1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Quyền được thừa nhận về mặt pháp lý của người đồng tính

71 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 71
Dung lượng 1,37 MB

Cấu trúc

  • Chương 1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ VỀ NGƯỜI ĐỒNG TÍNH VÀ QUYỀN ĐƯỢC THỪA NHẬN VỀ MẶT PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH (0)
    • 1.1 Người đồng tính và xu hướng phát triển của cộng đồng người đồng tính (12)
      • 1.1.1 Các khái niệm có liên quan (0)
      • 1.1.2 Nhận thức về người đồng tính (15)
      • 1.1.3 Sự phát triển của cộng đồng đồng tính (0)
    • 1.2 Quyền được thừa nhận về mặt pháp lý của người đồng tính (23)
      • 1.2.1 Khái niệm (23)
      • 1.2.2 Đặc điểm (24)
    • 1.3 Ý nghĩa của quyền được thừa nhận về mặt pháp lý của người đồng tính 22 (26)
    • 1.4 Quá trình ghi nhận quyền của người đồng tính về mặt pháp lý ở một số quốc gia trên thế giới (29)
      • 1.4.1 Hà Lan (29)
      • 1.4.2 Nam Phi (32)
      • 1.4.3 Mỹ (32)
      • 1.4.4 Australia (0)
  • Chương 2. THỰC TIỄN GHI NHẬN QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH (36)
    • 2.1 Thực tiễn ghi nhận quyền của người đồng tính trong pháp luật Việt Nam31 (36)
      • 2.1.1 Thực tiễn ghi nhận quyền của người đồng tính trong lĩnh vực dân sự (37)
      • 2.1.2 Thực tiễn ghi nhận quyền của người đồng tính trong lĩnh vực hình sự (45)
      • 2.1.3 Thực tiễn ghi nhận quyền của người đồng tính trong các lĩnh vực khác (49)
    • 2.2 Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các biện pháp bảo đảm việc ghi nhận quyền của người đồng tính trong pháp luật Việt Nam (56)
      • 2.2.1 Hoàn thiện pháp luật về việc ghi nhận quyền của người đồng tính ở Việt Nam hiện nay (56)

Nội dung

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ VỀ NGƯỜI ĐỒNG TÍNH VÀ QUYỀN ĐƯỢC THỪA NHẬN VỀ MẶT PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH

Người đồng tính và xu hướng phát triển của cộng đồng người đồng tính

1.1.1 Các khái niệm liên quan Để có cái nhìn khái quát và đầy đủ về người đồng tính, chúng ta cần tìm hiểu các khác niệm liên quan về giới, giới tính, xu hướng tình dục và các khái niệm khác

Giới tính luôn là một chủ đề thu hút sự chú ý của nhân loại từ khi có sự nhận thức, được nghiên cứu qua các loại hình nghệ thuật và khoa học trong suốt lịch sử Giới tính sinh học phân biệt đặc điểm đực (♂) và cái (♀) trong sinh vật, với con người, giới tính được xác định qua những đặc điểm riêng biệt giữa nam và nữ Nó có nguồn gốc từ cả sinh học và xã hội, trong đó các đặc điểm giải phẫu và sinh lý tạo nên sự khác biệt Tình cảm và ý thức về giới tính hình thành thông qua giao tiếp và hoạt động xã hội, dưới ảnh hưởng của giáo dục và điều kiện xã hội Xã hội quy định và đánh giá giới tính, phân công lao động giữa nam và nữ, và yêu cầu tiêu chuẩn đạo đức, cách cư xử khác nhau cho mỗi giới.

Theo thuyết đa dạng tình dục, bản dạng tính dục của con người phức tạp hơn nhiều so với phân chia đơn giản thành nam và nữ Sự phân chia này thể hiện cách nhìn nhị phân và không phản ánh được sự đa dạng trong cuộc sống Alfred Kinsey và đồng nghiệp đã chỉ ra rằng xu hướng tính dục có thể chia thành bảy loại, từ hoàn toàn dị tính đến hoàn toàn đồng tính, với song tính là điểm giữa Bản dạng tính dục là yếu tố quan trọng giúp cá nhân nhận diện chính mình, bao gồm bốn yếu tố độc lập: giới tính sinh học, thường được chia thành nam và nữ dựa trên cơ quan sinh dục và hormone.

