NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN
Lý luận về đại diện
1.1.1 Nguồn gốc của quan hệ đại diện
Hoạt động của con người gắn liền với các mối quan hệ xã hội, trong đó giao tiếp và tương tác là cần thiết để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần Khi thực hiện các giao dịch dân sự, nhu cầu của con người thường được thỏa mãn thông qua hành động của chính họ Tuy nhiên, do thời gian và năng lực có hạn, mỗi cá nhân không thể thành thạo mọi lĩnh vực trong xã hội, dẫn đến việc cần sự hỗ trợ từ người khác Do đó, quan hệ đại diện được hình thành khi một người không thể hoặc không muốn tham gia giao dịch một mình và cần đến sự trợ giúp từ các chủ thể khác.
Trước Công nguyên, Luật La Mã không thừa nhận khái niệm đại diện do tính chất trọng hình thức của hợp đồng Tuy nhiên, vào thế kỷ XVIII, khi thương mại phát triển và xuất hiện việc giao quản lý tàu thuyền cũng như hoạt động sản xuất cho người khác, quan hệ đại diện bắt đầu được công nhận Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội đã thúc đẩy quan hệ đại diện ngày càng gia tăng Đến giữa thế kỷ XIX, các nhà làm luật nhận thấy rằng công ty không thể tự hành động mà cần có người đại diện để thực hiện các giao dịch.
BLDS Pháp, được ban hành vào năm 1804, đã quy định rằng đại diện là một hợp đồng cho phép một người trao quyền cho người khác thực hiện công việc nhân danh và vì lợi ích của mình.
Lê Việt Phương (2013) đã nghiên cứu về vai trò của người đại diện theo pháp luật trong công ty theo quy định của pháp luật Việt Nam trong luận văn thạc sĩ Luật học tại Trường Đại học Luật TP.HCM.
Ngô Huy Cương (2009) trong bài viết “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – Nhìn từ góc độ luật so sánh” đã phân tích việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự của người đại diện (NĐD) “nhân danh” và “vì lợi ích” của người được đại diện Định nghĩa này tương đồng với quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam Vào thế kỷ XX, nhiều nghiên cứu về đại diện đã được thực hiện từ góc độ luật, kinh tế và quản trị, trong đó Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan năm 1925 định nghĩa đại diện là một hợp đồng cho phép NĐD hành động cho người được đại diện, nhấn mạnh bản chất hợp đồng trong mối quan hệ này Định nghĩa về đại diện trong pháp luật Việt Nam, tương tự như Bộ luật dân sự Pháp, quy định rằng đại diện là việc cá nhân hoặc pháp nhân nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác để xác lập và thực hiện giao dịch dân sự Điều này có nghĩa là nếu NĐD thực hiện giao dịch trong phạm vi ủy quyền nhưng không hành động bằng tên của người được đại diện thì không phát sinh hậu quả pháp lý cho người đó.
Việc thừa nhận quan hệ đại diện ở cấp độ vi mô tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong việc giao kết và thực hiện giao dịch dân sự, trong khi ở cấp độ vĩ mô, nó thúc đẩy phân công lao động xã hội và phát triển các quan hệ xã hội Nếu không có luật đại diện, mọi người sẽ phải tự mình thực hiện mọi hành động, không thể sử dụng đại diện, người bán hàng hay người đưa tin, dẫn đến việc các công ty không thể thực hiện chức năng của mình và buộc phải ngừng hoạt động.
Theo học thuyết về đại diện, quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty được gọi là quan hệ đại diện hay quan hệ ủy thác Đây là một mối quan hệ hợp đồng, trong đó cổ đông bổ nhiệm người khác để quản lý công ty và trao quyền ra quyết định cho họ.
