1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng

99 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Căn Cứ Phát Sinh Trách Nhiệm Bồi Thường Thiệt Hại Do Vi Phạm Quyền Lợi Của Người Tiêu Dùng
Tác giả Nguyễn Thị Mai
Người hướng dẫn Pgs.Ts Đỗ Văn Đại
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2018
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 99
Dung lượng 28,25 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG HÓA KHÔNG ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG (15)
    • 1.1. Sự không rõ ràng trong quy định của pháp luật về khái niệm hàng hoá không đảm bảo chất lượng (15)
      • 1.1.1. Sự không rõ ràng của khái niệm hàng hóa không đảm bảo chất lượng (15)
      • 1.1.2. Sự không rõ ràng của khái niệm hàng hoá có khuyết tật (17)
    • 1.2. Khó khăn trong thực tiễn áp dụng (18)
    • 1.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật (19)
  • CHƯƠNG 2. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG HÓA KHÔNG ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG GÂY RA (23)
    • 2.1. Sự không rõ ràng trong quy định của pháp luật (23)
      • 2.1.1. Chủ thể bị thiệt hại (23)
      • 2.1.2. Các khoản thiệt hại (25)
    • 2.2. Khó khăn trong thực tiễn áp dụng (26)
    • 2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật (29)
  • CHƯƠNG 3. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO LỖI CỦA NHÀ SẢN XUẤT (33)
    • 3.1. Sự không rõ ràng trong quy định của pháp luật (34)
      • 3.1.1. Bộ luật Dân sự năm 2015 (34)
      • 3.1.2. Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (35)
    • 3.2. Khó khăn trong thực tiễn áp dụng (36)

Nội dung

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG HÓA KHÔNG ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG

Sự không rõ ràng trong quy định của pháp luật về khái niệm hàng hoá không đảm bảo chất lượng

1.1.1 Sự không rõ ràng của khái niệm hàng hóa không đảm bảo chất lượng

Theo Điều 630 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 608 của Bộ luật Dân sự năm 2015, các chủ thể sản xuất và kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất lượng gây thiệt hại cho người tiêu dùng (NTD) có trách nhiệm bồi thường.

Năm 2015, Bộ luật Dân sự đã thu hẹp phạm vi chủ thể "Chủ thể khác", nhưng bản chất vẫn không thay đổi Điều này cho thấy rằng Bộ luật chỉ nêu ra hàng hóa không đảm bảo chất lượng mà không cung cấp tiêu chí cụ thể để đánh giá Luật quy định một cách chung chung, thiếu tính cụ thể và không đưa ra tiêu chí áp dụng Để hiểu rõ khái niệm hàng hóa không đảm bảo chất lượng, hiện tại chưa có định nghĩa cụ thể nào, không có tài liệu hay quy định nào đề cập, chỉ có những khái niệm rời rạc.

Chất lượng là khái niệm quen thuộc trong đời sống, thường được đánh giá qua khả năng sử dụng và hưởng dụng của sản phẩm Ngày nay, chất lượng sản phẩm không chỉ là thước đo quan trọng khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn là chuẩn mực trong các quan hệ kinh tế, thương mại và sức cạnh tranh của nền kinh tế Theo nghĩa thông thường, chất lượng phản ánh phẩm chất và giá trị của sản phẩm, thể hiện sự tốt hay xấu của hàng hóa.

Theo quy định tại Điều 432 của BLDS năm 2015 chất lượng của tài sản được quy định như sau:

1 Chất lượng của tài sản mua bán do các bên thoả thuận

2 Trường hợp tiêu chuẩn về chất lượng của tài sản đã được công bố hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định thì thỏa thuận của các bên về chất lượng của tài sản không được thấp hơn chất lượng của tài sản được xác định theo tiêu chuẩn đã công bố hoặc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

3 Khi các bên không có thoả thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng về chất lượng tài sản mua bán thì chất lượng của tài sản mua bán được xác định theo tiêu chuẩn về chất lượng của tài sản đã được công bố, quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc theo tiêu chuẩn ngành nghề

Nếu không có tiêu chuẩn chất lượng cụ thể cho tài sản được công bố, thì chất lượng tài sản mua bán sẽ được xác định dựa trên tiêu chuẩn thông thường hoặc tiêu chuẩn riêng phù hợp với mục đích hợp đồng, theo quy định của cơ quan nhà nước và Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Mặc dù tác giả đang xem xét giao dịch dân sự ngoài hợp đồng, quy định cho thấy rằng chất lượng hàng hóa là yếu tố quyết định trong việc đánh giá giá trị, bất kể quan hệ dân sự phát sinh từ hợp đồng hay không Do đó, chất lượng đóng vai trò quan trọng trong mọi giao dịch dân sự.

1 Chu Đức Nhuận (2008), “Vấn đề chất lượng sản phẩm hàng hóa theo quy định của pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (8), tr.44

Việc giao kết hợp đồng và mua bán hàng hóa theo quy định của Viện Ngôn ngữ học (1996) trong Từ điển Tiếng Việt nêu rõ rằng chất lượng hàng hóa phải được các bên thỏa thuận, nhưng không được thấp hơn chất lượng đã công bố hoặc quy định của nhà nước Điều này tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của bên mua, đồng thời ràng buộc nghĩa vụ của bên bán trong việc đảm bảo chất lượng tài sản được mua bán.

Hàng hóa là sản phẩm lao động, phục vụ nhu cầu con người qua trao đổi và buôn bán Tuy nhiên, quy định của Bộ luật Dân sự về "hàng hóa không đảm bảo chất lượng" thiếu sự giải thích rõ ràng, khiến người đọc khó hiểu hoặc có thể hiểu theo cách riêng Điều này dẫn đến việc mỗi cá nhân có quan điểm chủ quan khác nhau về khái niệm hàng hóa không đảm bảo chất lượng, do văn bản pháp luật không cung cấp định nghĩa cụ thể.

