thường các khoản thiệt hại tương ứng Nội dung trách nhiệm bồi thường hiện nay tiếp tục dựa trên các tiêu chí này.

Theo Điều 585 BLDS 2015, khái niệm “mức độ lỗi” không còn tồn tại, nhưng vẫn giữ nguyên cách hiểu với Điều 617 BLDS 2005 Khi thiệt hại xảy ra và bên bị thiệt hại có lỗi, họ sẽ chịu trách nhiệm tương ứng với phần lỗi của mình, trong khi bên gây thiệt hại phải bồi thường theo phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra Mặc dù “lỗi” không còn là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng, nhưng vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mức bồi thường giữa hai bên Do đó, việc xác định “mức độ lỗi” vẫn cần thiết trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi, theo quy định tại BLDS 2015 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi bên bị thiệt hại có lỗi một phần được quy định tại Điều 621 BLDS.

Mặc dù Điều 617 BLDS 2005 và khoản 4 Điều 585 BLDS 2015 có hiệu lực từ năm 1995, nhưng các Bộ luật Dân sự và văn bản hướng dẫn trước đó không quy định rõ ràng về cách hiểu cũng như xác định “mức độ lỗi”.

1.2.1.2 Bên bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên gây thiệt hại sẽ không được áp dụng nếu thiệt hại hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, theo quy định tại khoản 2 Điều 584 BLDS 2015 Điều này có nghĩa là người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu thiệt hại phát sinh hoàn toàn từ lỗi của bên bị thiệt hại, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định pháp luật khác Nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự cho phép tự do thỏa thuận, miễn là không vi phạm luật pháp và đạo đức xã hội, được thể hiện qua cụm từ “trừ trường hợp có thỏa thuận khác” Do đó, lỗi của bên bị thiệt hại chỉ cần được chứng minh mà không cần xác định cụ thể là lỗi cố ý hay vô ý.

19 sinh hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người gây thiệt hại sẽ được loại trừ

Vấn đề đặt ra là “hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại” quy định tại khoản

Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 đặt ra câu hỏi về việc xác định thiệt hại phát sinh “hoàn toàn do lỗi của bên gây thiệt hại” có cần xem xét lỗi của cả hai bên hay chỉ tập trung vào bên bị thiệt hại Mặc dù BLDS 2005 và Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP không đưa ra hướng dẫn cụ thể cho vấn đề này, sự thiếu sót trong quy định của BLDS 2015 về khái niệm lỗi vẫn gây ra bất cập Theo Điều 364 BLDS 2015, lỗi được hiểu là trạng thái tâm lý và khả năng nhận thức của con người, do đó, “lỗi” trong ngữ cảnh “hoàn toàn do lỗi của bên gây thiệt hại” chỉ có thể được xác định dựa trên nhận thức của cả hai bên Tuy nhiên, để có kết luận thuyết phục về lỗi, cần xem xét toàn diện các yếu tố như nguyên nhân gây ra thiệt hại, hành vi trái pháp luật và các tình tiết liên quan trong vụ án.

Khoản 3 Điều 584 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này”

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG TRƯỜNG HỢP BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

Thực tiễn áp dụng quy định chung về bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

2.1.1 Xác định nội hàm yếu tố lỗi của bên bị thiệt hại

Bản án số 37/2017/DS-PT ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn về vụ việc đòi bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

Khoảng 07 giờ ngày 24/10/2015, bà H2 đến quán phở của bà H1 để đòi nợ tiền 09 con vịt quay nhƣng bà H1 cho rằng mình đã thanh toán xong nên hai bên xảy ra tranh cãi Lúc này, bà H2 đòi lấy vịt quay của bà H1 đang bán để trừ nợ Khi bà H2 giơ tay định lấy vịt quay trên bàn thì bà H1 dùng muôi múc canh phở đánh vào tay bà H2 và cầm gáo nhựa màu đỏ múc nước nóng hất vào người bà H1 nhƣng bà tránh đƣợc Ông Nguyễn Xuân N (chồng bà H2) nhận đƣợc tin, từ nhà đến quán phở của bà H1, xông vào tát bà H1 01 phát vào mặt, hai người vật lộn với nhau dưới đất một lúc thì dừng lại do mọi người can ngăn Sau đó, bà H1 vào Bệnh viện huyện T điều trị Vì vậy, bà Nguyễn Thị H1 khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Xuân N bồi thường thiệt hại cho bà