3 Điều 1984 BLDS Pháp, https://www.legifrance.gouv.fr/content/download/1950/13681/version/3/ /Code_22.pdf, truy cập ngày
4 Ngô Huy Cương, tlđd (3), Tr.29
Theo Robert W Emerson và John W Hardwick trong cuốn "Business Law", việc định đoạt tài sản của công ty là rất quan trọng Khi xuất hiện vấn đề tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, cơ chế quản trị công ty được áp dụng để giải quyết các vấn đề đại diện Do đó, mối quan hệ giữa chủ sở hữu và đội ngũ quản lý công ty cũng phát sinh từ mối quan hệ đại diện này.
Quan hệ đại diện đã tồn tại từ lâu và được công nhận rộng rãi trong xã hội cũng như trong pháp luật Chế định đại diện cho phép những người không đủ năng lực hành vi dân sự tham gia vào các giao dịch thông qua người đại diện, hoặc cho phép một cá nhân sử dụng kiến thức và kinh nghiệm của người khác để thực hiện giao dịch Hiểu rõ nguồn gốc của quan hệ đại diện sẽ giúp nắm bắt các quy định pháp luật liên quan, từ đó áp dụng hiệu quả trong thực tiễn.
1.1.2 Quan hệ pháp luật đại diện
Quan hệ đại diện trong pháp luật được hình thành dựa trên châm ngôn La-tinh “Qui facit per alium, facit per se”, có nghĩa là hành động của một người qua chủ thể khác được coi là hành động của chính người đó Quan hệ này là một dạng quan hệ pháp luật, và sự kiện pháp lý có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ đại diện Các sự kiện này có thể là sự biến, tức là những hiện tượng khách quan không phụ thuộc vào ý chí con người như mất năng lực hành vi dân sự, hoặc hành vi, tức là những hành động chủ quan phụ thuộc vào ý chí con người như ký hợp đồng đại diện thông qua thỏa thuận giữa các bên.
Khi nghiên cứu một quan hệ pháp luật, việc phân tích các thành phần cấu thành là rất quan trọng Quan hệ pháp luật bao gồm ba yếu tố chính: chủ thể, khách thể và nội dung, mỗi yếu tố này đều đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và hiểu rõ quan hệ pháp luật.
1.1.2.1 Chủ thể của quan hệ đại diện
Trong quan hệ pháp luật đại diện, có hai chủ thể chính: Người đại diện và Người được đại diện Người được đại diện là cá nhân hoặc tổ chức có quyền lợi và nghĩa vụ đối với bên thứ ba, đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch pháp lý.
7 Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và pháp lý, Số 4 (41)/2007, Tr 22
8 Hà Thị Thanh Bình (2005), “Sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành trong công ty”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, Số 10 (330)/2015, Tr.46
9 Hồ Ngọc Hiển (2007), “Nghĩa vụ của người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh doanh của Hoa
Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 03/2007, Tr.57
Người đại diện, hay còn gọi là người thứ ba, thực hiện hành động không trực tiếp mà thông qua người đại diện khác Họ là những người thiết lập mối quan hệ với bên thứ ba, hành động nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện.
Người được đại diện có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc tổ chức không có tư cách pháp nhân như hộ gia đình, tổ hợp tác Cá nhân được đại diện có thể là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hoặc chưa đầy đủ, và pháp nhân là tổ chức có năng lực pháp luật dân sự, tham gia quan hệ pháp luật độc lập Pháp nhân được đại diện sẽ chịu trách nhiệm về các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện xác lập Đối với hộ gia đình và tổ hợp tác, các thành viên có thể ủy quyền cho người đại diện tham gia giao dịch dân sự, và việc ủy quyền này phải được lập thành văn bản Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình hoặc tổ hợp tác thực hiện sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ cho tất cả các thành viên.
Khác với Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005, BLDS năm 2015 quy định rằng người đại diện (NĐD) có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, trừ những trường hợp mà pháp luật doanh nghiệp yêu cầu NĐD phải là cá nhân Tư cách NĐD có thể hình thành từ việc ủy quyền, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc theo quy định của điều lệ pháp nhân NĐD cần có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch, và trong một số trường hợp, cần đáp ứng thêm các điều kiện khác Theo Luật Doanh nghiệp (LDN) năm 2014, NĐD theo pháp luật doanh nghiệp phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc đối tượng bị cấm thành lập, quản lý doanh nghiệp, nhằm đảm bảo việc đại diện diễn ra hiệu quả và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên thứ ba.
