NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN ĐƯỢC HƯỞNG QUYỀN VÀ LỢI ÍCH CỦA CÁC QUỐC GIA KHÔNG CÓ BIỂN VÀ BẤT LỢI VỀ ĐỊA LÝ
Quy định của Công ước Luật biển 1982 về quốc gia không có biển và quốc gia bất lợi về địa lý
và quốc gia bất lợi về địa lý
1.1.1 Quốc gia không có biển
Công ước Luật biển 1982 định nghĩa “quốc gia không có biển” là những quốc gia không có bờ biển, tức là không có đất liền tiếp giáp với biển "Biển" ở đây không chỉ bao gồm các đại dương lớn mà còn cả các vũng, vịnh có cửa biển thông ra đại dương Các biển nằm sâu trong nội địa, mặc dù được gọi là “biển”, nhưng thực chất chỉ là hồ nước mặn và những quốc gia giáp với chúng vẫn được coi là quốc gia không giáp biển Ví dụ, biển A-ral ở Trung Á là một bồn địa với nhiều hồ nước mặn, và các quốc gia như Kazakhstan, Uzbekistan giáp với biển này đều không có biển Tương tự, Biển Caspi, hồ nước lớn nhất thế giới, nằm giữa Nga và Iran, cũng có các quốc gia như Azerbaijan, Kazakhstan, Turkmenistan là những quốc gia không có biển.
4 Công ước Luật biển 1982, Điều 124, khoản 1, điểm a
5 Ngô Hữu Phước, Lê Đức Phương (2011), Hỏi đáp chủ quyền biển đảo trong luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam, NXB Lao động, Hà Nội, tr.33
6 [http://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83n_Aral] (truy cập ngày 05/06/2015)
7 [http://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83n_Caspi] (truy cập ngày 05/06/2015)
Căn cứ và vị trí địa lý của quốc gia không có biển thì các quốc gia không có biển có thể được phân chia như sau:
Quốc gia không giáp biển theo hình thức "đơn lẻ" là những quốc gia không có bờ biển, nhưng lại tiếp giáp với các quốc gia khác đều là những quốc gia có bờ biển.
Quốc gia không giáp biển “kép” là những quốc gia hoàn toàn bị bao quanh bởi các quốc gia khác cũng không có biển Điều này có nghĩa là những quốc gia này không có bất kỳ lối ra nào ra biển, tạo thành một vùng đất khép kín giữa các quốc gia không giáp biển khác.
"Kép" cần phải vượt qua ít nhất hai biên giới quốc gia để tiếp cận biển Hiện nay, trên thế giới có khoảng 42 quốc gia không giáp biển, trong đó châu Á có 12 quốc gia, châu Âu có 13 quốc gia, châu Phi có 15 quốc gia và châu Mỹ Latinh có 2 quốc gia.
1.1.2 Quốc gia bất lợi về địa lý
Khác với thuật ngữ “quốc gia không có biển”, định nghĩa về “quốc gia bất lợi về địa lý” vẫn chưa rõ ràng Theo Công ước Luật biển 1982, “quốc gia bất lợi về mặt địa lý” được hiểu là các quốc gia ven biển, bao gồm cả những quốc gia bên bờ biển kín hoặc nửa kín, mà vị trí địa lý khiến họ phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên sinh vật từ vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác để đảm bảo nguồn thực phẩm cho dân cư Tuy nhiên, Công ước này chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về “quốc gia bất lợi về địa lý”, mà chỉ cung cấp các tiêu chí để xác định liệu một quốc gia có thuộc loại này hay không.
Theo Công ước Luật biển 1982, “quốc gia bất lợi về địa lý” chủ yếu là các quốc gia ven biển, tức là những quốc gia có đất liền tiếp giáp với biển.
8 [http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c_gia_kh%C3%B4ng_gi%C3%A1p_bi%E1%BB%83n](truy cập ngày 05/06/2015)
9 [http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c_gia_kh%C3%B4ng_gi%C3%A1p_bi%E1%BB%83n] (truy cập ngày 05/06/2015)
10 Nguyễn Hồng Thao (1997), Những điều cần biết về luật biển, NXBCông an nhân dân, Hà Nội, tr.234
Công ước Luật biển 1982, Điều 70 khoản 2, quy định rằng các quốc gia ven biển bao gồm không chỉ các quốc gia ven các đại dương lớn mà còn cả những quốc gia nằm cạnh các "biển kín" hoặc "nửa kín" Điều này đã loại trừ hoàn toàn khả năng phân loại "quốc gia bất lợi về địa lý" như là những quốc gia không có biển Mặc dù Công ước không đưa ra định nghĩa cụ thể cho "biển kín", nhưng quy định này vẫn mở rộng khái niệm về quyền lợi và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển.
Biển nửa kín là khái niệm chỉ những vùng biển như vịnh hay vũng, được bao quanh bởi nhiều quốc gia và kết nối với biển khác hoặc đại dương qua một cửa hẹp Những vùng biển này có thể được hình thành chủ yếu từ lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác nhau.
Quốc gia bất lợi về địa lý là những quốc gia ven biển nhưng có vị trí địa lý khiến họ phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên sinh vật từ các vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia khác Điều này có nghĩa là họ không thể tự tạo ra nguồn thực phẩm đủ cho dân cư, hoặc không có vùng đặc quyền kinh tế riêng để phát triển.
Nghiên cứu Công ước Luật biển 1982 chỉ ra rằng yếu tố “địa lý bất lợi” của quốc gia ven biển liên quan đến vị trí của họ bên cạnh các vũng, vịnh và vùng biển đặc thù Những khu vực này thường bị bao quanh bởi nhiều quốc gia và kết nối với các biển, đại dương khác thông qua cửa biển hẹp Đồng thời, các vũng, vịnh và vùng biển này cũng có thể hoàn toàn được hình thành từ lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển Trên thế giới hiện nay, có rất nhiều vũng, vịnh và vùng biển mang đặc điểm này.
Có thể liệt kê một số vũng, vịnh và vùng biển tiêu biểu, trong đó vịnh Peria (vịnh Péc-xích), còn được gọi là vịnh Ả Rập hay vịnh Ba Tư, là một vùng nước nông của Ấn Độ Dương, nằm giữa bán đảo Ả Rập và Tây Nam Iran Vịnh Peria có tổng diện tích khoảng 251.000 km², với phần rộng nhất của vịnh này.
