1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng

145 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Lỗi Của Bên Bị Thiệt Hại Trong Trách Nhiệm Bồi Thường Ngoài Hợp Đồng
Tác giả Võ Nguyên Tùng
Người hướng dẫn TS. Lê Minh Hùng
Trường học Trường Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự Và Tố Tụng Dân Sự
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2017
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 145
Dung lượng 43,78 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI MỘT PHẦN (12)
    • 1.1. Căn cứ xác định lỗi một phần của bên bị thiệt hại (12)
      • 1.1.1. Chưa áp dụng đúng căn cứ luật định: bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại (0)
      • 1.1.2. Nhầm lẫn về nguyên nhân với điều kiện, nguyên cớ trong thực tiễn xét xử (15)
      • 1.1.3. Kiến nghị hoàn thiện (18)
    • 1.2. Căn cứ ấn định tỷ lệ lỗi của các bên chủ thể (20)
      • 1.2.1. Dựa vào mặt chủ quan của các bên chủ thể trong việc gây thiệt hại (21)
      • 1.2.2. Dựa vào các tình tiết khách quan của việc gây thiệt hại (24)
      • 1.2.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề ấn định tỷ lệ lỗi: cần đánh giá toàn diện cả dấu hiệu lỗi chủ quan và tình tiết khách quan của vụ án (27)
  • CHƯƠNG 2. BÊN BỊ THIỆT HẠI HOÀN TOÀN CÓ LỖI (31)
    • 2.1. Căn cứ xác định bên bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi trong việc gây thiệt hại (31)
      • 2.1.1. Nhầm lẫn trong việc đánh giá hành vi có lỗi của bên bị thiệt hại (31)
      • 2.1.2. Đánh giá chưa toàn diện về hành vi trái luật, lỗi của bên gây thiệt hại (35)
    • 2.2. Miễn trách nhiệm khi bên bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi (42)
      • 2.2.1. Quy định miễn trừ trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi bên bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi cố ý còn được hiểu, áp dụng chưa thống nhất (42)
      • 2.2.2. Người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có lỗi trong việc ngăn chặn, hạn chế thiệt hại (46)

Nội dung

BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI MỘT PHẦN

Căn cứ xác định lỗi một phần của bên bị thiệt hại

Để đánh giá mức độ lỗi của bên bị thiệt hại, cần xác định căn cứ cụ thể cho mức độ lỗi này Việc giải quyết vấn đề liên quan đến việc tìm hiểu các quy định pháp luật về xác định lỗi một phần của bên bị thiệt hại, đồng thời xem xét các căn cứ thực tiễn để hiểu rõ quan điểm xét xử của các thẩm phán về vấn đề này.

1 Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân,

Trước khi Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 ra đời, lỗi là điều kiện cần thiết để phát sinh trách nhiệm bồi thường, trừ khi có quy định pháp luật khác Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, lỗi không còn là yếu tố bắt buộc để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ những trường hợp mà BLDS và các luật liên quan quy định khác.

Thông tư 173-TANDTC ngày 23/3/1972 của TAND tối cao đã hướng dẫn về việc xét xử bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, được gọi là “trách nhiệm hỗn hợp” Theo Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), thông tư này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường.

1.1.1 Chưa áp dụng đúng căn cứ theo quy định của pháp luật: Bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại

Theo lý luận và quy định chung, trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng phát sinh khi có ba yếu tố chính: thiệt hại thực tế, hành vi gây thiệt hại trái pháp luật, và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi đó với thiệt hại thực tế.

Theo quy định của năm 2015 và các luật liên quan, yếu tố lỗi không còn là điều kiện bắt buộc để xác định trách nhiệm, trừ một số trường hợp cụ thể như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý gây ra hoặc trách nhiệm liên đới của người thi công đối với chủ sở hữu nhà ở và công trình xây dựng khác khi có lỗi gây thiệt hại.

Mặc dù vai trò của lỗi trong việc xác định trách nhiệm bồi thường không bị suy giảm, nhưng theo BLDS năm 2015, lỗi vẫn là căn cứ quan trọng để xác định mức độ bồi thường, chia sẻ trách nhiệm và giảm trách nhiệm bồi thường Đặc biệt, quy định về trách nhiệm bồi thường khi bên bị thiệt hại có lỗi cho thấy sự cần thiết của việc xem xét lỗi trong nhiều trường hợp.