1.1.2.2 Khách thể của quan hệ đại diện
Khái quát về người đại diện theo pháp luật của công ty
Theo Khoản 7 Điều 4 của Luật Doanh Nghiệp năm 2014, doanh nghiệp được định nghĩa là tổ chức có tên riêng, tài sản và trụ sở giao dịch, được thành lập theo quy định pháp luật với mục đích kinh doanh Doanh nghiệp có thể có tư cách pháp nhân như Công ty Cổ phần (CTCP), Công ty Trách nhiệm Hữu hạn (CTTNHH), và Công ty Hợp danh (CTHD), hoặc không có tư cách pháp nhân như Doanh nghiệp Tư nhân (DNTN) Bài viết này tập trung nghiên cứu chế định Nghị định Doanh nghiệp đối với CTCP, CTTNHH và CTHD, được gọi chung là Công ty.
Công ty, với tư cách là một thực thể pháp lý độc lập, không thể tự hành động mà phải thông qua những người quản lý cụ thể Do đó, công ty luôn cần có người đại diện (NĐD) trong các giao dịch để xác lập và thực hiện quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mình.
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của công ty 1.2.1.1 Khái niệm người đại diện theo pháp luật của Công ty
Theo từ điển pháp luật, đại diện theo pháp luật được hiểu là “đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định.” Thuật ngữ “Người đại diện theo pháp luật” (Legal Representative) có những định nghĩa khác nhau trong các hệ thống pháp luật toàn cầu Cụ thể, Luật Công ty năm 2006 của Anh định nghĩa người đại diện theo pháp luật của công ty là “một cá nhân được ủy quyền bởi công ty có quyền thực hiện các quyền hạn tương tự như công ty có thể thực hiện.”
Pháp luật Anh xác định quyền hạn của người đại diện theo pháp luật (NĐD) dựa trên mối quan hệ ủy quyền từ công ty Luật Công ty Úc quy định rằng "đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân do doanh nghiệp chỉ định để thực hiện tất cả hoặc bất kỳ quyền hạn nào mà doanh nghiệp có thể thực hiện" Theo Điều 198A Luật Công ty năm 2001 của Úc, "director" đại diện cho công ty thực hiện quyền hạn, trừ những quyền hạn mà luật hoặc điều lệ yêu cầu phải thực hiện tại cuộc họp chung Điều này cho thấy NĐD trong hoạt động kinh doanh và mối quan hệ với cơ quan hành chính ở Úc chính là các "directors" Do đó, trong ngữ cảnh pháp lý Úc, thuật ngữ "director" không chỉ đơn thuần là chức danh Giám đốc/Tổng giám đốc, mà được hiểu như một chức năng, không liên quan đến vị trí cụ thể.
25 Bùi Xuân Hải (2007), tlđd (7), Tr.21
26 Nguyễn Ngọc Điệp (1999), 1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam, NXB Tp.HCM, Tr.13
27 Khoản 2 Điều 323 Luật Công ty năm 2006 của Anh, http://www.legislation.gov.uk/ukpga/2006/46/section/323, truy cập ngày 19/09/2018
Theo Điều 250D của Luật Công ty Úc năm 2001, các cá nhân có thể giữ các chức vụ như Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Thư ký Hội đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc Luật Công ty Nhật Bản quy định rằng người quản lý có quyền thực hiện mọi hành vi pháp lý và phi pháp lý nhân danh công ty trong hoạt động kinh doanh Nhìn chung, pháp luật các quốc gia đều quy định rằng người đại diện theo pháp luật của công ty là người được doanh nghiệp chỉ định để thực hiện các quyền hạn và nghĩa vụ nhân danh công ty.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch của doanh nghiệp, đồng thời đại diện cho doanh nghiệp trong các vụ án tại Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định Luật Doanh nghiệp (LDN) năm 2014 đã thể hiện sự tiến bộ so với các quy định trước đó.