989 km từ bờ biển phíaIran tới Saudi Arabia (Ả Rập Saudi), nơi hẹp nhất là 56 km ở
Công ước Luật biển 1982, Điều 122, đề cập đến eo Hormuzt, cửa ngõ quan trọng kết nối vịnh Peria với Ấn Độ Dương Vịnh Peria được bao quanh bởi bảy quốc gia: Kuwait, Iraq, Iran, Saudi Arabia, Qatar, Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống Nhất và một phần Oman Tại Đông Nam Á, vịnh Thái Lan, còn gọi là vịnh Xiêm, là một vùng biển nửa kín với diện tích khoảng 300.000 km², được giới hạn bởi bờ biển của bốn quốc gia: Thái Lan, Việt Nam, Malaysia và Campuchia Vịnh này thông ra Biển Đông ở phía Nam qua một mũi duy nhất, giữa mũi Cà Mau và mũi Trenggranu, cách nhau khoảng 400 km (khoảng 215 hải lý) Mặc dù vịnh có chiều dài khoảng 450 hải lý, nhưng diện tích của nó lại khá nhỏ với chiều rộng trung bình.
Theo quy định của Công ước Luật biển 1982, toàn bộ vịnh có thể mở rộng quyền tài phán của các quốc gia tới 200 hải lý, dẫn đến sự chồng lấn vùng biển giữa Thái Lan và Việt Nam với diện tích khoảng 6.074 km² Địa Trung Hải, một phần của Đại Tây Dương, được bao quanh bởi châu Âu, châu Phi và châu Á, có diện tích 2.509.000 km², chiều dài Đông-Tây là 4.000 km và chiều rộng trung bình 800 km Khu vực này thông với Đại Tây Dương qua eo biển Gibraltar và được bao bọc bởi 21 quốc gia.
Các quốc gia ven biển không được hưởng trọn vẹn quyền lợi từ các vùng biển theo quy định của Công ước Luật biển 1982 do vị trí địa lý đặc thù Họ phải chia sẻ diện tích lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế, dẫn đến việc không thể có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý hoặc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý riêng biệt.
13 [http://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8Bnh_Ba_T%C6%B0] (truy cập ngày 05/06/2015)
14 Ngô Hữu Phước (2013), Luật quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.236
15 Nguyễn Hồng Thao (2008), Công ước Luật biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.122
16 Tây Ban Nha, Pháp, Monaco, Italia, Slovekia, Crotia, Thổ Nhĩ Kỳ, Hi Lạp, Ai Cập, Syria, Israel, Lybia, Maroc…
17 [http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Ba_Trung_H%E1%BA%A3i] (truy cập ngày 05/06/2015)
Các quốc gia ven biển gặp khó khăn trong việc khai thác tài nguyên sinh vật từ vùng biển, dẫn đến việc họ phải phụ thuộc vào nguồn tài nguyên từ vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác để đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho dân cư Điều này khiến những quốc gia này bị xếp vào nhóm “quốc gia bất lợi về địa lý” Tuy nhiên, nếu một quốc gia ven biển có vị trí bất lợi nhưng vẫn có thể tự cung cấp thực phẩm mà không cần dựa vào khai thác tài nguyên từ các quốc gia khác, thì quốc gia đó sẽ không bị coi là “quốc gia bất lợi về địa lý” Ví dụ, Thái Lan và Campuchia, mặc dù nằm ở ven bờ vịnh Thái Lan, nhưng không phụ thuộc vào khai thác từ vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia khác để đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho dân cư.
Quyền và lợi ích của quốc gia không có biển và bất lợi về địa lý qua các
1.2.1 Giai đoạn trước khi Công ước Luật biển 1982 ra đời
Thời kỳ trước khi Công ước Luật biển 1982 ra đời có thể được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn đầu tiên là thời kỳ trước khi các Hội nghị Luật biển được tổ chức, và giai đoạn thứ hai là từ khi các Hội nghị Luật biển được triệu tập cho đến khi Công ước Luật biển 1982 chính thức ra đời.
Trong giai đoạn đầu, trước khi Luật biển được hình thành, các quốc gia chủ yếu tuân thủ nguyên tắc tự do biển cả và tập quán lãnh hải 3 hải lý do các nước đế quốc phương Tây áp đặt Thời kỳ này, biển được chia thành hai phần chính: lãnh hải rộng 3 hải lý, khu vực dưới sự kiểm soát của quốc gia ven biển.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Hồng Thao, biển được quản lý theo các quy định về thuế quan, đánh bắt cá và bảo vệ an ninh quốc gia, trong khi phần lớn biển cả được đặt dưới chế độ tự do, cho phép tất cả các quốc gia khai thác và sử dụng một cách bình đẳng Mặc dù nguyên tắc tự do biển cả được áp dụng, các quốc gia không có biển hoặc có vị trí địa lý bất lợi khó có thể hưởng quyền lợi tối đa Thực tế cho thấy, quyền lợi từ chế độ tự do biển cả chủ yếu thuộc về các nước đế quốc và thực dân như Anh, Pháp, Mỹ và Bồ Đào Nha, nhờ vào đội thương thuyền và hải quân phát triển mạnh mẽ Ngược lại, các quốc gia không có biển hoặc không thuận lợi về vị trí hầu như không có tiềm lực hàng hải và không thể tiếp cận quyền tự do này.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các yếu tố kinh tế và chính trị đã khiến các quốc gia nhận ra rằng nguyên tắc tự do biển cả và lãnh hải 3 hải lý không còn phù hợp Điều này dẫn đến việc triệu tập các Hội nghị Luật Biển nhằm xác định lại các vùng biển, bắt đầu với Hội nghị La Haye 1930 của Hội quốc liên Tuy nhiên, do mâu thuẫn về quyền lợi, các quốc gia chỉ đạt được một thỏa thuận ngầm rằng "3 hải lý là chiều rộng tối thiểu, chứ không phải tối đa của hải phận", mà chưa thống nhất được các quy định mang tính đột phá so với tập quán truyền thống.