Theo khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015, bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại sẽ không được bồi thường cho phần thiệt hại do lỗi của mình Luật quy định rõ ràng rằng bên bị thiệt hại phải có lỗi trong việc gây ra thiệt hại Điều này có ý nghĩa pháp lý quan trọng, giới hạn phạm vi tác động của yếu tố lỗi của bên bị thiệt hại trong những điều kiện nhất định Để xác định mức giảm bồi thường cho bên bị thiệt hại, cần xem xét hai yếu tố: (i) Cả bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại đều có hành vi gây ra thiệt hại và (ii) Bên bị thiệt hại có phần lỗi trong việc gây ra thiệt hại này Trong trường hợp này, thiệt hại được xem là do nhiều người cùng gây ra, trong đó bên bị thiệt hại cũng là một trong những người tham gia vào việc gây thiệt hại cho chính mình.

Có hai nguyên nhân chính dẫn đến thiệt hại: thứ nhất, bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại cùng tham gia vào quá trình gây ra thiệt hại; thứ hai, nếu một bên không tham gia, thiệt hại sẽ không xảy ra.

Gọi đây là việc gây thiệt hại, đề cập đến những trường hợp mà chủ thể không thực hiện hành vi gây thiệt hại, hoặc hành vi này có thể tồn tại dưới dạng không hành động, hoặc do yêu cầu của nghĩa vụ bảo đảm an toàn và trách nhiệm nghiêm ngặt Ví dụ về việc gây thiệt hại bao gồm nguồn nguy hiểm cao độ, hàng hóa khuyết tật, cây cối, nhà ở và súc vật.

Theo Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2015, thiệt hại có thể xảy ra do lỗi của cả hai bên Ví dụ, nếu A say rượu và ngã ra đường, trong khi B điều khiển xe với tốc độ cao và không có đèn chiếu sáng, dẫn đến tai nạn nghiêm trọng cho A, thì cả hai đều có phần trách nhiệm Nếu A không say rượu hoặc B tuân thủ tốc độ quy định, thiệt hại có thể đã được ngăn chặn Điều 617 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy định rằng, khi bên bị thiệt hại có lỗi, người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần tương ứng với mức độ lỗi của mình Tuy nhiên, nếu bên bị thiệt hại không có lỗi hoặc lỗi của họ không liên quan đến thiệt hại, thì không có cơ sở để miễn hoặc giảm trách nhiệm bồi thường.

Luật dân sự năm 2015 đã tiến bộ trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng cách loại bỏ yếu tố lỗi trừ khi có quy định khác Điều này cho thấy rằng thiệt hại có thể xảy ra ngay cả khi không có lỗi từ một bên Mặc dù khi giải quyết bồi thường thiệt hại, vấn đề lỗi của cả hai bên có thể được xem xét, nhưng BLDS năm 2015 không tự động xác định cả hai bên đều có lỗi Thay vào đó, chỉ cần thiệt hại do cả hai bên gây ra, và nếu bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại, thì sẽ có cơ sở để xác định trách nhiệm "hỗn hợp" của các bên đối với thiệt hại xảy ra.

Hiểu rõ quy định về giảm và miễn trách nhiệm bồi thường do lỗi của bên bị thiệt hại là rất quan trọng Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy có nhiều cách hiểu chưa đồng nhất về vấn đề này, dẫn đến việc áp dụng pháp luật cũng không thống nhất Để đưa ra các giải pháp hợp lý, phần tiếp theo sẽ phân tích thực tiễn áp dụng liên quan đến nội dung này.

Một vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng đã xảy ra khi một người điều khiển xe máy không bật đèn đã chẹt chết một người vừa mới gặp tai nạn Sự việc này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng đèn chiếu sáng trên xe máy, đặc biệt là vào ban đêm, để đảm bảo an toàn cho cả người lái và người đi đường Việc thiếu sáng không chỉ làm tăng nguy cơ xảy ra tai nạn mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho tính mạng con người.

1.1.2 Nhầm lẫn về nguyên nhân với điều kiện, nguyên cớ trong thực tiễn xét xử

Để xem xét trách nhiệm “hỗn hợp”, cần xác định việc bên bị thiệt hại có lỗi Lỗi là một yếu tố quan trọng trong trách nhiệm pháp lý, tuy nhiên, việc xác định và đánh giá lỗi trong lý luận và thực tiễn gặp nhiều khó khăn.