Luật Doanh Nghiệp 2005 không đưa ra khái niệm NĐD (Người đại diện theo pháp luật) một cách cụ thể, mà chỉ quy định chức danh này theo từng loại hình doanh nghiệp NĐD cũng không được quy định trong một điều khoản riêng biệt mà phân tán trong các điều khoản liên quan đến cơ cấu tổ chức và quản lý của từng loại hình doanh nghiệp như Công ty TNHH và Công ty Cổ phần.
Theo Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể là: i) Người được chỉ định theo Điều lệ; ii) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; hoặc iii) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng Chức năng chính của họ là thực hiện giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của pháp nhân Quy định này đã khắc phục nhược điểm của BLDS năm 2005, trong đó Khoản 4 Điều 141 quy định người đại diện phải là người đứng đầu pháp nhân, một khái niệm không rõ ràng và khó xác định.
NĐD theo pháp luật của công ty, hay còn gọi là đại diện đương nhiên, là người được pháp luật công nhận quyền đại diện cho công ty trong các hoạt động kinh doanh và pháp lý.
29 Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2013), Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp 2005 (tái bản lần 1), NXB Tri Thức, Tr.275-276
30 Khoản 1 Điều 11 Luật Công ty năm 2005 của Nhật Bản, http://www.japaneselawtranslation.go.jp/law/detail/?id 35&vm&re, truy cập ngày 12/09/2018
Theo Ngô Gia Hoàng và Nguyễn Thị Thương (2016), quyền đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 bị giới hạn bởi các quy định cụ thể Cụ thể, đối với người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần (CTCP), họ không có quyền tự động quyết định đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản ghi trong báo cáo tài chính gần nhất, trừ khi Điều lệ công ty quy định khác Quyền này thuộc về Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) của công ty.
Luật Dân sự năm 2014 đã xác nhận vai trò đại diện trong tố tụng của người đại diện theo pháp luật Điều này được quy định rõ tại Điều 85 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, trong đó nêu rõ rằng người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự bao gồm cả người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền Cụ thể, người đại diện theo pháp luật được xác định theo quy định của Bộ luật Dân sự, trừ khi có hạn chế về quyền đại diện theo quy định của pháp luật.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 chỉ đề cập đến chức năng đại diện thực hiện giao dịch nhân danh doanh nghiệp mà chưa nhấn mạnh việc "xác lập" giao dịch, một nội dung quan trọng trong chế định NĐD theo pháp luật doanh nghiệp Mặc dù Khoản 1 Điều 13 quy định rằng NĐD có thể thực hiện "các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật", việc không nêu rõ quyền hạn này trong văn bản luật chuyên ngành vẫn là một hạn chế đáng lưu ý.
1.2.1.2 Đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của công ty
Tiếp cận chế định NĐD theo pháp luật từ định nghĩa quy định tại Điều 13 LDN năm 2014, có thể nhận thấy một số đặc điểm cơ bản sau:
Theo quy định của pháp luật công ty, NĐD (người đại diện theo pháp luật) phải là cá nhân cụ thể, như được nêu trong Khoản 1 Điều 13 LDN năm 2014 Công ty, với tư cách là một thực thể pháp lý độc lập, cần tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập Tuy nhiên, để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, công ty không thể hành động một cách trực tiếp mà phải thông qua NĐD, người đại diện cho công ty trong các giao dịch và quan hệ pháp luật.
Cá nhân là người đại diện theo pháp luật của công ty cần phải có năng lực hành vi dân sự Mặc dù điều kiện này không được nêu rõ trong Luật Doanh Nghiệp năm 2014, nhưng qua phân tích, có thể thấy rằng năng lực hành vi dân sự là yếu tố quan trọng để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả trong hoạt động của công ty.