19 Phạm Giảng (1983), “Công ước mới về luật biển”, NXB Pháp lý, (01), tr.26
Sau đó, Liên Hợp Quốc đã triệu tập ba Hội nghị quốc tế lớn để pháp điển hóa Luật biển
Hội nghị Genève 1958 là hội nghị đầu tiên của Liên Hợp Quốc về Luật biển, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc pháp điển hóa Luật biển Sau hơn hai tháng thảo luận và đạt được thỏa thuận, hội nghị đã thông qua bốn công ước liên quan đến biển.
Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp;
Công ước về thềm lục địa;
Công ước về biển cả;
Công ước về đánh cá và bảo quản các tài nguyên sinh vật biển;
Các Công ước Luật biển, được hình thành từ Hội nghị quốc tế về Luật biển lần thứ nhất, đã chính thức hóa các quy định về luật biển dựa trên những tập quán lâu đời Lần đầu tiên, quyền và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển được quy định cụ thể, trở thành quy phạm pháp lý Đồng thời, quyền lợi của các quốc gia không có biển và những quốc gia có bất lợi về địa lý cũng được công nhận Tại vùng biển quốc tế, các quốc gia này có quyền bình đẳng trong việc khai thác và quản lý biển theo nguyên tắc tự do biển cả Trong vùng lãnh hải, họ được hưởng quyền đi qua không gây hại, quyền ra vào biển, cũng như quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên và nghiên cứu khoa học biển nếu được sự cho phép của quốc gia ven biển.
21 Công ước 1958 về biển quốc tế, Điều 1
22 Công ước 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Điều 14khoản 1
23 Công ước 1958 vềbiển quốc tế, Điều 3
24 Công ước lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải 1958, Điều 16 khoản 4
25 Công ước 1958 về thềm lục địa,Điều 2 khoản 1 và khoản 2, Điều 5 khoản 8
26 Công ước 1958 về thềm lục địa, Điều 4
Các Công ước Genève 1958 đánh dấu lần đầu tiên pháp điển hóa quy định về luật biển dựa trên các tập quán lâu đời, nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế Nhiều vấn đề quyền lợi giữa các nhóm quốc gia chưa được giải quyết triệt để, dẫn đến tình trạng áp đặt Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các quốc gia không có biển và những quốc gia gặp bất lợi về địa lý.
Năm 1958, khái niệm về quốc gia không có biển chưa được định nghĩa rõ ràng và vấn đề về các quốc gia gặp bất lợi về địa lý cũng không được đề cập nhiều Hơn nữa, các quyền lợi và lợi ích mà các quốc gia không có biển được hưởng vẫn còn rất hạn chế.
Sau những hạn chế tại Hội nghị Luật biển lần thứ nhất, Liên hiệp quốc đã tổ chức Hội nghị quốc tế lần hai nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn đọng Tuy nhiên, do mâu thuẫn về quyền lợi giữa các quốc gia, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết Trước tình hình đó, Liên Hợp Quốc đã triệu tập Hội nghị quốc tế lần thứ ba, từ đó dẫn đến sự ra đời của Công ước Luật biển 1982.
1.2.2 Giai đoạn từ khi Công ƣớc Luật biển 1982 ra đời- sự kế thừa và phát triển trong việc ghi nhận những quyền lợi dành cho các quốc gia không có biển và bất lợi về địa lý trong Công ƣớc Luật biển mới so với Luật biển truyền thống
Công ước Luật biển 1982, với 320 điều khoản, 17 phần và 9 phụ lục, được xem như bản hiến pháp mới về biển và đại dương của cộng đồng quốc tế Công ước này quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các quốc gia, bao gồm cả quốc gia có biển và không có biển, trên các vùng biển quốc gia và quốc tế, bất kể trình độ phát triển hay chế độ kinh tế - xã hội khác nhau.
Công ước Luật biển 1982 đã phân định lại các vùng biển và quy định rõ quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các quốc gia ven biển, đồng thời ghi nhận quyền và lợi ích của các quốc gia không có biển, nhằm khắc phục bất lợi về địa lý Những quyền lợi này không chỉ kế thừa từ các Công ước Genève 1958 mà còn được phát triển và bổ sung thêm.
Quyền đi qua vô hại của tàu thuyền trong lãnh hải của quốc gia ven biển vẫn giữ nguyên mặc dù lãnh hải đã mở rộng thành 12 hải lý Điều này thể hiện sự kế thừa từ Công ước Genève 1958 về lãnh hải và các nguyên tắc tập quán Trong các vùng biển đặc thù như eo biển quốc tế, Công ước Luật biển 1982 không chỉ ghi nhận quyền đi qua không gây hại mà còn công nhận quyền quá cảnh của tất cả các quốc gia, bao gồm cả các quốc gia không có biển và có địa lý bất lợi Đặc biệt, Công ước Luật biển 1982 lần đầu tiên xác nhận quyền đi qua vùng nước quần đảo của tất cả các quốc gia trong quốc gia quần đảo.
Công ước Luật biển 1982 công nhận quyền đi ra biển và từ biển vào của các quốc gia không có biển, không phụ thuộc vào các hiệp định tay đôi hay nguyên tắc "có đi có lại" với quốc gia ven biển Điều này đánh dấu sự khác biệt so với luật biển truyền thống, khi mà quyền này được quy định một cách rõ ràng và vô điều kiện cho các quốc gia không có biển.
Năm 1982, chế độ quá cảnh được thiết lập cho các quốc gia không có biển, với khái niệm "quá cảnh" không phải là quyền mà chỉ là "tự do" Các quốc gia không có biển và quốc gia ven biển sẽ thỏa thuận về chế độ quá cảnh này thông qua các hiệp định song phương, phân khu hoặc khu vực.