1.1.2 Sự không rõ ràng của khái niệm hàng hoá có khuyết tật

Khác với Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 không sử dụng cụm từ “hàng hóa không đảm bảo chất lượng” mà thay vào đó là “hàng hóa có khuyết tật” Theo khoản 3 Điều 1 của luật này, hàng hóa có khuyết tật được định nghĩa là hàng hóa không đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng, có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe và tài sản của họ, ngay cả khi hàng hóa đó được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn Các loại hàng hóa có khuyết tật bao gồm hàng hóa sản xuất hàng loạt với khuyết tật từ thiết kế, hàng hóa đơn lẻ có khuyết tật từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, và hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn khi sử dụng nhưng không có hướng dẫn hay cảnh báo đầy đủ cho người tiêu dùng.

Trong việc quy định bồi thường thiệt hại, có sự bất hợp lý giữa Bộ luật Dân sự và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Cụ thể, Bộ luật Dân sự yêu cầu chủ thể kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất lượng phải bồi thường, trong khi đó, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng lại quy định tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Đỗ Văn Đại (2012) trong tác phẩm "Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và bình luận bản án" đã phân tích sâu sắc về các quy định liên quan đến nghĩa vụ dân sự Cuốn sách được xuất bản bởi NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tập 1, trang 39, cung cấp những bình luận và ví dụ cụ thể về các bản án trong lĩnh vực này, giúp người đọc hiểu rõ hơn về cách thức thực thi nghĩa vụ dân sự trong thực tiễn.

Cục Quản lý Cạnh tranh thuộc Bộ Công Thương (2016) đã cung cấp thông tin quan trọng về việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong trường hợp hàng hóa có khuyết tật do nhà cung cấp gây ra, dẫn đến thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe và tài sản của người tiêu dùng.

Hàng hóa có khuyết tật và hàng hóa không đảm bảo chất lượng là hai khái niệm khác nhau, với ý nghĩa không đồng nhất Sự khác biệt này chỉ ra rằng có sự không thống nhất giữa Bộ luật Dân sự và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Khó khăn trong thực tiễn áp dụng

Tác giả phân tích các quy định pháp luật liên quan đến hàng hóa không đảm bảo chất lượng và hàng hóa có khuyết tật, nhận thấy rằng các nhà làm luật hướng đến một mục tiêu chung: hàng hóa không đạt yêu cầu hoặc có khuyết tật đều phải bồi thường do không đúng cam kết và gây thiệt hại Tuy nhiên, việc quy định chung chung trong luật pháp dẫn đến sự hiểu biết khác nhau giữa các bên, tạo ra sự không thống nhất trong việc áp dụng luật và gây bất cập trong thực tiễn Tác giả sẽ tiếp tục phân tích bản án liên quan để làm rõ vấn đề này.

Bà Nguyễn Thị Bình Minh đã khởi kiện Công ty TNHH Coca-Cola sau khi mua một chai nước cam ép Splash giá 10.000 đồng, bên trong chứa hai ống thủy tinh vỡ và một mảnh giấy nhỏ Bà Minh yêu cầu bồi thường, giải thích nguyên nhân có vật thể lạ và công khai xin lỗi trên 05 số báo liên tiếp Tòa án đã áp dụng Điều 630 của BLDS năm 2005 về “hàng hóa không đảm bảo chất lượng” để yêu cầu bồi thường, nhưng lại sử dụng khái niệm “hàng hóa có khuyết tật” theo Luật Bảo vệ Quyền lợi Người tiêu dùng năm 2010 Tòa án nhận định rằng hàng hóa không phải do Coca-Cola Việt Nam hoàn thiện, do đó không có căn cứ xác định lỗi của công ty đối với hàng hóa có khuyết tật.

5 Phụ lục 01: Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2015/DS-ST ngày 15 và 23/9/2015 của Tòa án nhân dân Quận Bắc

Tòa án Từ Liêm, Tp Hà Nội đã bác bỏ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đối với sản phẩm nước cam ép Splash của Coca-Cola Việt Nam Nguyên đơn yêu cầu giải thích về sự xuất hiện của tạp chất và ống thủy tinh trong sản phẩm, cũng như yêu cầu công khai xin lỗi về việc để sản phẩm khuyết tật lưu hành Mặc dù Tòa án đã nhắc đến khái niệm “hàng hóa có khuyết tật”, nhưng lại áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2005, chỉ quy định về “hàng hóa không đảm bảo chất lượng”, dẫn đến sự nhầm lẫn giữa hai khái niệm này.

“hàng hóa có khuyết tật” và “hàng hóa không đảm bảo chất lượng” là một.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Khác với quy định của Việt Nam, pháp luật Anh về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng yêu cầu người yêu cầu bồi thường phải chứng minh ba yếu tố: sản phẩm có khuyết tật, thiệt hại phát sinh từ sản phẩm đó, và bị đơn là người sản xuất hoặc có trách nhiệm tương tự Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1987 của Việt Nam, từ ngày 1/3/1998, người yêu cầu bồi thường cũng phải chứng minh sản phẩm có khuyết tật, nhưng điều kiện đầu tiên để quy trách nhiệm cho chủ thể sản xuất hàng hóa là hàng hóa không đảm bảo chất lượng.

Giữa BLDS năm 2015 và Luật BVQLNTD không có sự thống nhất giữa

"Hàng hóa có khuyết tật" và "hàng hóa không đảm bảo chất lượng" là hai khái niệm khác nhau, trong đó hàng hóa không đảm bảo chất lượng là khái niệm rộng hơn, bao gồm cả hàng hóa có khuyết tật Hàng hóa không đảm bảo chất lượng không chỉ liên quan đến khuyết tật mà còn về các yếu tố như chất lượng, mùi vị và hình dáng Do đó, việc Tòa án áp dụng thuật ngữ "hàng hóa có khuyết tật" chưa phản ánh đầy đủ ý nghĩa và nội hàm của hàng hóa, cũng như chưa chính xác với tinh thần của các nhà làm luật Bộ luật Dân sự năm 2015 là luật gốc và có vai trò quan trọng trong việc xác định các khái niệm này.