35 Vũ Thị Lan Anh (2016), “Quy định mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp”, Tạp chí Luật học, Chuyên đề 04/2016, Tr.4
Theo Bùi Đức Giang (2015), trong bài viết "Hành lang pháp lý mới về người đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp 2014", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, quy định về người đại diện theo pháp luật (NĐD) trong Luật Doanh nghiệp 2014 đã chỉ ra rằng đây là một trong những điều kiện bắt buộc đối với NĐD Cụ thể, Khoản 5 Điều 13 LDN 2014 nêu rõ rằng nếu doanh nghiệp chỉ có một NĐD và người này bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên (HĐTV) hoặc Hội đồng quản trị (HĐQT) có quyền cử người khác đảm nhận vai trò NĐD theo pháp luật của công ty.
Khái quát về vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba
1.3.1 Khái niệm “bên thứ ba” trong quan hệ đại diện theo pháp luật của công ty
Thuật ngữ “Người thứ ba” hay “Bên thứ ba” được đề cập nhiều trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 và 2005, nhưng vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng Trong BLDS năm 2015, thuật ngữ này xuất hiện trong nhiều quy định quan trọng như bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự vô hiệu (Điều 133), giao dịch do người đại diện xác lập với người thứ ba (Khoản 1 Điều 139), thực hiện nghĩa vụ qua người thứ ba (Điều 283), hiệu lực đối kháng với người thứ ba (Điều 297), cũng như các quy định về biện pháp bảo đảm và hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba (Khoản 5 Điều 402, Điều 415, Điều 416) Việc thiếu định nghĩa rõ ràng về người thứ ba trong các quy định này gây khó khăn trong việc áp dụng và thực thi pháp luật.
"Người thứ ba" hay "bên thứ ba" trong quan hệ pháp luật đặt ra nhiều vấn đề về quyền và nghĩa vụ của họ, bao gồm việc xác định ý chí của họ khi tham gia vào mối quan hệ này, cũng như việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Theo định nghĩa trong từ điển “The Law Dictionary”, “Bên thứ ba” (Third Party) được hiểu là một người không tham gia vào hợp đồng nhưng có thể bị ảnh hưởng bởi kết quả của hợp đồng đó.
Theo từ điển Luật học, "người thứ ba" là cá nhân không phải là một bên trong quan hệ pháp lý nhưng có liên quan đến quan hệ đó Người thứ ba không thể hiện ý chí tham gia vào việc thành lập giao dịch và không phải là bên trong quan hệ dân sự Tuy nhiên, trong một số giao dịch có sự tham gia của ba bên, một trong số đó có thể không được coi là người thứ ba nếu họ đã thể hiện ý chí tham gia và trở thành một bên trong quan hệ, như trong các quan hệ thế nghĩa vụ.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Quỳnh Yến và Ngô Quốc Chiến về khái niệm “người thứ ba” trong pháp luật dân sự chia thành ba loại Loại thứ nhất bao gồm những người không trực tiếp tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự nhưng có ảnh hưởng đến quá trình hình thành quan hệ, như người thứ ba trong giao dịch có điều kiện hoặc người thực hiện hành vi lừa dối Loại thứ hai là những người không có mối quan hệ nào với quan hệ pháp luật dân sự nhưng bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện quan hệ đó, bao gồm những người có quyền bị người có nghĩa vụ trốn tránh thực hiện nghĩa vụ (Điều 124 BLDS 2015) và người thứ ba trong giao dịch do NĐD xác lập (Khoản 1 Điều 139).
Theo Bộ luật Dân sự 2015, có ba loại chủ thể trong các giao dịch bảo đảm Thứ nhất là các bên ký kết hợp đồng, thứ hai là người thứ ba tham gia vào giao dịch bảo đảm (các điều 292 và các điều tiếp theo) Loại thứ ba là những người không ký kết hợp đồng nhưng vẫn được hưởng lợi từ hợp đồng, được quy định tại các điều 415 đến 417.
Xét trong quan hệ đại diện theo pháp luật của công ty, các bên tham gia quan hệ đại diện bao gồm:
Bên thứ nhất, hay còn gọi là bên được đại diện, là công ty có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật một cách độc lập và chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình Công ty này tham gia vào các quan hệ pháp luật thông qua hành vi của người đại diện và là chủ thể tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ các quan hệ do người đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện.