27 Công ước Luật biển 1982, Điều 3
28 Công ước Luật biển 1982, Điều 17
29 Công ước Luật biển 1982, Điều 45
30 Công ước Luật biển 1982, Điều 38
31 Công ước Luật biển 1982, Điều 53
32 Công ước Luật biển 1982, Điếu 125
33 Công ước Luật biển 1982, Điều 125 khoản 1
34 Công ước Luật biển 1982, Điều 125 khoản 2
PHẠM VI QUYỀN VÀ LỢI ÍCH MÀ CÁC QUỐC GIA KHÔNG CÓ BIỂN VÀ BẤT LỢI VỀ ĐỊA LÝ ĐƯỢC HƯỞNG TRONG CÁC VÙNG BIỂN KHÁC NHAU THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƢỚC LUẬT BIỂN 1982
Phạm vi quyền và lợi ích mà các quốc gia không có biển và bất lợi vềđịa lý được hưởng trong vùng lãnh hải của quốc gia ven biển
Theo Công ước Luật biển 1982, lãnh hải là vùng biển có tính chất pháp lý lưỡng cực, trong đó quốc gia ven biển có chủ quyền nhưng không hoàn toàn tuyệt đối Quốc gia ven biển được hưởng quyền chủ quyền đầy đủ, nhưng phải tôn trọng quyền tự do hàng hải của tàu thuyền nước ngoài, miễn là không gây hại.
2.1.1 Quyền đi qua không gây hại Điều 17 Công ước Luật biển 1982 quy định: “tàu thuyền của tất cả các quốc gia, có biển hay không có biển, đều được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải” Thuật ngữ “đi qua” theo quy định của Công ước Luật biển 1982 gồm ba trường hợp: thứ nhất: đi qua lãnh hải mà không vào nội thủy; thứ hai: đi qua lãnh hải để vào nội thủy; thứ ba: đi qua lãnh hải sau khi vào nội thủy để ra biển 49 Thuật ngữ “đi qua” đã từng được quy định tại Công ước Genève 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp 50 Tuy nhiên, định nghĩa về thuật ngữ “đi qua” của Công ước Genève 1958 chỉ đề cập đến các đường hàng hải mà không đề cập đến quy chế pháp lý của hoạt động này Công ước Luật biển 1982, Điều 18 khoản 2 đã bổ sung thêm hai điểm mới liên quan đến quy chế pháp lý của việc “đi qua”: thứ nhất: việc đi qua phải liên tục và nhanh chóng; thứ hai: việc đi qua bao gồm cả việc dừng lại và thả neo, nhưng chỉ trong trường hợp gặp phải những sự cố thông thường về hàng hải hoặc vì
48 Nguyễn Hồng Thao, Sđd (10), tr 46
49 Công ước Luật biển 1982, Điều 18 khoản 2
Công ước Geneve 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp quy định tại Điều 14 khoản 2 rằng trong trường hợp bất khả kháng hoặc khi cần cứu hộ người, tàu thuyền hay phương tiện bay đang gặp nạn, các biện pháp cần thiết phải được thực hiện Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ an toàn cho những người và phương tiện đang gặp nguy hiểm trên biển, đồng thời tuân thủ các quy định của Công ước Luật biển.
Năm 1982, thuật ngữ “đi qua không gây hại” được quy định rõ ràng, nhấn mạnh rằng việc đi qua chỉ được phép khi không làm tổn hại đến hòa bình, trật tự hoặc an ninh của quốc gia ven biển Điều 19 của Công ước liệt kê nhiều hành động mà tàu nước ngoài không được phép thực hiện trong vùng lãnh hải của quốc gia ven biển, bao gồm: đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại chính quyền, luyện tập với vũ khí, thu thập tình báo gây hại, phóng hoặc tiếp nhận phương tiện bay và quân sự, tuyên truyền gây hại đến an ninh, vi phạm quy định về hải quan và y tế, gây ô nhiễm nghiêm trọng, đánh bắt hải sản, nghiên cứu hay đo đạc, làm rối loạn hệ thống giao thông và các hoạt động không liên quan trực tiếp đến việc đi qua.
51 Nguyễn Hồng Thao, Sđd (10), tr.72
52 Công ước Luật biển 1982, Điều 19 khoản 1
53 Công ước Luật biển 1982, Điều 19 khoản 2
Khi thuyền nước ngoài đi qua mà không vi phạm quy định, việc này được xem là đi qua không gây hại Quyền đi qua không gây hại là quyền chung của tất cả tàu thuyền các quốc gia, không phân biệt đối xử Để bảo đảm quyền này, Điều 24 Công ước Luật biển 1982 quy định một số nghĩa vụ cho quốc gia ven biển.
1 Quốc gia ven biển không được cản trở quyền đi qua không gây hại của các tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải, ngoài những trường hợp mà Công ước đã trù định Đặc biệt khi áp dụng Công ước, quốc gia ben biển không được: a) Áp đặt cho các tàu thuyền nước ngoài những nghĩa vụ dẫn đến việc cản trở hay hạn chế việc thực hiện quyền đi qua không gây hại của các tàu thuyền này; b) Phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối với các tàu thuyền chở hàng từ một quốc gia nhất định hay đến quốc gia đó hoặc nhân danh một quốc gia nhất định
2 Quốc gia ven biển thông báo thích đáng mọi nguy hiểm về hàng hải của mình biết trong lãnh hải của mình
Công ước quy định rằng các quốc gia ven biển có trách nhiệm đảm bảo an toàn hàng hải bằng cách xác định các tuyến đường hàng hải mà tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ khi đi qua lãnh hải của họ Các tuyến đường này cần được ghi rõ trên hải đồ và công bố theo quy trình hợp lệ Đồng thời, các quốc gia ven biển không được phép thu lệ phí từ tàu thuyền nước ngoài khi họ di chuyển qua lãnh hải.
Theo Điều 17 của Công ước Luật Biển 1982, tàu quân sự của tất cả các quốc gia, bao gồm cả quốc gia có biển và không có biển, đều được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải, với điều kiện phải tuân thủ các quy định của Công ước Điều này được quy định trong tiểu mục A, nơi nêu rõ các quy tắc áp dụng chung cho tất cả các loại tàu thuyền, mặc dù không có quy định cụ thể cho tàu quân sự.
54 Công ước Luật biển 1982, Điều 22 khoản 1
Công ước Luật biển 1982, Điều 26 khoản 1, ghi nhận quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải của tất cả các loại tàu thuyền, bao gồm cả tàu dân sự và tàu quân sự, của các quốc gia khác.