1 Phạm Quỳnh Phương (2013), Người đồng tính song tính và chuyển giới ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, trang 20

8 và nhiễm sắc thể Thông thường, giới tính được xác định ngay khi một người sinh ra, bằng cách nhìn vào bộ phận sinh dục

Bản dạng giới (gender identity) là một yếu tố quan trọng trong tính dục, thể hiện cách mà một người tự nhận diện là nam hay nữ trong tâm trí Nó không nhất thiết phải trùng khớp với giới tính sinh học và hoàn toàn độc lập với xu hướng tình dục, vì bản dạng giới liên quan đến cảm nhận về bản thân, trong khi xu hướng tình dục liên quan đến sự hấp dẫn đối với người khác Bản dạng giới không phụ thuộc vào cách mà người khác nhìn nhận và cũng không phải là thiên hướng tình dục Các loại bản dạng giới có thể bao gồm nam, nữ, giới tính thứ ba, hoặc không thuộc về nam hay nữ.

Bản dạng giới và thiên hướng tình dục là hai khái niệm khác nhau Ví dụ, một người sinh ra với giới tính nam nhưng tự xác định mình là nữ không nhất thiết có thiên hướng tình dục đồng tính nếu họ có tình cảm hay mối quan hệ tình dục với nam giới, vì bản chất của họ là nữ.

Xu hướng tính dục là một trong bốn yếu tố cấu thành tính dục, được định nghĩa là sự hấp dẫn bền vững về tình cảm hoặc tình dục đối với người khác Nó giúp xác định một người là đồng tính, dị tính, song tính, hoặc thậm chí không có sự hấp dẫn với giới nào Xu hướng tính dục không nhất thiết phải trùng khớp với hành vi tình dục, mà bao gồm cả cảm xúc và cảm nhận cá nhân Hành vi tình dục có thể phản ánh hoặc không phản ánh xu hướng tính dục của một người Đối với những người có xu hướng lưỡng tính, họ có thể quan hệ tình dục với cả hai giới, chỉ một giới, hoặc sống độc lập.

Yếu tố thể hiện giới (gender expression) là cách mà cá nhân tự do thể hiện giới tính của mình thông qua cử chỉ, trang phục, hành vi và tương tác với người khác, không bị ràng buộc bởi các quy định truyền thống về vai trò giới Mỗi người có thể mang những biểu hiện nữ tính hoặc nam tính theo cách họ cảm nhận và cách người khác nhìn nhận họ Đây là những biểu hiện bên ngoài, bao gồm cử chỉ, ăn mặc và thái độ, và thường dễ thay đổi mà không ảnh hưởng đến các yếu tố khác liên quan đến giới tính.

Xu hướng tính dục được hình thành từ bốn yếu tố chính: giới tính sinh học, bản dạng giới, thể hiện giới và xu hướng tính dục Giới tính sinh học được xác định bởi các yếu tố sinh học, trong khi bản dạng giới liên quan đến cảm nhận tâm lý về giới tính của bản thân Thể hiện giới đề cập đến cách mà cá nhân thể hiện vai trò nam tính hoặc nữ tính trong cuộc sống Cuối cùng, xu hướng tính dục phản ánh sự hấp dẫn bền vững về tình cảm và/hoặc tình dục đối với người khác Từ đó, có thể phân loại xu hướng tính dục thành ba loại cơ bản: dị tính (hấp dẫn người khác giới), đồng tính (hấp dẫn người cùng giới) và song tính (hấp dẫn cả hai giới).

Đồng tính luyến ái, hay đồng tính, đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử loài người và luôn là chủ đề gây tranh luận do sự khác biệt trong nhận thức xã hội qua các thời kỳ Nhiều nền văn hóa và xã hội đã từng lên án và trừng phạt hành vi này, coi đó là "đi ngược lại với lẽ thường và chuẩn mực đạo đức." Tuy nhiên, đồng tính không chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ trong thời đại hiện nay, chứng tỏ rằng đây là một hiện tượng xã hội khách quan gắn liền với sự tiến bộ của xã hội.

Hiện nay, quan niệm về người đồng tính rất đa dạng, phản ánh sự nhìn nhận khác nhau trong xã hội Sự đa dạng này liên quan đến nhiều khía cạnh như sinh học, cấu trúc cơ thể, nội tiết tố, thể hiện giới và vai trò giới Dù ở khía cạnh nào, người đồng tính đều có nhu cầu yêu thương, chăm sóc và chia sẻ tình cảm, cũng như có ham muốn quan hệ tình dục với người cùng giới Do đó, người đồng tính được hiểu là những người bị hấp dẫn bởi người cùng giới, với nam giới thường gọi là “gay” và nữ giới là “les” hoặc “lesbian”.