Hội đồng xét xử đã xác định rằng hành vi của ông Nguyễn Xuân N đối với bà Nguyễn Thị H1 là vi phạm pháp luật Nguyên nhân dẫn đến hành vi này là do bà Nguyễn Thị H1 đã tạt nước sôi vào người bà Nguyễn Thị H2, vợ của ông Nguyễn Xuân N.

Nguyễn Xuân N cần nhận thức rằng cả hai bên đều có trách nhiệm trong vụ việc Vì vậy, ông phải bồi thường cho sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 584 và Điều 585 của Bộ luật Dân sự 2015.

Hội đồng xét xử đã xác định rằng cả hai bên đều có trách nhiệm trong vụ việc này Để xác định nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, việc chứng minh lỗi của cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại là điều cần thiết.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 585 BLDS 2015, trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi một phần, việc giải quyết vụ việc sẽ được áp dụng Yếu tố lỗi được hiểu theo quy định tại Điều 364 BLDS 2015, trong đó phân biệt giữa lỗi cố ý và lỗi vô ý Cụ thể, "lỗi được hiểu là nhận thức của con người".

Hội đồng xét xử nhận định rằng bà H1 đã có lỗi khi tạt nước sôi vào bà H2, trong khi ông N cũng có lỗi do hành vi đánh bà H1, đây là hành vi trái pháp luật, không phải do nhận thức của con người.

Trong vụ tai nạn giao thông giữa xe mô tô do anh Trần Văn N điều khiển và xe mô tô của ông Ngô Thanh D, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xác định lỗi của người bị thiệt hại cũng là hành vi trái pháp luật Cụ thể, Hội đồng xét xử nhận định rằng anh N đã điều khiển xe không đúng phần đường quy định, dẫn đến cái chết của mình vào ngày 06/8/2011 Kết luận này cho thấy thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của anh Trần Văn N, khẳng định rằng để xác định trách nhiệm, cần xem xét hành vi vi phạm của cả hai bên.

17 Đỗ Văn Đại (Chủ biên) (2016), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam bản án và bình luận án

(Tập 1), Nxb Hồng Đức- Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, bản án số 25 trang 114, trang 175

18 Bản án số 188/2017/DS-TT ngày 17/08/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre về vụ việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

Theo pháp luật, hành vi "lưu thông không đúng phần đường quy định" của anh N (người bị thiệt hại) đã được Tòa án xác định không chỉ dựa vào yếu tố nhận thức mà còn dựa vào hành vi cụ thể của người liên quan, theo Điều 617 BLDS 2005 và Điều 585 BLDS 2015 Sự không đồng nhất giữa văn bản pháp luật và thực tiễn xét xử trong việc xác định yếu tố lỗi là điều cần lưu ý Tác giả đồng tình với quan điểm của Tòa án và cho rằng cần có văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tương tự như Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP trước đây.

Tác giả cho rằng không cần thiết xây dựng khái niệm “lỗi” cụ thể, mà nên có quy định rõ ràng về căn cứ và tiêu chí xác định “lỗi” trong văn bản hướng dẫn Dựa trên kĩ thuật lập pháp tại khoản 1 Điều 601 BLDS 2015, nhà làm luật đã không đưa ra khái niệm cụ thể về “nguồn nguy hiểm cao độ”, mà thay vào đó sử dụng phương pháp liệt kê, bao gồm các nguồn như phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, và nhà máy công nghiệp đang hoạt động Mặc dù không có định nghĩa rõ ràng về nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng quy định này giúp mọi người hình dung được tính chất rủi ro và khả năng gây thiệt hại lớn của chúng Đồng thời, cách quy định này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến nguồn nguy hiểm đã được liệt kê Trong khi đó, quy định về “lỗi” trong pháp luật dân sự hiện nay đang gặp nhiều bất cập.