2.1.2 Quyền nghiên cứu khoa học biển
Công ước Luật biển 1982 không định nghĩa chính thức về “nghiên cứu khoa học biển”, nhưng có thể hiểu là các hoạt động nhằm nâng cao hiểu biết về môi trường biển và quá trình tiến hóa của nó Tất cả các quốc gia và tổ chức quốc tế có thể tiến hành nghiên cứu khoa học biển, miễn là tôn trọng chủ quyền của quốc gia ven biển Quốc gia ven biển có quyền quy định và cho phép nghiên cứu trong lãnh hải của mình, và các quốc gia khác chỉ được thực hiện nghiên cứu dưới sự “thỏa thuận rõ ràng” với quốc gia ven biển Điều này có nghĩa là cần có sự đồng ý của quốc gia ven biển trong một thời hạn nhất định Quyền đi qua vô hại là một ngoại lệ duy nhất cho các quốc gia không có biển, áp dụng cho tất cả tàu thuyền, và họ cũng có thể tiến hành nghiên cứu khoa học biển nếu được sự đồng ý rõ ràng từ quốc gia ven biển.
56 Nguyễn Hồng Thao, Sđd (10), tr.150
57 Công ước Luật biển 1982, Điều 245
Bài viết của Nguyễn Văn Nghĩa (2007) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện pháp luật biển Việt Nam liên quan đến nghiên cứu khoa học biển theo Công ước Luật biển Theo đó, các quốc gia không có biển và có địa lý bất lợi không được phép thực hiện bất kỳ hoạt động nào trong vùng lãnh hải của quốc gia ven biển.
2.1.3 Quyền lợi tại eo biển quốc tế, vùng nước quần đảo Điều 37 Công ước Luật biển 1982 đã định nghĩa về eo biển quốc tế như sau: eo biển quốc tế là “eo biển dùng cho hàng hải quốc tế giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế và giữa một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế” Công ước cũng đã định nghĩa về vùng nước quần đảo, đó là “vùng nước ớ phía trong đường cơ sở do quốc gia quần đảo đã vạch ra” 59 Từ những định nghĩa trên có thể thấy rằng eo biển quốc tế và vùng nước quần đảo là những khu vực có vị trí địa lý khá đặc thù Đây là những vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia ven biển nhưng đó lại là những tuyến hàng hải quan trọng của thế giới Một số eo biển quốc tế có vai trò và ý nghĩa là những đường thông thương duy nhất nối liền các vùng biển và các khu vực đại dương rộng lớn trên thế giới 60 Do đó, các vùng biển này không đơn thuần thuộc về các quốc gia ven biển mà còn có ý nghĩa quan trọngđối với cộng đồng quốc tế Vì vậy, chế độ pháp lý tại các khu vực này phải được xây dựng trên cơ sở kết hợp các lợi ích của quốc gia ven biển và lợi ích của cộng đồng quốc tế
Công ước Luật biển 1982 đã thiết lập chế độ đi qua vô hại tại các eo biển quốc tế và vùng nước quần đảo, nhằm dung hòa lợi ích giữa các quốc gia Theo đó, tàu thuyền nước ngoài có quyền đi qua không gây hại tại các khu vực này Tuy nhiên, quyền đi qua không gây hại tại vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo bị hạn chế hơn so với quyền đi qua tại eo biển quốc tế Điều này cho thấy sự khác biệt trong quy định về quyền đi lại giữa hai khu vực này.
59 Công ước Luật biển 1982, Điều 49khoản 1
60 Lê Quốc Hùng (1978), “Mấy vấn đề pháp lý về eo biển quốc tế”, NXBPháp lý, (02), tr.56
61 Công ước Luật biển 1982, Điều 45
Theo Điều 52 của Công ước Luật biển 1982, các đảo và quốc gia ven biển có quyền tạm thời đình chỉ quyền đi qua không gây hại trong một số trường hợp nhất định Tuy nhiên, tại các vùng eo biển quốc tế, quyền đi qua không gây hại không thể bị đình chỉ.
Công ước Luật biển 1982 xác nhận quyền "quá cảnh" tại các eo biển quốc tế và quyền "đi qua vùng nước quần đảo" của các quốc gia quần đảo Chế độ "quá cảnh" tại eo biển quốc tế khác biệt với chế độ "đi qua vô hại" trong lãnh hải, nhưng tương tự với chế độ "đi qua vùng nước quần đảo" Quyền quá cảnh và quyền đi qua vùng nước quần đảo áp dụng cho cả tàu thuyền và phương tiện bay, trong khi quyền đi qua vô hại chỉ dành cho tàu thuyền.
Phạm vi quyền và lợi ích mà các quốc gia không có biển và bất lợi về địa lý được hưởng trong vùng tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
về địa lý được hưởng trong vùng tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
Vùng đặc quyền kinh tế, được xác lập tại Công ước Luật biển 1982, khác biệt so với vùng tiếp giáp lãnh hải và thềm lục địa đã tồn tại trong các Công ước Genève 1958.
Vùng đặc quyền kinh tế không phải là biển cả hay lãnh hải, mà là một khu vực đặc thù với chế độ pháp lý riêng Theo Điều 55 Công ước Luật biển 1982, vùng đặc quyền kinh tế được xác định với các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, đồng thời đảm bảo quyền tự do cho các quốc gia khác.
77 Trần Phú Vinh, Sđd (01), tr.47
78 Công ước Luật biển 1982, Điều 70 khoản 2
Theo Công ước Luật biển 1982, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa đều thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển Quốc gia này có quyền thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên, cũng như quyền tài phán về việc lắp đặt và sử dụng các đảo, công trình và thiết bị trên biển, và nghiên cứu khoa học biển Tuy nhiên, quyền tự do hàng hải, hàng không, đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, cùng với quyền sử dụng biển cho các mục đích hợp pháp quốc tế vẫn được đảm bảo trong những vùng biển này.
2.2.1 Quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, đặt dây cáp và ống dẫn ngầm
Tất cả các quốc gia, bao gồm cả những quốc gia không có biển và gặp bất lợi về địa lý, đều được hưởng quyền tự do hàng hải, hàng không, cũng như quyền đặt dây cáp và ống dẫn ngầm tại vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển Trong vùng thềm lục địa, các quốc gia không có biển và bất lợi về địa lý vẫn duy trì quyền tự do hàng hải và hàng không Tuy nhiên, việc đặt ống dẫn ngầm sẽ gặp một số hạn chế, yêu cầu các quốc gia này cần có sự thỏa thuận với quốc gia ven biển để thực hiện việc đặt ống dẫn ngầm trong khu vực thềm lục địa.