Trong khoa học pháp lý, yếu tố lỗi được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau, phản ánh trạng thái tâm lý phức tạp của con người và ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi của họ trong những hoàn cảnh cụ thể Một số nhà nghiên cứu cho rằng lỗi là khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, trong khi các nhà bình luận lại xem lỗi như thái độ tâm lý liên quan đến hành vi gây thiệt hại Yếu tố lý trí thể hiện qua khả năng nhận thức thực tại khách quan, còn yếu tố ý chí liên quan đến khả năng điều khiển hành vi Do đó, người gây thiệt hại được coi là có lỗi nếu họ nhận thức được hoặc có đủ điều kiện để nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhằm tránh gây thiệt hại Như vậy, nhận thức về lỗi chủ yếu xuất phát từ tâm lý, nhận thức và thái độ của chủ thể.

Căn cứ ấn định tỷ lệ lỗi của các bên chủ thể

Để xác định tỷ lệ lỗi của các bên trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 và Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP quy định dựa trên mức độ lỗi của mỗi bên So với BLDS năm 2005, quy định này trong BLDS năm 2015 không có sự thay đổi lớn, chỉ có điều chỉnh nhỏ là bồi thường thiệt hại không còn được coi là một trường hợp cụ thể mà trở thành nguyên tắc chung trong chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Cả BLDS năm 2005, Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP và BLDS năm 2015 đều không quy định rõ ràng thế nào là lỗi.

Việc xác định "mức độ lỗi" của bên bị thiệt hại là rất khó khăn, vì nó ảnh hưởng đến tỷ lệ lỗi và mức bồi thường thiệt hại Hiện nay, có nhiều quan điểm chưa thống nhất về việc xác định mức độ lỗi, và chưa có quy định cụ thể nào Để đánh giá "mức độ lỗi" của mỗi bên, có thể xem xét hai căn cứ chính.

1.2.1 Dựa vào mặt chủ quan của các bên chủ thể trong việc gây thiệt hại

Trong lý luận pháp lý, việc xác định "mức độ lỗi của mỗi bên" vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất Một số ý kiến cho rằng pháp luật cần dựa vào "mức độ lỗi" của các bên, đặc biệt là bên bị thiệt hại, để xác định mức bồi thường Tuy nhiên, quan điểm này chưa thuyết phục do thiếu lập luận hợp lý và quá chú trọng vào yếu tố chủ quan của bên bị thiệt hại Ngược lại, có ý kiến cho rằng khi xem xét "mức độ lỗi", cần cân nhắc cả lỗi của bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại, với mức bồi thường phụ thuộc vào mức độ lỗi của từng bên Tuy nhiên, quan điểm này cũng không hoàn toàn thuyết phục, vì không phải trường hợp nào gây thiệt hại cũng có lỗi từ bên gây thiệt hại, như trong trường hợp thiệt hại do sản phẩm khuyết tật hoặc nguồn nguy hiểm cao độ.

16 Điều 617 BLDS năm 2005; điểm b, tiểu mục 2.2, mục I Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006

17 Khoản 2 Điều 584; khoản 2, 4 và 5 Điều 585 BLDS năm 2015

Lâm Thị Mỹ Lộc (2008) đã nghiên cứu về các yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, với nội dung được trình bày ở trang 27-28 Nghiên cứu này đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về các yếu tố pháp lý liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Trong bài viết "Về bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi" đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 04 tháng 02/2006, các tác giả phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan đến việc bồi thường thiệt hại khi người bị thiệt hại cũng có một phần lỗi Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định mức độ lỗi của các bên liên quan để đảm bảo công bằng trong việc bồi thường Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến các quy định pháp luật hiện hành và cách áp dụng chúng trong thực tiễn để giải quyết các tranh chấp liên quan đến thiệt hại.

Pháp luật Việt Nam hiện chưa quy định rõ về mức độ lỗi, và việc xác định mức độ lỗi trong các trường hợp cụ thể cần dựa trên lý luận pháp luật hình sự, phân biệt giữa lỗi vô ý do cẩu thả và lỗi vô ý do quá tự tin Mức độ bồi thường thiệt hại sẽ khác nhau tùy thuộc vào loại lỗi Ngoài ra, mối liên hệ giữa lỗi vô ý của bên gây thiệt hại và lỗi cố ý của bên bị thiệt hại cũng ảnh hưởng đến trách nhiệm bồi thường Cụ thể, nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, bên gây thiệt hại không phải bồi thường Trong trường hợp cả hai bên đều có lỗi vô ý, trách nhiệm sẽ là trách nhiệm hỗn hợp Nếu bên gây thiệt hại có lỗi vô ý còn bên bị thiệt hại có lỗi cố ý, bên gây thiệt hại cũng không phải bồi thường.