Phạm Thị Phương Anh (2003) trong luận văn Thạc sĩ của mình tại Trường Đại học Luật đã nghiên cứu về cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sản phẩm có khuyết tật, đồng thời thực hiện so sánh giữa Luật Việt Nam và Luật Anh.

Tòa án Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra nhận định rằng, trong trường hợp hàng hóa không đảm bảo chất lượng gây thiệt hại, bên liên quan sẽ phải bồi thường mà không cần xác định có khuyết tật hay không Điều này cho thấy, việc xác định hàng hóa có khuyết tật là không thuyết phục, vì nếu đã công nhận hàng hóa có khuyết tật, Tòa án buộc phải áp dụng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Tuy nhiên, Tòa án lại sử dụng Bộ luật Dân sự năm 2005, do đó cần phải dùng thuật ngữ “hàng hóa không đảm bảo chất lượng”.

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và Bộ luật Dân sự năm 2015 đều quy định rằng hàng hóa không đạt chất lượng gây thiệt hại phải được bồi thường Tuy nhiên, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn hạn chế về mặt ngữ nghĩa và không áp dụng hiệu quả trong các trường hợp cụ thể Khi hàng hóa được xác định không đảm bảo chất lượng, việc áp dụng Luật này trở nên khó khăn, dẫn đến sự chủ quan của Thẩm phán trong việc xác định hàng hóa có khuyết tật Sự không thống nhất trong các văn bản pháp luật gây ra sự thao túng trong việc áp dụng quy định Mặc dù hàng hóa có khuyết tật được quy định trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nhưng Bộ luật Dân sự 2015 lại không nhấn mạnh đến thuật ngữ này, dẫn đến việc Tòa án áp dụng không chính xác Nguyên nhân có thể do Tòa án chưa hiểu rõ về khái niệm hàng hóa không đảm bảo chất lượng và hàng hóa có khuyết tật, hoặc vẫn cố tình áp dụng pháp luật một cách tùy tiện Mặc dù nội dung và hậu quả của vụ án không thay đổi, nhưng điều này phản ánh kỹ năng lập pháp và thi hành pháp luật của đội ngũ pháp lý nước ta cần cải thiện Từ những phân tích trên, tác giả kiến nghị cần có sự điều chỉnh và thống nhất trong quy định pháp luật để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng một cách hiệu quả hơn.

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) cần được sửa đổi để thống nhất với Bộ luật Dân sự (BLDS), nhằm tránh những bất cập đã xảy ra trong thực tiễn Cụ thể, tại khoản 1 Điều 23, cần điều chỉnh quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ “hàng hóa có khuyết tật” thành “hàng hóa không đảm bảo chất lượng” Ngoài ra, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao nên ban hành Nghị Quyết hướng dẫn về khái niệm “hàng hóa không đảm bảo chất lượng” theo Điều 608 của BLDS năm 2015 Hàng hóa này được xác định là không đáp ứng đủ tiêu chí về nội dung và hình thức, do đó cần thiết lập các tiêu chí đánh giá rõ ràng để đảm bảo quy trình xét xử khách quan, tránh tình trạng áp dụng tùy tiện và chủ quan.

Quy định về hàng hóa không đảm bảo chất lượng vẫn là một trong những biện pháp bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (NTD) tốt nhất, mặc dù chưa hoàn toàn hiệu quả Trong chương 1, tác giả phân tích sự không thống nhất giữa quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Bảo vệ quyền lợi NTD về hàng hóa không đảm bảo chất lượng và hàng hóa có khuyết tật Thực tế cho thấy cả hai loại hàng hóa này đều được áp dụng tương tự, mặc dù chúng đều không đạt tiêu chuẩn mà nhà sản xuất đưa ra Sự khác biệt giữa quy định pháp lý và thực tiễn áp dụng dẫn đến tình trạng chủ quan và không tuân thủ tinh thần của pháp luật, cho thấy sự thiếu chặt chẽ trong quy trình lập pháp và hành pháp trong lĩnh vực dân sự.

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG HÓA KHÔNG ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG GÂY RA

Sự không rõ ràng trong quy định của pháp luật

2.1.1 Chủ thể bị thiệt hại

So với Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật dân sự năm 2015 không có sự thay đổi nào đáng kể Pháp luật quy định rằng cá nhân và pháp nhân sản xuất hàng hóa không đảm bảo chất lượng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại Do đó, khi có thiệt hại xảy ra, việc bồi thường là cần thiết, đồng thời hàng hóa phải được xác định là không đảm bảo chất lượng.

BLDS hiện nay không rõ ràng về việc bồi thường thiệt hại cho ai, liệu là người tiêu dùng trực tiếp hay những người không trực tiếp mua hàng hóa Điều này tạo ra khó khăn cho các Tòa án trong việc xác định quan hệ pháp luật liên quan đến bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng, đặc biệt trong các trường hợp người bị thiệt hại không phải là người trực tiếp mua sản phẩm nhưng vẫn bị ảnh hưởng do hàng hóa không đảm bảo chất lượng Sự thiếu sót trong quy định của BLDS dẫn đến việc bồi thường thiệt hại có thể chỉ áp dụng cho người mua trực tiếp hoặc có thể mở rộng cho tất cả các trường hợp liên quan đến việc sử dụng hàng hóa kém chất lượng.

7 Đỗ Văn Đại (2010), Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Bản án và bình luận bản án, NXB Chính trị quốc gia, TP Hồ Chí Minh, tr.92

Người tiêu dùng là người trực tiếp mua sản phẩm

BLDS không xác định người tiêu dùng (NTD) và không coi NTD là người trực tiếp mua sản phẩm Chỉ có Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) đề cập đến khái niệm "Người tiêu dùng" Trong khuôn khổ của Luật BVQLNTD, NTD được hiểu là "người mua".