2.2.2 Quyền xây dựng đảo nhân tạo và các công trình, thiết bị trên biển
Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có quyền tài phán xây dựng các đảo nhân tạo và các công trình khác Quyền tài phán này không chỉ áp dụng cho các công trình trong cột nước mà còn mở rộng ra các đảo nhân tạo.
79 Công ước Luật biển 1982, Điều 56 khoản 1
80 Công ước Luật biển 1982, Điều 58 khoản 1
81 Công ước Luật biển 1982, Điều 58 khoản 1
82 Công ước Luật biển 1982, Điều 78 khoản 1
83 Công ước Luật biển 1982, Điều 79 khoản 3
Theo Điều 60 của Công ước Luật biển 1982, quyền tài phán đối với thiết bị trên đáy biển và lòng đất dưới đáy biển trong vùng đặc quyền kinh tế thuộc về quốc gia ven biển Quốc gia này có đặc quyền xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng các đảo nhân tạo, công trình và thiết bị trong khu vực này Do đó, các quốc gia khác, đặc biệt là những quốc gia không có biển và gặp bất lợi về địa lý, chỉ có thể hưởng quyền này khi được sự cho phép của quốc gia ven biển.
2.2.3 Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên
Chế độ khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế đã trở thành chủ đề quan trọng tại Hội nghị lần thứ III về Luật biển của Liên Hợp Quốc, nơi các nước không có biển và bất lợi về địa lý yêu cầu quyền khai thác tài nguyên một cách bình đẳng Một số quốc gia đòi quyền đánh cá, trong khi những nước khác còn muốn khai thác cả khoáng sản Ban đầu, các nước ven biển khẳng định quyền khai thác tối đa tài nguyên của mình, nhưng trước sức ép từ các nước không có biển, họ đã phải nhượng bộ, chấp nhận cho phép khai thác tài nguyên sinh vật với điều kiện dựa trên thỏa thuận giữa các bên liên quan.
Công ước Luật biển 1982 quy định rằng quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong việc thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên, bao gồm cả tài nguyên sinh vật và không sinh vật, trong vùng đặc quyền kinh tế của mình Quyền này áp dụng cho vùng nước trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
85 Công ước Luật biển 1982, Điều 82
86 Phạm Giảng (1978), “Những vấn đề cơ bản của Hội nghị quốc tế lần thứ III về luật biển”,NXB Pháp lý,
Quyền khai thác tài nguyên phi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa chỉ dành riêng cho các quốc gia ven biển, trong khi các quốc gia không có biển và bất lợi về địa lý không có cơ sở pháp lý để khai thác tài nguyên này Tuy nhiên, Công ước Luật biển 1982 cho phép các quốc gia này khai thác tài nguyên sinh vật thông qua việc đánh bắt số cá dư mà quốc gia ven biển công bố Các quốc gia ven biển phải xác định khối lượng đánh bắt hợp lý và thực hiện biện pháp bảo tồn để duy trì nguồn lợi sinh vật Nếu khả năng khai thác của quốc gia ven biển thấp hơn khối lượng cho phép, số dư có thể được chia sẻ với các quốc gia khác, đặc biệt là nhóm quốc gia không có biển và bất lợi về địa lý, được ưu tiên tiếp cận nguồn cá sau quốc gia ven biển.
88 Công ước Luật biển 1982, Điều 56 khoản 1
89 Trần Phú Vinh, Sđd (01), tr.48
Công ước Luật biển 1982 quy định tại Điều 62 khoản 2 rằng quốc gia ven biển có quyền quyết định cho phép các quốc gia khác khai thác tài nguyên cá trong vùng đặc quyền kinh tế của mình Điều 69 và 70 cụ thể hóa quyền này, cho phép các quốc gia không có biển và bất lợi về địa lý tham gia khai thác một phần tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển, với điều kiện phải công bằng và phù hợp với các đặc điểm kinh tế và địa lý của tất cả các quốc gia liên quan Các điều kiện và thể thức tham gia sẽ được xác định thông qua các thỏa thuận song phương hoặc khu vực Ngoài ra, nếu khả năng đánh bắt của quốc gia ven biển đủ để đáp ứng nhu cầu, nhưng không còn "số dư" cho các quốc gia khác, thì quốc gia ven biển và các quốc gia hữu quan cần hợp tác để ký kết các thỏa thuận công bằng, nhằm tạo điều kiện cho các quốc gia đang phát triển không có biển tham gia khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của họ.
Công ước Luật biển 1982 đảm bảo sự công bằng trong việc phân chia quyền khai thác nguồn cá dư giữa các quốc gia ven biển và các quốc gia không có biển hoặc gặp bất lợi về địa lý Các quốc gia không có biển và đang phát triển có quyền khai thác tài nguyên cá trong vùng đặc quyền kinh tế của cả quốc gia phát triển và đang phát triển trong cùng khu vực Ngược lại, các quốc gia không có biển hoặc gặp bất lợi về địa lý nhưng đã phát triển chỉ được phép tham gia khai thác tài nguyên sinh vật biển với những giới hạn nhất định.
91 Công ước Luật biển 1982, Điều 62 khoản 3 vật trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia phát triển trong cùng phân khu hoặc khu vực mà thôi 92
Công ước Luật biển 1982 đã công nhận quyền lợi cho các quốc gia không có biển và những bất lợi địa lý trong việc khai thác nguồn lợi cá trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển Tuy nhiên, quyền này cũng đi kèm với một số hạn chế nhất định.
Hạn chế trong việc tiếp cận nguồn tài nguyên cá đối với các quốc gia không có biển và bất lợi về địa lý trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển chủ yếu phát sinh từ việc các quốc gia ven biển tự xác định lượng cá thừa Công ước dành quyền tự do cho các quốc gia ven biển trong việc quyết định lượng cá đánh bắt cho phép và xác định lượng cá thừa, mà không có quy định bắt buộc nào để họ phải cho phép các quốc gia khác tiếp cận lượng cá dư thừa Cơ quan hòa giải chỉ có thể khuyến nghị, nhưng quốc gia ven biển có quyền từ chối Do đó, nếu quốc gia ven biển không muốn chia sẻ cá thừa, họ chỉ cần không tuyên bố có lượng cá thừa hoặc tuyên bố không có Việc tuyên bố này hoàn toàn phụ thuộc vào lợi ích và chính sách của quốc gia ven biển, đặc biệt là đối với những quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc vào khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế.