Trong cuốn sách "Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam bản án và bình luận án (Tập 1)" do Đỗ Văn Đại chủ biên, xuất bản năm 2016 bởi Nxb Hồng Đức và Hội luật gia Việt Nam tại Hà Nội, bản án số 25 được trình bày ở trang 176.

Nhiều học giả cho rằng cần thay đổi cách hiểu truyền thống về “lỗi” và xây dựng một cách hiểu mới, trong đó lỗi được đánh giá dựa trên các tiêu chí như nguyên nhân phát sinh thiệt hại, hành vi trái pháp luật và các tình tiết liên quan Quy định này sẽ giúp giải quyết hai vấn đề lớn trong lĩnh vực pháp luật.

Việc xác định lỗi dựa trên các căn cứ nêu trên sẽ giúp thay đổi cách hiểu về lỗi, từ đó giảm bớt những khó khăn trong công tác xét xử thực tiễn hiện nay.

Pháp luật dân sự định hình khái niệm về “lỗi” một cách độc lập với pháp luật hình sự, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xét xử thực tiễn, đảm bảo có cơ sở pháp lý vững chắc và đưa ra những phán quyết thuyết phục.

Tác giả đề xuất cần xây dựng quy định riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, đặc biệt trong các trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi, bao gồm cả những trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại Việc này nhằm làm rõ căn cứ xác định lỗi và đảm bảo tính công bằng trong việc bồi thường thiệt hại.

Trong trường hợp "hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại," bên gây thiệt hại không phải bồi thường, và bên bị thiệt hại phải tự gánh chịu thiệt hại Để xác định thiệt hại thuộc trường hợp này, cần xem xét toàn diện các tình tiết của vụ việc Tác giả cho rằng yếu tố lỗi cần được đánh giá ở cả hai bên: bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại, không chỉ riêng bên bị thiệt hại Qua vụ tranh chấp do Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre giải quyết, có thể rút ra kết luận về thiệt hại xảy ra.

Thực tiễn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bản án số 60/2014/DS-PT ngày 12/2/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang 22

Vào ngày 01/3/2012, Ban tư pháp xã Vĩnh Kim đã hòa giải tranh chấp lối đi giữa ông Của, bà Nĩ và ông Kiệm, trong đó anh Hoa có ý kiến nhưng không được chấp nhận do đã uống rượu bia Sau khi đưa con đi học về, anh Hoa đã gặp ông Của, bà Nĩ và con gái tên Lài, dẫn đến cãi vã với bà Nĩ Trong lúc xô xát, anh Hoa bị ông Của, bà Nĩ và chị Lài đuổi đánh, anh đã phản kháng bằng cách dùng cây tràm từ vườn nhà ông Của, gây thương tích cho bà Nĩ với tỷ lệ thương tật vĩnh viễn là 15% Sau phiên xử sơ thẩm, bà Nĩ kháng cáo yêu cầu anh Hoa và anh Nam bồi thường tổng cộng 18.485.903 đồng cho chi phí thuốc men, ăn uống và mất thu nhập, cùng yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần theo quy định pháp luật.

Hội đồng xét xử nhận định rằng bà Nĩ bị thương tích và phải nhập viện là do hành động của anh Hoa, tuy nhiên, bà Nĩ cũng có lỗi tương đương vì đã tấn công anh Hoa trước Anh Hoa đã thực hiện hành vi phòng vệ nhưng vượt quá giới hạn cho phép Vì vậy, anh Hoa có trách nhiệm bồi thường cho bà Nĩ các chi phí thực tế bị mất và các khoản yêu cầu hợp lý tương ứng với phần lỗi của mình, trong khi phần chi phí hợp lý còn lại sẽ do bà Nĩ chịu.