Theo quy định của pháp luật Ấn Độ, NTD (người tiêu dùng) được định nghĩa là bất kỳ ai mua hàng hóa hoặc thuê, sử dụng dịch vụ, bao gồm cả những người sử dụng sản phẩm mà không phải là người mua trực tiếp Tuy nhiên, những người mua hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ với mục đích thương mại không được xem là NTD Điều này cho thấy NTD có thể là người mua sản phẩm hoặc người sử dụng sản phẩm, phản ánh tinh thần của pháp luật Ấn Độ về quyền lợi của người tiêu dùng.

Người tiêu dùng là người không trực tiếp mua sản phẩm

Trong cuộc sống, nhiều trường hợp người tiêu dùng (NTD) không trực tiếp mua sản phẩm nhưng vẫn bị thiệt hại do hàng hóa kém chất lượng Điều này dẫn đến việc cần xem xét quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng liên quan đến tài sản và sức khỏe Tác giả cho rằng việc bảo vệ NTD cần phải toàn diện, không thể viện dẫn quy định khác nếu không đáp ứng điều kiện bảo vệ Thực tế cho thấy, đa số NTD là người mua sản phẩm trực tiếp; do đó, việc áp dụng các quy định trong Bộ luật Dân sự về hợp đồng mua bán để quy trách nhiệm cho nhà sản xuất hoặc người bán là không hợp lý, vì giữa họ đã hình thành một hợp đồng mua bán.

Theo Điều 23 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng hóa phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu hàng hóa có khuyết tật do họ cung cấp gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người tiêu dùng, ngay cả khi họ không biết hoặc không có lỗi trong việc phát sinh khuyết tật Quy định này nhấn mạnh trách nhiệm của nhà sản xuất và người bán trong việc đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng.

Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương (2009) đã thực hiện một nghiên cứu chuyên đề nhằm so sánh luật bảo vệ người tiêu dùng ở một số quốc gia trên thế giới Nghiên cứu này không chỉ rút ra bài học kinh nghiệm mà còn đề xuất những nội dung cơ bản cần được quy định trong dự thảo luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam.

Người tiêu dùng (NTD) đều có quyền được bồi thường cho thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra, không phân biệt việc họ có phải là người trực tiếp mua sản phẩm hay không Theo quy định của Luật Bảo vệ Quyền lợi Người tiêu dùng, trách nhiệm bồi thường này không nằm trong giới hạn bồi thường thiệt hại theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng, mà là một trách nhiệm bồi thường đặc thù Trong khi đó, Luật bảo vệ người tiêu dùng của Anh không định nghĩa rõ về NTD, nhưng có thể suy luận từ các quy định khác trong luật Vì vậy, cần có quy định rõ ràng hơn về khái niệm "người tiêu dùng" trong pháp luật dân sự để đảm bảo quyền lợi cho tất cả những người bị thiệt hại do hàng hóa không đảm bảo chất lượng.

Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD), tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất lượng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe và tài sản của người tiêu dùng phải bồi thường Luật BVQLNTD quy định cụ thể các loại thiệt hại, trong khi Bộ luật Dân sự (BLDS) chỉ yêu cầu có thiệt hại để thực hiện bồi thường, cho thấy BLDS có phạm vi áp dụng rộng hơn Cả hai văn bản đều nhấn mạnh trách nhiệm bồi thường khi người tiêu dùng sử dụng hàng hóa kém chất lượng Theo Điều 3 khoản 1 của Luật BVQLNTD, người tiêu dùng được định nghĩa là cá nhân, tổ chức mua và sử dụng hàng hóa cho mục đích tiêu dùng cá nhân, gia đình hoặc cho các tổ chức, cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội.

9 Đỗ Văn Đại (2016), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án,

NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tập 2, tr.474

10 Nguyễn Thị Vân Anh và Nguyễn Văn Cương (2012), Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, NXB.Chính trị Quốc gia, tr.152

Cục Quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công Thương có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (NTD) Hai văn bản quy định pháp luật liên quan đến NTD đều có mục đích chung, nhưng nội dung và quy định của mỗi văn bản lại khác nhau.

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) quy định rõ ràng về các khoản thiệt hại mà người tiêu dùng (NTD) được bồi thường, tuy nhiên, nếu thiệt hại không nằm trong quy định, NTD sẽ không được bồi thường Điều 608 của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 chỉ nêu khái quát về "thiệt hại" mà không cụ thể hóa loại thiệt hại nào, dẫn đến việc bồi thường cho toàn bộ thiệt hại do hàng hóa không đảm bảo chất lượng gây ra Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của NTD nhưng cần chi tiết hơn về mức độ thiệt hại, bồi thường toàn bộ hoặc theo thực tế xảy ra, bao gồm cả thiệt hại trong tương lai nếu được chứng minh Tuy nhiên, sự chung chung trong quy định của BLDS đã dẫn đến việc Tòa án áp dụng một cách tùy tiện, đôi khi dựa vào ý kiến chủ quan để xác định mức thiệt hại, điều này trái với quan điểm của nhà làm luật Do đó, cần có sự điều chỉnh trong BLDS để quy định rõ hơn về các khoản "thiệt hại" và tránh việc Luật BVQLNTD gói gọn các khoản thiệt hại chỉ bằng cách liệt kê.

Khó khăn trong thực tiễn áp dụng

Người tiêu dùng (NTD) được định nghĩa là những cá nhân sử dụng và sở hữu hàng hóa dưới bất kỳ hình thức nào, điều này giúp bảo vệ quyền lợi của họ khi bị xâm phạm Để đảm bảo quyền lợi cho NTD, biện pháp hiệu quả nhất là bồi thường cho những tổn thất do hàng hóa không đảm bảo chất lượng gây ra, theo Điều 608 Bộ luật Dân sự năm 2015 Tuy nhiên, do văn bản này ngắn gọn, thực tiễn áp dụng thường bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của Thẩm phán, điều này không thuyết phục và đã được chứng minh qua nhiều bản án.