42 The Law Dictionary, https://thelawdictionary.org/third-party-2/ Truy cập ngày 22/12/2018
43 Viện Khoa học Pháp lý (1999), Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách khoa, Tr.345
44 Ngô Quốc Chiến (2013), “Bộ luật dân sự cần bổ sung quy định về chuyển giao hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 2-3Tháng 2/2013, Tr 69-77
45 Ngô Quốc Chiến và Nguyễn Thị Quỳnh Yến (2016), “Người thứ ba trong Bộ luật dân sự 2015”, Tạp chí
Kinh tế đối ngoại, số 86/2016, http://tapchi.ftu.edu.vn/index.php/tcktdn/article/view/67, Truy cập ngày
Bên đại diện là những người đại diện hợp pháp của công ty, thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp Họ đại diện cho doanh nghiệp trong các vụ kiện tại Trọng tài, Tòa án, và đảm nhận các quyền lợi, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Trong quan hệ đại diện, "Bên thứ ba" là những chủ thể không phải là Bên đại diện hoặc Bên được đại diện, nhưng có quyền và lợi ích liên quan bị ảnh hưởng khi Bên đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ Theo phân loại của Nguyễn Thị Quỳnh Yến và Ngô Quốc Chiến, Bên thứ ba thuộc loại không có mối quan hệ với quan hệ pháp luật dân sự nhưng lại bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện quan hệ đó Một vấn đề quan trọng là làm thế nào để Bên thứ ba nhận biết NĐD theo pháp luật nào có thẩm quyền tham gia giao dịch theo quy định của Điều lệ công ty, vì Điều lệ công ty là cơ sở xác định thẩm quyền của từng NĐD Cần có cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bên thứ ba, đồng thời xác định trách nhiệm pháp lý của chủ thể khi quyền lợi của họ bị xâm phạm.
Trong quan hệ đại diện theo pháp luật của công ty, "bên thứ ba" bao gồm cổ đông, chủ sở hữu, khách hàng, đối tác, chủ nợ và người lao động, những đối tượng này dễ bị xâm hại quyền lợi khi người đại diện tham gia quan hệ pháp luật Khi công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật, xung đột thẩm quyền có thể xảy ra, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bên thứ ba Nếu bên thứ ba giao dịch với người đại diện không có thẩm quyền theo Điều lệ công ty, giao dịch đó có nguy cơ bị vô hiệu Hơn nữa, sự phủ định quyết định giữa các người đại diện cũng có thể tác động tiêu cực đến hoạt động của công ty và quyền lợi của bên thứ ba.
Bên thứ ba là các chủ thể không tham gia trực tiếp vào quan hệ đại diện theo pháp luật của công ty, nhưng họ có quyền và lợi ích liên quan khi người đại diện theo pháp luật thực hiện các quyền và nghĩa vụ thay mặt công ty.
1.3.2 Căn cứ xác định “bên thứ ba” trong quan hệ đại diện theo pháp luật của công ty
Bên thứ ba không thuộc quan hệ đại diện theo pháp luật của công ty, nhưng việc xác định ai là “bên thứ ba” rất quan trọng để làm rõ mối liên hệ giữa họ và các bên trong quan hệ đại diện Điều này giúp xác định quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia giao dịch, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba khi người đại diện thực hiện thẩm quyền của mình Các tiêu chí để xác định “bên thứ ba” trong quan hệ đại diện theo pháp luật của công ty bao gồm nhiều yếu tố khác nhau.