22 Đỗ Văn Đại (Chủ biên) (2016), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam bản án và bình luận án

(Tập 1), Nxb Hồng Đức- Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, bản án số 25, trang 186

Án sơ thẩm đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nĩ, trong đó ghi nhận anh Hoa tự nguyện bồi thường chi phí thuốc điều trị cho bà Nĩ với số tiền 4.000.000 đồng Đồng thời, anh Hoa cũng bị buộc phải bồi thường thêm cho bà Nĩ số tiền 1.950.000 đồng, bao gồm 1.200.000 đồng cho chi phí ăn dưỡng bệnh và 750.000 đồng cho tiền công người nuôi bệnh, điều này được xem là có cơ sở.

Vụ án số 02/2017/DS-ST, được xét xử vào ngày 19/9/2017, liên quan đến việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, do Tòa án nhân dân huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh thụ lý.

Vào ngày 07/10/2014, ông Lê Văn Sơn phát hiện tổ ong ở bờ ruộng nhà mình và đã quyết định đốt tổ ong Tuy nhiên, ông không kiểm soát được lửa, dẫn đến việc đám cháy lan ra khu đồi keo cách đó khoảng 5-6 mét Khi đó, hai anh em Lê Văn P và Lê Văn B đang ở đồi keo thấy khói và lập tức chạy xuống bờ ruộng.

Ông S đang đứng thì bị anh B ném đá vì hiểu nhầm ông đốt đồi keo Khi bị tấn công, ông S cầm dao quắm chạy đến đánh B, nhưng B đã kịp đỡ và chỉ bị thương nhẹ ở cẳng tay trái Sau đó, B trượt ngã và nhặt một cành gỗ keo Khi ông S tiếp tục tấn công, B đứng dậy và dùng cành gỗ vụt vào tay ông S, khiến dao rơi và ông S ngã xuống đất.

Anh B đã đánh ông S bằng cây gỗ keo, gây thương tích 12% sức khỏe cho ông Sau sự việc, ông S đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh B bồi thường tổng số tiền 52.280.000 đồng cho những tổn thương mà ông phải chịu.

Hội đồng xét xử nhận định: Hành vi của anh Lê Văn B thuộc trường hợp

Hành vi "cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng" của anh B không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, vì mức độ tổn hại sức khỏe mà anh gây ra chưa đạt 31%.

Cơ quan Điều tra Công an huyện Đầm Hà đã quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự, xác nhận rằng anh B có lỗi lớn trong sự việc Mặc dù hành vi của anh B không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng anh vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Đặng Văn S theo quy định pháp luật.

Hội đồng xét xử đã xem xét các yêu cầu và căn cứ liên quan đến hóa đơn, chứng từ thanh toán chi phí khám, chữa trị thương tích Kết quả, các yêu cầu hợp lý và đủ căn cứ chứng minh của ông B đã được chấp nhận.

Trong cả hai vụ việc, người gây thiệt hại đều có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, dẫn đến việc Tòa án yêu cầu họ phải bồi thường cho người bị thiệt hại Bộ luật Dân sự không quy định rõ ràng về việc liệu thiệt hại có phải bồi thường toàn bộ hay một phần, cũng như không xác định trách nhiệm của người bị thiệt hại trong trường hợp có lỗi Điều này dẫn đến hai quan điểm trái chiều về việc bồi thường và thực tiễn xét xử cũng phản ánh sự phân chia này.

Trong vụ việc này, Hội đồng xét xử đã xác định rằng bà Nĩ có trách nhiệm tương đương với anh Hoa, do bà đã tấn công anh trước Do đó, anh Hoa phải bồi thường cho bà Nĩ các chi phí thu nhập thực tế bị mất và các khoản yêu cầu hợp lý tương ứng với phần lỗi của mình, trong khi phần chi phí hợp lý còn lại bà Nĩ phải tự gánh chịu Tác giả Đỗ Văn Đại nhận định rằng việc buộc người bị thiệt hại chịu một phần trách nhiệm là hợp lý, vì họ cũng góp phần vào việc gây ra thiệt hại Nếu chỉ buộc người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ bồi thường toàn bộ thiệt hại, sẽ vi phạm nguyên tắc công bằng và không khuyến khích hành vi đúng đắn trong xã hội.