Bản án dân sự phúc thẩm số 42/2016/DS-PT của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội liên quan đến vụ kiện giữa bà Nguyễn Thị Bình Minh, nguyên đơn, và Công ty TNHH Coca-Cola, bị đơn Vụ việc xuất phát từ chai nước cam ép Splash, trong đó phát hiện có dị vật là hai ống thủy tinh vỡ cùng một số mảnh giấy nhỏ màu trắng đục, mặc dù chai vẫn còn nguyên vẹn.

Bà Minh cho rằng chai nước có dị vật và không đảm bảo chất lượng, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định rằng về hình thức bên ngoài, sản phẩm này là của Công ty Coca-Cola Việt Nam Tuy nhiên, về bản chất bên trong, không có căn cứ để khẳng định đây là sản phẩm của công ty Nếu chai nước cam ép có dị vật và là sản phẩm của Công ty, bà Minh vẫn không được bồi thường vì chưa chứng minh được thiệt hại từ hàng hóa không đảm bảo chất lượng Do đó, dù chai nước có dị vật, bà Minh không đủ điều kiện để yêu cầu bồi thường.

Tòa án đã dựa vào thiệt hại thực tế xảy ra để đưa ra phán quyết, mặc dù bản án khẳng định chai nước không phải là sản phẩm của Công ty Coca-Cola.

Theo bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, bà Diền và ông Đại thuê phòng trọ của bà Phượng, trong quá trình sinh hoạt, bình gas hết và bà Diền đã gọi ông Thiện để đổi bình gas Sau khi sử dụng bình gas mới, phòng trọ của bà Diền bốc cháy, dẫn đến bà Diền bị thương tật 65%, ông Đại tử vong và một xe gắn máy bị hư hỏng Cơ quan Công an xác định nguyên nhân cháy là do rò rỉ gas kết hợp với bếp nấu hủ tiếu của bà Phượng Đại diện hợp pháp của bà Diền và ông Đại yêu cầu ông Thiện và bà Phượng liên đới bồi thường 341.000.000 đồng, với thiệt hại phát sinh từ hàng hóa không đảm bảo chất lượng, cụ thể là bình gas.

Theo Công văn số 503/CV/CSĐT-KT ngày 08/6/2016 của Công an thị xã

Dĩ An xác định nguyên nhân cháy là do van điều tiết bị lão hóa, dẫn đến rò rỉ gas từ bình và lan tỏa ra phòng.

Bản án dân sự phúc thẩm số 42/2016/DS-PT của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội liên quan đến vụ tranh chấp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại Quyết định này không chỉ khẳng định trách nhiệm của các bên liên quan mà còn góp phần nâng cao nhận thức về quyền lợi của người tiêu dùng trong xã hội.

14 Đỗ Văn Đại (2016), tlđd 9, tr.461

Bản án dân sự phúc thẩm số 36/2017/DS-PT ngày 28/02/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương liên quan đến vụ tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, xảy ra khi bếp nấu của bà Lê Thị Thu Phượng phát lửa, dẫn đến cháy lan ra khu vực phía trước và bên trong phòng trọ số 1 Theo công văn số 170/PC 54 ngày 26/6/2015 và công văn số 129/PC 54 ngày 26/4/2016 của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Bình Dương, nguyên nhân gây rò rỉ gas được xác định là do roong cao su bị sơ cứng và bề mặt roong co giãn không đều, dẫn đến việc không đóng kín và gây ra rò rỉ gas Do đó, nguyên nhân chính của vụ cháy nổ là do bình gas không đảm bảo chất lượng.

Sự việc đã gây ra thiệt hại do hàng hóa không đảm bảo chất lượng, dẫn đến yêu cầu bồi thường từ ông Thơm cho bà Diền với số tiền 431.897.108 đồng, bao gồm viện phí, chi phí điều trị, và các khoản trợ cấp khác Tuy nhiên, tòa án không chấp nhận yêu cầu bồi thường cho trợ cấp mất sức lao động suốt đời và trợ cấp nuôi con nhỏ, mặc dù thiệt hại về sức khỏe của bà Diền là 65%, ảnh hưởng đến khả năng lao động và thu nhập của bà Điều này chứng minh thiệt hại trong tương lai, mặc dù chưa xảy ra ngay lập tức Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bà Diền, việc yêu cầu bồi thường là cần thiết, vì thiệt hại xảy ra liên tục Câu hỏi đặt ra là liệu cơ quan nhà nước có bảo vệ quyền lợi của bà hay không, khi có thể từ chối yêu cầu do thiếu căn cứ hoặc vì vụ việc đã được giải quyết trước đó Thực tế cho thấy quyền lợi của người tiêu dùng chưa được bảo vệ một cách toàn diện.

Bản án dân sự phúc thẩm số 36/2017/DS-PT, được ban hành vào ngày 28/02/2017 bởi Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, liên quan đến vụ tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Vụ án này đã thu hút sự chú ý do các vấn đề pháp lý phức tạp và ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan.

Bản án dân sự phúc thẩm số 36/2017/DS-PT, được Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành vào ngày 28/02/2017, liên quan đến vụ tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Vụ án này nhấn mạnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc yêu cầu bồi thường thiệt hại, đồng thời làm rõ các căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp.

Bản án dân sự phúc thẩm số 36/2017/DS-PT, được Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành vào ngày 28/02/2017, liên quan đến vụ việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Quyết định này nêu rõ các vấn đề pháp lý và trách nhiệm bồi thường trong trường hợp gây thiệt hại cho bên thứ ba, góp phần làm rõ các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực dân sự.