“lệ thuộc nặng nề” là tùy vào sự đánh giá chủ quan của chính quốc gia ven biển đó
92 Trần Phú Vinh (2002), “Luật biển quốc tế và lợi ích của các quốc gia đang phát triển”, Tạp chí khoa học pháp lý, (07), tr.55
93 Phạm Thị Thu Hồng (2012), Quyền đánh cá trong công ước 1982, KLTN, tr.37
94 Nguyễn Trường Giang (2010), Luật quốc tế về đánh cá trên biển, NXBChính trị quốc gia, Hà Nội, tr.61
95 Công ước Luật biển 1982, Điều 71 và việc tuyên bố tình trạng “lệ thuộc nặng nề” cũng phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của quốc gia ven biển
Hạn chế thứ hai liên quan đến việc chuyển giao quyền lợi của các quốc gia không có biển và chịu bất lợi về địa lý Theo Khoản 1 Điều 71 của Công ước, quy định này được nêu rõ.
Các quyền khai thác tài nguyên sinh vật theo Điều 69 và 70 không được phép chuyển giao cho các quốc gia thứ ba hoặc công dân của họ, dưới bất kỳ hình thức nào như cho thuê, cấp giấy phép, thành lập liên doanh hay các thỏa thuận khác, trừ khi có sự đồng ý của các quốc gia liên quan Điều này có nghĩa là các quốc gia không có biển và gặp bất lợi về địa lý không thể chuyển nhượng quyền khai thác cho bên thứ ba nếu không có sự cho phép từ các quốc gia ven biển.
Phạm vi quyền và lợi ích mà các quốc gia không có biển và bất lợi về địa lý được hưởng trong vùng biển quốc tế
về địa lý được hưởng trong vùng biển quốc tế
Theo Điều 86 Công ước Luật biển 1982, vùng biển quốc tế bao gồm tất cả những vùng biển không thuộc lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay nội thủy của bất kỳ quốc gia nào, cũng như không nằm trong vùng nước của quốc gia quần đảo Chế độ pháp lý của biển quốc tế là chế độ tự do, nơi nguyên tắc tự do biển cả được thực hiện triệt để Tất cả các quốc gia, bất kể có biển hay không, đều có quyền tự do khai thác, sử dụng và quản lý biển cả trong khu vực này.
Công ước Genève 1958 về Biển cả đã xác định bốn quyền tự do quan trọng, bao gồm tự do hàng hải, tự do đánh bắt thủy hải sản, tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, cùng với tự do hàng không.
Công ước Luật biển 1982, theo Điều 87, quy định sáu quyền tự do biển cả, bao gồm: tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, tự do xây dựng đảo nhân tạo và các công trình thiết bị, tự do đánh bắt thủy hải sản, và tự do nghiên cứu khoa học biển.
So với các Công ước Genève 1958, Công ước Luật biển 1982 đã bổ sung hai quyền tự do mới: tự do xây dựng đảo nhân tạo và các công trình trên biển, cùng với tự do nghiên cứu khoa học biển Đồng thời, quyền tự do đánh bắt thủy hải sản, từng đứng thứ hai trong các Công ước Genève 1958, đã bị hạ xuống vị trí thấp hơn.
Công ước Geneve 1958 về Biển quốc tế, cụ thể là Điều 3, đã xác định vị trí thứ năm theo Công ước Luật biển 1982 Tuy nhiên, tầm quan trọng của vấn đề này đã giảm sút do sự xuất hiện của vùng đặc quyền kinh tế.
Tất cả các quốc gia, bao gồm cả những quốc gia không có biển và gặp bất lợi về địa lý, đều có quyền thực hiện quyền truy đuổi và quyền cảnh sát chung trên biển quốc tế Họ hợp tác với nhau để trấn áp các hành vi vi phạm trên biển như phát sóng trái phép, buôn bán nô lệ và cướp biển, nhằm bảo vệ quyền lợi của quốc gia cũng như lợi ích của cộng đồng quốc tế.
Tại vùng biển quốc tế, tất cả các quốc gia, bao gồm cả những quốc gia không có biển và gặp bất lợi về địa lý, đều có quyền tự do thực hiện các hoạt động được ghi nhận tại Điều 87 Tuy nhiên, quyền tự do này phải được thực hiện trong khuôn khổ không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các quốc gia khác, cũng như các quyền lợi đã được Công ước công nhận liên quan đến Vùng 112.
Phạm vi quyền và lợi ích mà các quốc gia không có biển và bất lợi về địa lý được hưởng trong khu vực đáy đại dương (Vùng)
về địa lý được hưởng trong khu vực đáy đại dương (Vùng)
Cũng giống như vùng đặc quyền kinh tế, Vùng – đáy đại dương là khu vực chỉ mới được xác lập tại Công ước Luật biển 1982
Theo Điều 1 khoản 1 của Công ước, "Vùng" được định nghĩa là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm dưới Biển quốc tế, ngoài các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia Công ước Luật biển 1982 tại Điều 136 đã bổ sung một khái niệm mới vào định nghĩa này, hình thành nên chế độ pháp lý của Vùng.
Vùng và tài nguyên của nó bao gồm các tài nguyên khoáng sản ở thể rắn, lỏng hoặc khí InSitu, bao gồm cả các khối đa kim nằm ở đáy đại dương và trong lòng đất dưới đáy, là di sản chung của loài người.
Chế độ của Vùng là di sản chung của nhân loại, không quốc gia nào có quyền đòi hỏi chủ quyền hay quyền chủ quyền đối với bất kỳ phần nào của Vùng hoặc tài nguyên của nó Hoạt động thăm dò và khai thác tài nguyên trong Vùng được quản lý và kiểm soát bởi một tổ chức quốc tế.