Trước khi bên thứ ba tham gia vào giao dịch dân sự, quan hệ đại diện giữa công ty và người đại diện theo pháp luật đã được thiết lập Bên thứ ba không tham gia vào quá trình hình thành quan hệ này, dẫn đến việc họ có thể không nắm rõ nội dung và thẩm quyền của người đại diện Trong trường hợp công ty có một người đại diện theo pháp luật, việc xác định thẩm quyền tham gia giao dịch tương đối đơn giản Tuy nhiên, đối với công ty TNHH và CTCP có nhiều người đại diện, Điều lệ công ty sẽ quy định cụ thể số lượng và chức danh của họ, trở thành căn cứ pháp lý để xác định thẩm quyền của từng người đại diện Vấn đề phát sinh là không phải bên thứ ba nào cũng có thể tiếp cận Điều lệ, đặc biệt khi công ty không hợp tác cung cấp bản sao cho họ.
Khi bên thứ ba tham gia giao dịch với người đại diện theo pháp luật của công ty, họ phải hành động một cách ngay thẳng, trung thực và tin tưởng rằng người đại diện đó có đủ thẩm quyền thực hiện giao dịch Tuy nhiên, do nhiều lý do, bên thứ ba có thể không biết rằng người đại diện theo pháp luật không được phép thực hiện một số giao dịch theo quy định của điều lệ công ty Họ thường có xu hướng tin rằng người đại diện có quyền xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt tất cả các giao dịch, trừ những giao dịch cần sự phê chuẩn của Hội đồng quản trị, Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên, trừ khi công ty có thông báo khác.
Trong bài viết của Nguyễn Hợp Toàn (2017) trên Tạp chí Tòa án nhân dân, tác giả phân tích vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong bối cảnh các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có nhiều người đại diện theo pháp luật Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan trong các giao dịch kinh doanh phức tạp.
Khái quát quy định về người đại diện theo pháp luật của công ty theo Luật
So với các năm 1999 và 2005, Luật Doanh Nghiệp năm 2014 đã thiết lập một hành lang pháp lý mới cho chế định Người đại diện theo pháp luật, gần gũi hơn với quy định của các quốc gia tiên tiến Luật này không chỉ đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho các chủ thể mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba trong quan hệ đại diện theo pháp luật của công ty Để làm rõ chế định này, tác giả sẽ phân tích các khía cạnh liên quan.
1.4.1 Điều kiện trở thành người đại diện theo pháp luật của công ty
Trong quản trị công ty, NĐD theo pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc đại diện cho doanh nghiệp và thiết lập quyền lợi cũng như nghĩa vụ với bên thứ ba Để một chủ thể được công nhận là NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp, cần đáp ứng một số điều kiện nhất định Những điều kiện này sẽ giúp xác định vai trò và trách nhiệm của NĐD trong các giao dịch và quan hệ pháp lý của doanh nghiệp.
Thứ nhất, không thuộc các trường hợp bị pháp luật cấm làm NĐD theo pháp luật của công ty
Theo phân tích tại mục 1.2.1.2 của luận văn, NĐD theo pháp luật doanh nghiệp được xác định là người quản lý doanh nghiệp theo Khoản 18 Điều 4 LDN năm 2014 Do đó, có thể căn cứ vào quy định về các trường hợp không được quản lý doanh nghiệp tại Khoản 2 Điều 18 LDN năm 2014 để nghiên cứu và suy luận về những trường hợp pháp luật cấm trở thành NĐD.
Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật, bao gồm Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Cán bộ, Công chức, Luật Viên chức và Luật Phòng, chống tham nhũng, phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về việc thành lập và quản lý doanh nghiệp.
Quy định này là cần thiết để ngăn chặn việc cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng chức vụ và thông tin để tư lợi, tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp Điều này có thể dẫn đến thiệt hại cho nhiều chủ thể trong xã hội, bao gồm cả Nhà nước, và việc xác định cũng như khắc phục thiệt hại là rất phức tạp Ví dụ, nếu Ông A, lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường, đồng thời là Tổng giám đốc Công ty X, lợi dụng thông tin về việc xuất khẩu cát trắng để thu mua cát giá rẻ, thì Công ty X sẽ hưởng lợi từ sự chênh lệch giá khi quy định được ban hành Mục đích của quy định này là bảo vệ lợi ích chung của xã hội và các doanh nghiệp khác, không phải để bảo vệ quyền lợi riêng của một công ty.
Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng thuộc các cơ quan, đơn vị của Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng như sĩ quan và hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị của Công an nhân dân Việt Nam, không bao gồm những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp.
Cán bộ lãnh đạo và quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước không được phép thành lập, quản lý hoặc trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp khác, trừ những người được ủy quyền quản lý phần vốn của Nhà nước Doanh nghiệp nhà nước là nơi Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, do đó, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước Vai trò của những người đại diện theo ủy quyền và quản lý doanh nghiệp là rất quan trọng nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước Quy định này không chỉ đảm bảo sự tập trung trong quản lý doanh nghiệp nhà nước mà còn ngăn chặn việc thành lập công ty sân sau, gây thiệt hại và thất thoát vốn Nhà nước.
Theo định nghĩa và căn cứ xác định “bên thứ ba” đã được phân tích trong các mục 1.3.1 và 1.3.2 của luận văn, Luật Doanh nghiệp năm quy định rõ ràng về vai trò và trách nhiệm của bên thứ ba trong các giao dịch thương mại, từ đó tạo nền tảng pháp lý cho các mối quan hệ kinh doanh.
Năm 2014, không có quy định nào cấm cán bộ lãnh đạo và quản lý nghiệp vụ tại doanh nghiệp nhà nước thành lập và quản lý doanh nghiệp khác Điều này dẫn đến việc Nhà nước, với vai trò là chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, có thể trở thành "bên thứ ba" bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp do hành vi của người đại diện theo pháp luật, tức là người quản lý doanh nghiệp gây ra.
Người bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang chấp hành hình phạt tù, cũng như những người bị xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, hoặc bị cấm hành nghề kinh doanh và đảm nhiệm chức vụ liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án.
Ngoài ra, Luật Phá sản năm 2014 cũng quy định về các đối tượng bị cấm trở thành NĐD theo pháp luật như sau:
Người giữ chức vụ Chủ tịch, Tổng giám đốc, Giám đốc, hoặc thành viên HĐQT của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước bị tuyên bố phá sản sẽ không được đảm nhận các chức vụ tương tự tại bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào.
Người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước, nếu doanh nghiệp đó bị tuyên bố phá sản, sẽ không được đảm nhiệm các chức vụ quản lý tại bất kỳ doanh nghiệp nào có vốn nhà nước.
Người quản lý doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản và vi phạm quy định tại Điều 18, Điều 28 và Điều 48 của Luật phá sản sẽ không được quyền làm người quản lý doanh nghiệp trong vòng 03 năm kể từ ngày có quyết định tuyên bố phá sản, theo quyết định của Thẩm phán.
Thứ hai, điều kiện về năng lực hành vi của NĐD theo pháp luật của công ty
Theo Điều 13 LDN năm 2014, NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp phải là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ Khoản 2 Điều 18 quy định rằng người chưa thành niên hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp Do đó, để xác định năng lực hành vi dân sự của một cá nhân, cần xem xét độ tuổi hợp pháp và tình trạng năng lực hành vi của họ.
Theo quy định pháp luật hiện hành tại Việt Nam, người chưa đủ mười tám tuổi không được tham gia quản lý doanh nghiệp, điều này được xác định bởi Khoản 1 Điều 21 BLDS năm 2015 Do đó, chỉ những cá nhân từ đủ mười tám tuổi trở lên mới đủ điều kiện trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Quy định này tương đồng với nhiều quốc gia khác, như Luật Công ty Úc quy định rằng chỉ cá nhân từ đủ mười tám tuổi mới có thể được bổ nhiệm làm người đại diện Hầu hết các quốc gia không đặt ra độ tuổi tối đa cho người đại diện theo pháp luật Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng Luật Công ty Úc năm 2001, có quy định giới hạn độ tuổi cho người đại diện của công ty công cộng, nhưng đã bị bãi bỏ sau hai năm do vi phạm luật chống phân biệt đối xử.