Sau khi ông Đại qua đời, con của ông vẫn còn nhỏ và không thể tự nuôi sống bản thân, buộc phải phụ thuộc vào gia đình Nếu ông Đại còn sống, ông sẽ phải nuôi dưỡng cháu Nguyên cho đến khi cháu đủ 18 tuổi Tuy nhiên, Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận bồi thường cho những ngày nằm viện điều trị, còn những chi phí nuôi dưỡng sau này không được chấp nhận vì luật không quy định và không có chứng cứ chứng minh Điều này cho thấy, trong khi thiệt hại về tài sản, tính mạng và sức khỏe rõ ràng phải được bồi thường, Tòa án lại loại trừ những trường hợp khác bằng cách áp dụng lập luận chủ quan và viện dẫn quy định pháp luật.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Thiệt hại do hàng hóa kém chất lượng không chỉ ảnh hưởng đến người tiêu dùng trực tiếp mà còn đến những người không mua sản phẩm Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (NTD), nhiều quốc gia đã xây dựng các quy định rõ ràng, như Chỉ thị số 1999/44/EC của Cộng đồng Châu Âu, coi NTD là bên yếu thế và đảm bảo quyền lợi tối đa cho họ Tương tự, Luật Hợp đồng tiêu dùng của Nhật Bản cũng quy định rằng các quy định trong Bộ luật dân sự và Bộ luật thương mại sẽ được áp dụng bổ sung cho các quy định của Luật này, nhằm xác định hệ quả pháp lý trong việc giao kết hợp đồng tiêu dùng.

Theo quy định của Luật bảo vệ người tiêu dùng tại Philippines, các quy định trong luật này sẽ được ưu tiên áp dụng, bất kể có hay không các thoả thuận trái ngược Quy định này không làm giảm quyền lợi của người tiêu dùng (NTD) theo các luật khác Do đó, cả người mua trực tiếp và người không mua trực tiếp đều được coi là NTD nếu có thiệt hại xảy ra Bộ luật dân sự quy định rằng thiệt hại phải được bồi thường, bao gồm cả thiệt hại thực tế hiện tại và thiệt hại chắc chắn xảy ra trong tương lai Đây là điểm tương đồng giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Anh, nhấn mạnh rằng "phải có thiệt hại xảy ra" để yêu cầu bồi thường.

Cần có quy định pháp luật cụ thể hơn để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (NTD) khi yêu cầu bồi thường thiệt hại từ sản phẩm Tất cả NTD, bất kể hình thức nhận sản phẩm, đều có quyền yêu cầu bồi thường nếu có thiệt hại, mà không bị chia tỷ lệ bồi thường không hợp lý Tại Châu Âu, chỉ thị ngày 25/7/1985 đã phân biệt rõ ràng giữa thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật và thiệt hại đối với chính sản phẩm Pháp luật Pháp, theo điều 1386-2 BLDS, quy định rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cũng áp dụng cho thiệt hại xâm phạm đến con người và sản phẩm khác Quy định này thể hiện tinh thần bảo vệ NTD một cách triệt để.

20 Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương (2009), tlđd (8), tr 115

21 Phạm Thị Phương Anh (2003), tlđd (6), tr.17

22 Đỗ Văn Đại (2016), tlđd (9), tr.480

Từ những phân tích trên cho thấy:

Theo khoản 1 Điều 23 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD), tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng hóa phải bồi thường thiệt hại nếu hàng hóa có khuyết tật gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe và tài sản của người tiêu dùng, ngay cả khi họ không biết hoặc không có lỗi Luật BVQLNTD xác định rõ các loại thiệt hại này, trong khi Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định rằng cá nhân và pháp nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không đảm bảo chất lượng phải bồi thường cho người tiêu dùng Do đó, BLDS đã bao quát toàn bộ thiệt hại phát sinh, khiến Luật BVQLNTD không cần liệt kê cụ thể Kiến nghị sửa đổi nội dung thành: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp hàng hóa có khuyết tật do mình cung cấp gây thiệt hại cho người tiêu dùng.”

Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và khắc phục tình trạng thiệt hại không lớn tại thời điểm khởi kiện, cần xem xét hệ lụy lâu dài do sản phẩm kém chất lượng gây ra Việc Tòa án xác định không có thiệt hại thực tế và từ chối bồi thường có thể dẫn đến việc yêu cầu khởi kiện lại trong tương lai, gây khó khăn cho đương sự Điều này không đảm bảo tính toàn diện trong giải quyết vụ án, đồng thời không chắc chắn rằng Tòa án sẽ xử lý các vấn đề phát sinh từ vụ án trước Do đó, kiến nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ban hành Nghị Quyết hướng dẫn rõ ràng về vấn đề “thiệt hại” theo quy định.

Theo Điều 608 của Bộ luật Dân sự năm 2015, các quy định về thiệt hại phải bao gồm tất cả các tổn thất phát sinh từ hàng hóa không đảm bảo chất lượng, bao gồm cả những thiệt hại tiềm tàng trong tương lai nếu có đủ căn cứ để xác định.

Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) và Bộ luật Dân sự (BLDS), thiệt hại là cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường khi hàng hóa không đảm bảo chất lượng Tuy nhiên, không phải tất cả thiệt hại đều được bồi thường, và không phải bên nào cũng có trách nhiệm bồi thường Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra nhưng vẫn không được bồi thường do luật không quy định, điều này là không hợp lý Cần kiến nghị áp dụng bồi thường cho tất cả thiệt hại đã, đang và sẽ xảy ra một cách kịp thời và toàn diện, vì thiệt hại chắc chắn sẽ xảy ra BLDS đã quy định rõ ràng rằng thiệt hại phải được bồi thường, không phân biệt về sức khỏe, tính mạng hay tài sản Luật BVQLNTD liệt kê các vấn đề bồi thường liên quan đến tính mạng, sức khỏe và tài sản, nhưng điều này là không cần thiết vì BLDS đã quy định đầy đủ.