38 tích cực phòng vệ để ngăn chặn, đẩy lùi những hành vi trái pháp luật đang xâm phạm đến lợi ích cần đƣợc bảo vệ” 23

Theo quy định pháp luật, người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi thường toàn bộ thiệt hại Trong vụ việc này, Hội đồng xét xử đã xác định anh B là người có lỗi lớn, nhưng cũng thừa nhận ông S - người bị thiệt hại, có phần lỗi Dù vậy, Hội đồng vẫn chấp nhận toàn bộ yêu cầu bồi thường hợp lý của ông S và buộc anh B phải bồi thường mà không yêu cầu ông S gánh chịu thiệt hại do lỗi của mình.

Tác giả đồng tình với quan điểm của tòa án rằng người bị thiệt hại cần chịu một phần trách nhiệm tương ứng với lỗi của mình Tuy nhiên, trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, việc phân chia trách nhiệm giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại gặp khó khăn trong việc xác định mức bồi thường cụ thể cho từng bên Thực tế cho thấy, chỉ có một số ít trường hợp có thể xác định thiệt hại vượt quá, trong khi phần lớn các trường hợp chỉ có thể xác định tổng thiệt hại thực tế và phân tích thiệt hại trong giới hạn phòng vệ chính đáng một cách tương đối.

Mặc dù có những khó khăn thực tế, việc xác định thiệt hại do việc vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng không hề đơn giản.

Thực tiễn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợpbên bị thiệt hại có lỗi và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Vụ việc thứ nhất: Bản án số 11/2017/DS-ST ngày 28/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Uyên tỉnh Bình Dương

Vào ngày 07/4/2016, một vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng đã xảy ra tại tỉnh Bình Dương giữa ông Nguyễn Đức H, chồng của bà Q, và ông Trương Đình T Hậu quả của vụ tai nạn khiến ông H bị thương nặng và phải nhập viện cấp cứu Sau khoảng 20 ngày điều trị, do tình trạng bệnh quá nghiêm trọng, ông H đã được bệnh viện cho về nhưng chỉ hai ngày sau thì ông đã qua đời Hiện tại, bà Q đang yêu cầu ông N bồi thường thiệt hại cho những tổn thất mà bà phải gánh chịu.

Hội đồng xét xử đã phân tích chứng cứ và nhận định rằng cả ông Nguyễn Đức H và ông Trương Đình T đều có lỗi trong vụ tai nạn, tuy nhiên lỗi chính thuộc về ông H Theo Điều 617 Bộ luật Dân sự 2005, khi người gây thiệt hại có lỗi, họ chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình.

Theo Điều 610 BLDS 2005, Hội đồng xét xử đã chấp nhận một phần yêu cầu của bà Q, xác định ông Nguyễn Đức H có 60% lỗi, do đó ông Trương Đình T chỉ phải bồi thường 40% thiệt hại Trong trường hợp tai nạn giao thông do con người gây ra, có sự lỗi một phần của bên bị thiệt hại, cơ sở pháp lý được đưa ra rất thuyết phục Cụ thể, thiệt hại xảy ra do hành vi của ông T khi chở cây cao su vượt quá giới hạn và đậu xe không đúng quy định, trong khi ông H cũng vi phạm khi điều khiển xe không chú ý quan sát Do đó, thiệt hại thực tế có phần lỗi của ông H, phù hợp với quy định tại Điều 617 BLDS 2005.

2015) đƣợc áp dụng để buộc ông H phải chịu một phần trách nhiệm cho phần lỗi của mình gây ra thiệt hại

Trường hợp tai nạn giao thông do con người gây ra, trong đó bên bị thiệt hại cũng có lỗi, cho thấy sự công bằng trong việc áp dụng quy định pháp luật, khi bên bị thiệt hại phải chịu một phần trách nhiệm Ngược lại, trong các vụ tai nạn không có yếu tố lỗi từ bên bị thiệt hại, mặc dù cơ sở pháp lý chưa hoàn toàn thuyết phục, nhưng thực tiễn xét xử vẫn cố gắng áp dụng quy định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ nhằm bảo vệ quyền lợi của bên bị thiệt hại.