Việc xác định "mức độ lỗi" trong pháp lý gặp khó khăn do thiếu tiêu chí cụ thể Theo Thông tư 173/UBTP ngày 23/3/1972 của Ủy ban thẩm phán - TAND tối cao, trách nhiệm bồi thường do "lỗi hỗn hợp" được quy định như sau: nếu cả hai bên đều có lỗi, trong đó lỗi của bên bị thiệt hại là vô ý nặng, tòa án sẽ xác định trách nhiệm hỗn hợp và bên gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần tương ứng với lỗi của mình Ngược lại, nếu lỗi của bên bị thiệt hại là vô ý nhẹ, bên gây thiệt hại sẽ phải chịu trách nhiệm toàn bộ cho thiệt hại xảy ra.

Theo các Bộ luật Dân sự trước đây và Bộ luật Dân sự năm 2015 của Việt Nam, không có quy định cụ thể về “mức độ lỗi”, điều này cũng không được đề cập trong các văn bản hướng dẫn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Sự thiếu hụt cơ sở pháp lý này gây khó khăn trong việc xác định mức độ lỗi của các bên khi ấn định trách nhiệm bồi thường Do đó, trong thực tiễn xét xử, việc xác định mức độ lỗi để làm căn cứ cho việc bồi thường hoàn toàn phụ thuộc vào sự thẩm lượng của thẩm phán và cơ quan xét xử, dẫn đến những đánh giá không nhất quán về mức độ lỗi.

Phùng Trung Tập (2005) trong bài viết “Cần hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong dự thảo Bộ luật Dân sự” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 04, trang 29, nhấn mạnh sự cần thiết phải cải tiến quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhằm nâng cao hiệu quả và tính công bằng trong hệ thống pháp luật hiện hành.

21 Phùng Trung Tập (2004),“Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tr 4

Theo Phùng Trung Tập (2004), trong thực tiễn, việc giải quyết các lỗi gặp phải nhiều khó khăn, dẫn đến việc các cấp Tòa án đưa ra nhiều phán quyết không nhất quán, thậm chí trái ngược nhau hoàn toàn.

Trong thực tế, việc đánh giá mức độ lỗi của các bên thường gặp khó khăn do phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của từng cá nhân, dẫn đến nhận thức cảm tính và không chính xác.

Trong tình huống mâu thuẫn giữa Ngân và Trung, Ngân đã dùng chai nước ngọt bằng thủy tinh để tấn công Trung sau khi đập vỡ phần thân chai Khi thấy Ngân cầm cổ chai vỡ đuổi theo, Trung hoảng sợ và đã bỏ chạy để tránh bị tấn công.

Trung khởi kiện Ngân yêu cầu bồi thường thiệt hại sức khỏe sau khi bị vấp té gãy chân, dẫn đến tỷ lệ thương tật 27% Tòa án xác định cả hai bên đều có lỗi vô ý, với Ngân chịu 70% trách nhiệm và Trung 30% Tuy nhiên, tòa không đưa ra lý do cụ thể cho kết luận này.

Tòa án đã kết luận không chính xác khi đánh giá hành vi của các bên Trong tình huống này, Ngân đã sử dụng vật nguy hiểm để đe dọa và rượt đuổi Trung, khiến Trung hoảng sợ và phải bỏ chạy Hành động bỏ chạy của Trung không phải là trái pháp luật và cũng không phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại cho bản thân Ngược lại, hành vi của Ngân thể hiện sự cố ý khi sử dụng hung khí để tấn công, dẫn đến việc Trung bị thương do hoảng sợ và vấp ngã Do đó, Tòa án cần xem xét rằng nạn nhân không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại.

Trong tình huống 06, La cùng em ruột là Tha mang dao đến nhà Long, Siêng và Xêu để gây hấn do mâu thuẫn trước đó La đã chém Long hai nhát vào đầu, khiến Long ngã xuống đất nhưng kịp đánh trả La một cái Đồng thời, Xêu dùng cây tuýp sắt đánh La, làm La bị thương và sau đó La tấn công lại Xêu Trong lúc Long và La vật lộn, Siêng cũng tham gia đánh La và đã cắn đứt một ngón tay của La Tòa án xác định rằng các bên đều có lỗi, với La chiếm 60% lỗi, Long và Siêng 40%, và Xêu 100%, nhưng không đưa ra lý do rõ ràng cho tỷ lệ lỗi này.

BÊN BỊ THIỆT HẠI HOÀN TOÀN CÓ LỖI

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:18

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w