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO LỖI CỦA NHÀ SẢN XUẤT

Sự không rõ ràng trong quy định của pháp luật

3.1.1 Bộ luật Dân sự năm 2015 Đây là quy định khái quát nhất về trách nhiệm BTTH do vi phạm quyền lợi NTD Quy định này chỉ đưa ra nguyên tắc chung về trách nhiệm BTTH trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh hàng hóa Theo đó, cá nhân, pháp nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất lượng mà gây thiệt hại cho NTD thì phải BTTH Nếu chỉ căn cứ vào quy định này có thể hiểu rằng chủ thể sản xuất, kinh doanh mà không bảo đảm chất lượng thì phải bồi thường trong mọi trường hợp, bất kể có lỗi hay không có lỗi và không đề cập đến nghĩa vụ chứng minh Tuy nhiên, nếu căn cứ Luật BVQLNTD năm 2010 cũng như Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 có thể thấy những trường hợp người sản xuất, kinh doanh hàng hóa không phải BTTH như: Người sản xuất, kinh doanh chứng minh được khuyết tật của hàng hóa không thể phát hiện được với trình độ khoa học, kĩ thuật tại thời điểm tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa cung cấp cho NTD; thiệt hại phát sinh do lỗi của NTD Mặc dù quy định về BTTH do vi phạm quyền lợi của NTD thuộc quy định về BTTH ngoài hợp đồng, tuy nhiên đây là trường hợp cụ thể, căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng theo Điều 584 của BLDS thì còn xét đến yếu tố lỗi để xác định phần thiệt hại của các bên tham gia vào các giao dịch dân sự nhưng đối với trường hợp vi phạm quyền lợi của NTD thì không cần xác định ai có lỗi, không cần chứng minh yếu tố lỗi, miễn là hàng hóa không đảm bảo chất lượng mà gây thiệt hại thì phải bồi thường Từ đó cho thấy, xét ở một chừng mực nào đó đây là một quy định rất là thoáng, bảo vệ quyền lợi của NTD một cách triệt để, làm cho NTD tham gia vào các quan hệ giao dịch dân sự một cách tự tin, khuyến khích họ lên tiếng để bảo vệ mình trước xã hội BLDS không đề cập đến, có nghĩa là không bắt buộc, có cũng được và không có thì cũng chẳng sao, không ảnh hưởng đến bản chất của vấn đề

3.1.2 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD), tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng hóa phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra, bất kể họ có biết hoặc có lỗi trong việc phát sinh khuyết tật hay không Điều này có nghĩa là mọi chủ thể kinh doanh hàng hóa khuyết tật đều phải bồi thường cho người tiêu dùng (NTD) mà không cần xem xét đến lỗi của họ Tuy nhiên, việc sử dụng cụm từ “biết hoặc không có lỗi” trong luật gây khó chịu cho người đọc vì có vẻ không cần thiết.

Theo quy định tại tại Điều 42 Luật BVQLNTD quy định nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi NTD:

1 Người tiêu dùng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, trừ việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ

2 Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại

3 Tòa án quyết định bên có lỗi trong vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Theo quy định hiện hành, người tiêu dùng (NTD) có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, điều này được xác định là bắt buộc Tuy nhiên, Điều 23 của Luật lại quy định rằng tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa phải bồi thường thiệt hại, bất kể họ có lỗi hay không Điều này tạo ra sự mâu thuẫn, khi mà NTD phải chứng minh thiệt hại trong khi tổ chức kinh doanh lại phải chứng minh mình không có lỗi Mục đích của luật là yêu cầu các nhà sản xuất chứng minh rằng hàng hóa không có khuyết tật do lỗi của họ Từ đó, có thể thấy rằng trách nhiệm chứng minh đã thuộc về NTD, dẫn đến sự không nhất quán trong quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Khó khăn trong thực tiễn áp dụng

Hiện nay, nhiều Tòa án thường áp đặt ý chí chủ quan vào quá trình xét xử, dẫn đến việc các đương sự phải chứng minh lỗi của nhau theo một cách thức cứng nhắc Phương pháp này chỉ phù hợp trong một số trường hợp cụ thể, gây ra sự bất hợp lý trong thực tiễn Để làm rõ điều này, tác giả sẽ bình luận về một số bản án tiêu biểu.

Trong vụ kiện giữa bà Minh và Công ty Coca-Cola, việc xác định lỗi của công ty không còn quan trọng, mà chỉ cần chứng minh chai nước giải khát là của Coca-Cola và có khuyết tật để được bồi thường Tuy nhiên, bản án sơ thẩm lại khẳng định rằng không có căn cứ để xác định Coca-Cola Việt Nam có lỗi đối với hàng hóa bị khuyết tật Điều này gợi ý rằng ngoài việc chứng minh hàng hóa có khuyết tật, cần phải có yếu tố lỗi của nhà sản xuất Tòa án đã yêu cầu Công ty Coca-Cola phải chịu trách nhiệm vì đã sản xuất chai nước có dị vật, cho thấy rằng để quy trách nhiệm cho nhà sản xuất, ngoài việc hàng hóa không đảm bảo chất lượng và gây thiệt hại, còn cần chứng minh có lỗi từ phía nhà sản xuất.

27 Đỗ Văn Đại (2016), tlđd (9), tr.484

BVQLNTD là không chính xác và không nên được lặp lại 28 Trong bản án này, Tòa án nhận định không thuyết phục

Bản án số 37/2017/DS-PT ngày 28/02/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã xác định ông Thiện, chủ cửa hàng gas, có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do việc cung cấp bình gas không đảm bảo chất lượng, dẫn đến ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng và tài sản của bà Thơm và ông Tư Tòa án nhận thấy ông Thiện đã không tuân thủ quy định pháp luật trong việc thay đổi bình gas và không thông báo cho người sử dụng về chất lượng bình gas Mặc dù Bộ luật Dân sự và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không quy định về yếu tố lỗi, Tòa án vẫn xem xét lỗi của các bên để phân định trách nhiệm, tuy nhiên, hướng giải quyết này không được coi là thuyết phục.

Vào ngày 04 tháng 3 năm 2015, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre đã tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm, trong đó nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Kim Thuyên và bị đơn là bà.