111 Nguyễn Hồng Thao, Sđd (10), tr 238
Công ước Luật biển 1982, Điều 87 khoản 2 nhấn mạnh rằng Cơ quan quyền lực có trách nhiệm đảm bảo phân chia công bằng các lợi ích tài chính và kinh tế từ các hoạt động trong Vùng, không phân biệt đối xử Phần XI của Công ước còn quy định những điều kiện thuận lợi cho các quốc gia không có biển và có địa lý bất lợi Cụ thể, Điều 140 khẳng định rằng các hoạt động trong Vùng phải phục vụ lợi ích của toàn thể nhân loại, bất kể vị trí địa lý của các quốc gia Điều 148 khuyến khích sự tham gia của các quốc gia đang phát triển vào các hoạt động trong Vùng, đồng thời lưu ý đến nhu cầu và lợi ích đặc biệt của các quốc gia này, đặc biệt là những quốc gia không có biển hoặc gặp khó khăn do vị trí địa lý bất lợi.
2.4.1 Cơ quan quyền lực quản lý Vùng
Theo Điều 156 của Công ước Luật biển 1982, tất cả các quốc gia thành viên của Công ước đều tự động trở thành thành viên của Cơ quan quyền lực.
Cơ quan quyền lực, theo Điều 157 của Công ước Luật biển 1982, là tổ chức mà các quốc gia thành viên sử dụng để tổ chức và kiểm soát các hoạt động diễn ra trong Vùng Tính chất và nguyên tắc hoạt động của cơ quan này được quy định rõ ràng, đảm bảo sự phối hợp và quản lý hiệu quả giữa các quốc gia trong việc khai thác và bảo vệ tài nguyên biển.
Theo Điều 1 Công ước Luật biển 1982, "Các hoạt động tiến hành trong Vùng" được hiểu là mọi hoạt động liên quan đến việc thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng Mục tiêu chính của Cơ quan quyền lực là kiểm soát và quản lý các tài nguyên cũng như hoạt động thăm dò và khai thác trong Vùng, nhằm đảm bảo việc sử dụng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển một cách công bằng và bình đẳng.
Theo Điều 148 của 113 Công ước Luật biển 1982, vùng và tài nguyên của Vùng được coi là di sản chung của nhân loại, yêu cầu tuân thủ nguyên tắc này Cơ quan quyền lực được thành lập dựa trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa tất cả các quốc gia thành viên, bao gồm các cơ cấu tổ chức như Đại hội đồng, Hội đồng, Ban thư ký và Xí nghiệp.
Sự bình đẳng giữa các quốc gia trong việc khai thác và quản lý Vùng được thể hiện qua cơ cấu tổ chức của Cơ quan quyền lực quản lý Vùng, đặc biệt là tại Đại hội đồng và Hội đồng Đại hội đồng, bao gồm tất cả các thành viên của Cơ quan quyền lực, là tổ chức cao nhất có chức năng tổ chức và kiểm soát các hoạt động diễn ra trong Vùng.
Hội đồng gồm 36 ủy viên được bầu ra bởi Đại hội đồng theo quy định phân chia địa lý phức tạp nhằm đảm bảo công bằng lợi ích giữa 115 quốc gia Điều 15 (d) Mục 3 Phụ lục của Thỏa thuận bổ sung 1994 quy định có 6 ủy viên đại diện cho các quốc gia đang phát triển với những lợi ích đặc biệt, bao gồm các quốc gia đông dân, không có biển, bất lợi về địa lý, quần đảo, và những quốc gia có tiềm năng khai thác khoáng sản trong Vùng Nhóm quốc gia không có biển đông dân sẽ có hai đại diện tại Hội đồng Công ước cũng yêu cầu khi bầu các ủy viên từ các quốc gia không có biển và bất lợi về địa lý, Đại hội đồng phải đảm bảo sự đại diện hợp lý tương ứng với số lượng tại Đại hội đồng Hội đồng được công nhận là cơ quan chấp hành của Cơ quan quyền lực với quyền hạn dựa trên Công ước và các chính sách chung.
114 Công ước Luật biển 1982, Điều 160 khoản 1
115 Công ước Luật biển 1982, Điều 161, Điều 15 Mục 3 Thỏa thuận 28/06/1994
116 Trần Phú Vinh, Sđd (01), tr.21
Theo Điều 161 khoản 2 của Công ước Luật biển 1982, Đại Hội Đồng có trách nhiệm xác định và thiết lập các chính sách riêng mà Cơ quan quyền lực phải tuân theo trong mọi vấn đề thuộc thẩm quyền của mình.
2.4.2 Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên trong Vùng
Theo Công ước Luật biển 1982, cơ quan quyền lực đại diện cho các quốc gia có quyền khai thác tài nguyên thông qua xí nghiệp của mình Đồng thời, họ cũng có thể ký kết hợp đồng với các quốc gia và thực thể khác, cho phép thăm dò, khai thác và kinh doanh trong khu vực quốc tế theo các điều kiện quy định của Công ước.
Các quốc gia và thực thể muốn thăm dò và khai thác kinh doanh trong khu vực quốc tế cần ký hợp đồng với Cơ quan quyền lực và tuân thủ các điều kiện mà cơ quan này đưa ra.
Bên yêu cầu phải trả lệ phí 500.000 USD cho Cơ quan quyền lực để thăm dò, và nếu hợp đồng khai thác được ký kết, sẽ nộp thuế hàng năm cố định 1.000.000 USD Khi bắt đầu sản xuất hàng hóa, bên ký kết hợp đồng phải nộp thuế dựa trên sản lượng hoặc thuế hàng năm cố định, tùy theo khoản nào cao hơn Trong vòng một năm kể từ khi sản xuất bắt đầu, bên ký kết có thể lựa chọn giữa việc chỉ nộp thuế đánh trên sản lượng hoặc nộp thuế sản lượng kèm một phần thu nhập thuần túy.
Thứ hai, điều kiện chuyển giao kỹ thuật yêu cầu bên khai thác phải nộp một kế hoạch làm việc chi tiết Trong đó, bên yêu cầu cần cung cấp cho Cơ quan quyền lực một bản mô tả tổng quát về trang bị và các phương pháp sẽ được áp dụng trong quá trình thực hiện.
118 Công ước Luật biển 1982, Điều 162 khoản 1
119 Công ước Luật biển 1982, Điều 153 khoản 2
120 Công ước Luật biển 1982,Phụ lục III, Điều 13 khoản 2
121 Công ước Luật biển 1982, Phụ lục III, Điều 13 khoản 3