Trong các vụ việc thiệt hại, người bị thiệt hại thường xứng đáng được bảo vệ Tuy nhiên, khi có yếu tố lỗi từ phía họ, quá trình xét xử trở nên phức tạp hơn Tòa án đã bắt đầu áp dụng quy định cho phép phân chia trách nhiệm, yêu cầu người bị thiệt hại phải chịu một phần thiệt hại do lỗi của chính mình Điều này dẫn đến việc thực tiễn xét xử đôi khi quay trở lại với các quy định chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ nguồn nguy hiểm cao độ, có nhiều trường hợp thực tiễn xét xử đáng chú ý Một trong số đó là vụ việc cụ thể đã được áp dụng để làm rõ vấn đề này.

Bản án số 83/2017/DS-PT ngày 27/11/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu liên quan đến vụ tranh chấp bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng Vụ việc này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền sống và trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp vi phạm.

Vào ngày 20/12/2015, anh Nguyễn Văn V điều khiển xe mô tô đã va chạm với bà Lê Thị O khi bà đang đi bộ qua đường tại xã M, huyện H, tỉnh Bạc Liêu, dẫn đến bà O bị thương nặng và sau đó tử vong Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định tai nạn xảy ra do lỗi của bà O khi không quan sát an toàn khi qua đường Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 601 của BLDS năm 2015, chủ sở hữu phương tiện phải bồi thường thiệt hại dù không có lỗi Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm khẳng định việc Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu anh Nguyễn Văn V bồi thường cho gia đình bà O là hợp lý.

Trong vụ việc này, thiệt hại thực tế không xuất phát từ nguồn nguy hiểm cao độ mà là do sự tác động của con người Do đó, Tòa án đã đưa ra phán quyết liên quan đến trách nhiệm của các bên trong vụ việc.

Áp dụng khoản 3 Điều 601 BLDS 2015 trong trường hợp này không thuyết phục, vì chưa có quy định riêng cho thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ do con người gây ra Thay vào đó, cần áp dụng quy định chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại khoản 2 Điều 584 BLDS 2015, trong đó quy định rằng người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm nếu thiệt hại hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại Do đó, việc xác định trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này sẽ hợp lý hơn khi xem xét lỗi của bà, người bị thiệt hại.

O phải chịu hoàn toàn trách nhiệm và không được bồi thường thiệt hại

Dường như tũa ỏn buộc anh V bồi thường ẵ thiệt hại cho gia đỡnh bà O vỡ trong trường hợp này thiệt hại không thỏa mãn điểm a khoản 3 Điều 601 BLDS

Vào năm 2015, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bà O, nhưng không đáp ứng điều kiện "hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại" Do đó, anh V không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại Thiệt hại phát sinh từ lỗi của bà O, vì vậy trách nhiệm bồi thường sẽ được chia đôi, mỗi bên sẽ chịu 50% tổng số thiệt hại thực tế.

Trong một vụ án tương tự, Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội đã căn cứ vào Điều 601 BLDS 2015 để giải quyết, mặc dù thiệt hại thực tế hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại gây ra.

Theo bản án số 10/2017/D-ST ngày 22/8/2017 của TAND quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, để xác định người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường, lỗi của người bị thiệt hại phải hoàn toàn do lỗi cố ý, như quy định tại điểm a khoản 3 Điều 601 BLDS 2015.

Tai nạn giao thông giữa ông Nguyễn Quang Tr và chị Nguyễn Thị H đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, khi chị Hà không may tử vong trong quá trình được đưa đi cấp cứu.

Bản án số 10/2017/DS-ST ngày 22/8/2017 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, liên quan đến vụ tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do xâm phạm tính mạng Vụ án này nêu rõ trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại xảy ra và nhấn mạnh quyền lợi hợp pháp của người bị xâm phạm Tòa án đã xem xét các chứng cứ và tình tiết liên quan để đưa ra quyết định công bằng, bảo vệ quyền lợi của người dân trong các vụ tranh chấp về bồi thường thiệt hại.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:38

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w