Bà Thuyên đã mua bánh mì kẹp thịt tại cơ sở của bà Võ Thị Minh Tuyến, nhưng sau khi ăn, bà bị đau bụng và tiêu chảy, phải đi cấp cứu tại bệnh viện Bác sĩ chẩn đoán bà bị ngộ độc thực phẩm do ăn bánh mì nhiễm khuẩn Bà Thuyên yêu cầu bà Tuyến bồi thường tổn thất sức khỏe với tổng thiệt hại là 2.125.000 đồng Tuy nhiên, bà Tuyến từ chối yêu cầu bồi thường, cho rằng bà Thuyên không có chứng cứ chứng minh đã ăn bánh mì tại cơ sở của mình.

28 Đỗ Văn Đại (2016), tlđd (20), tr.483

29 Phụ lục 04: Bản án dân sự phúc thẩm số 37/2017/DS-PT ngày 28/02/2017 của TAND tỉnh Bình Dương về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2015/DSST của TAND thành phố Bến Tre liên quan đến vụ tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm Vụ án này tập trung vào việc xác định trách nhiệm bồi thường và mức độ thiệt hại mà nguyên đơn phải nhận Tòa án đã xem xét các chứng cứ và lập luận của các bên để đưa ra quyết định công bằng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị xâm phạm sức khỏe.

Tại phiên tòa sơ thẩm, yêu cầu khởi kiện của bà Thuyên về việc bồi thường thiệt hại đã bị bác bỏ, buộc bà phải chứng minh trách nhiệm của nhà sản xuất, điều này không hợp lý Pháp luật quy định rõ rằng nghĩa vụ chứng minh không có lỗi thuộc về nhà sản xuất, nhưng Tòa án lại áp dụng Điều 608 của BLDS và quy trách nhiệm chứng minh cho bà Thuyên, điều này không thuyết phục.

Bà Thuyên, một người tiêu dùng, đã bị ngộ độc thực phẩm do ăn bánh mì từ cơ sở sản xuất của bà Tuyến, dẫn đến thiệt hại về sức khỏe và chi phí điều trị tại bệnh viện Tuy nhiên, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre đã bác yêu cầu khởi kiện của bà Thuyên vì cho rằng bà không chứng minh được nguồn gốc ngộ độc từ bánh mì của cơ sở Minh Tuyến Tòa án yêu cầu bà Thuyên cung cấp hóa đơn hoặc tài liệu chứng minh giao dịch, nhưng trong thực tế, người tiêu dùng thường không yêu cầu hóa đơn khi mua bánh mì, dẫn đến khó khăn trong việc chứng minh.

Theo Điều 18 của Thông tư số 39/2014/TT-BCT, việc bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ không yêu cầu phải lập hóa đơn Thông tư này hướng dẫn thực hiện Nghị định số 51/2010/NĐ-CP và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP của Chính phủ về quy định hóa đơn bán hàng.

1 Bán hàng hóa, dịch vụ có tổng giá thanh toán dưới 200.000 đồng mỗi lần thì không phải lập hóa đơn, trừ trường hợp người mua yêu cầu lập và giao hóa đơn

2 Khi bán hàng hóa, dịch vụ không phải lập hóa đơn hướng dẫn tại khoản 1 Điều này, người bán phải lập Bảng kê bán lẻ hàng hóa, dịch vụ Bảng kê phải có tên, mã số thuế và địa chỉ của người bán, tên hàng hóa, dịch vụ, giá trị hàng hóa, dịch vụ bán ra, ngày lập, tên và chữ ký người lập Bảng kê Trường hợp người bán nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thì Bảng kê bán lẻ phải có tiêu thức “thuế suất giá trị gia tăng” và “tiền thuế giá trị gia tăng” Hàng hóa, dịch vụ bán ra ghi trên Bảng kê theo thứ tự bán hàng trong ngày (mẫu số 5.6 Phụ lục 5 ban hành kèm theo Thông tư này)

3 Cuối mỗi ngày, cơ sở kinh doanh lập một hóa đơn giá trị gia tăng hoặc hóa đơn bán hàng ghi số tiền bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trong ngày thể hiện trên dòng tổng cộng của bảng kê, ký tên và giữ liên giao cho người mua, các liên khác luân chuyển theo quy định Tiêu thức “Tên, địa chỉ người mua” trên hóa đơn này ghi là “bán lẻ không giao hóa đơn”

Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng bà Thuyên cần chứng minh vi khuẩn gây bệnh giống với loại vi khuẩn đã xét nghiệm, mặc dù bà có tên trong danh sách những người bị ngộ độc thực phẩm từ cơ sở bánh mì Minh Tuyến Điều này không hợp lý, vì pháp luật quy định nghĩa vụ chứng minh lỗi thuộc về nhà sản xuất, nhưng thực tế lại yêu cầu người tiêu dùng phải làm điều này Quan điểm của tác giả cho rằng cách giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm là không thuyết phục.

Bà Thuyên đã kháng cáo bản án sơ thẩm số 166/2015/DS-PT ngày 12/8/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến, cho rằng cơ sở bánh mì Minh Tuyến gây thiệt hại cho mình do không lưu trữ hồ sơ về thực phẩm và mức độ an toàn thực phẩm Tòa án xác định bà Tuyến có trách nhiệm chứng minh thiệt hại, nhưng bà không thể làm điều đó, dẫn đến việc bà phải bồi thường cho bà Thuyên 31 Bản án phúc thẩm chỉ khẳng định hàng hóa không đảm bảo chất lượng là của cơ sở bánh mì Minh Tuyến và yêu cầu cơ sở này bồi thường cho bà Thuyên, nhưng không có thêm thông tin gì khác.

31 Phụ lục 06: Bản án dân sự phúc thẩm số 166/2015/DS-PT ngày 12/8/2015 của TAND tỉnh Bến Tre về việc bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

Tòa án xác định rằng bà Tuyến có lỗi trong việc không lưu trữ hồ sơ, tuy nhiên, yếu tố lỗi của bà không cần thiết để xem xét Cơ sở Minh Tuyến đã gây thiệt hại cho bà Thuyên, do đó, tòa án sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường cho bà Thuyên mà không cần xem xét yếu tố lỗi.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:04

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w