Người đồng tính là những cá nhân bị thu hút về mặt tình cảm và tình dục đối với người cùng giới, bao gồm cả đồng tính nữ và đồng tính nam Sự hấp dẫn này có thể xảy ra trong những tình huống cụ thể hoặc kéo dài theo thời gian.

2 Phạm Quỳnh Phương (2013), Người đồng tính, song tính và chuyển giới ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 12

Người song tính (Bisexual) là những cá nhân có sự hấp dẫn tình cảm và tình dục đối với cả hai giới, bao gồm cả người cùng giới và khác giới Thiên hướng tình dục này cho phép họ trải nghiệm mối quan hệ đa dạng và phong phú với những người mà họ cảm thấy kết nối về mặt cảm xúc.

Người chuyển giới là những cá nhân có bản dạng giới hoặc cách thể hiện giới khác với quy ước xã hội về giới tính sinh học của họ Họ có thể là người đã trải qua phẫu thuật chuyển giới, hoặc chưa phẫu thuật nhưng vẫn nhận thức rõ ràng về giới tính thực của mình khác với giới tính sinh học Những người này thường có xu hướng và mong muốn chuyển đổi giới tính để phù hợp với bản dạng giới của họ.

Người đồng tính nam (Gay), người đồng tính nữ (Les), người song tính (Bisexual) và người chuyển giới (Transsexual) được coi là nhóm tình dục thiểu số trên toàn cầu, chung được gọi là LGBT, với biểu tượng nổi bật là cờ cầu vồng thể hiện sự tự tin và quyền tự quyết của cộng đồng Gần đây, cộng đồng này đã được mở rộng với tên gọi LGBTIQ, bao gồm cả người liên giới tính (Intersex) và người chưa xác định giới tính (Questioning).

1.1.2 Nhận thức về người đồng tính

Nghiên cứu cho thấy rằng người đồng tính, song tính và chuyển giới không mắc bệnh lý tâm thần hay rối loạn nhân cách, và họ hoàn toàn phù hợp với sự phát triển bình thường của xã hội Tình dục đồng giới không phải là hành vi có thể lây nhiễm, vì vậy không thể ép buộc hay điều trị để thay đổi xu hướng tính dục của một người.

Quyền được thừa nhận về mặt pháp lý của người đồng tính

Khái niệm "thừa nhận về mặt pháp luật" đề cập đến hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc ghi nhận và xác lập các quan hệ xã hội thông qua quy định pháp luật Các quan hệ và hoạt động trong xã hội có thể được xã hội thừa nhận, nhưng chỉ được coi là quan hệ pháp luật khi chúng được điều chỉnh bởi pháp luật.

Pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh hành vi xã hội, nhưng không thể bao quát toàn bộ hoạt động và mối quan hệ trong xã hội Nhiều lĩnh vực như tình yêu và tình bạn vẫn chưa có quy định pháp lý rõ ràng Nhà nước chỉ điều chỉnh những mối quan hệ quan trọng và cần thiết thông qua các chuẩn mực ứng xử phù hợp Nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội thường xuất hiện trước khi có quy định pháp luật, dẫn đến sự không đồng nhất giữa nhận thức xã hội và sự thừa nhận pháp lý Sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của các mối quan hệ xã hội thường vượt xa dự đoán của các nhà làm luật và cơ quan quản lý.

Quyền được thừa nhận về mặt pháp lý là một quyền quan trọng trong các quan hệ xã hội, hình thành khi thỏa mãn những điều kiện nhất định và diễn ra xuyên suốt quá trình phát triển của xã hội Pháp luật thừa nhận các quan hệ xã hội cần thiết, tạo ra hành lang pháp lý và quy định cách xử sự phù hợp với ý chí của nhà nước, được đảm bảo bởi bộ máy cưỡng chế Quá trình thừa nhận này diễn ra qua nhiều giai đoạn và hình thức, từ việc ban hành quy định mới đến việc công nhận các ứng xử đã được xã hội chấp nhận, nâng chúng lên thành luật thông qua phong tục, tập quán hoặc tiền lệ.

Có những trường hợp mà nhà nước chỉ ghi nhận chế định pháp luật mà chưa ban hành các quy định chi tiết cần thiết, dẫn đến việc thực hiện trên thực tế gặp khó khăn.

Nhà nước có thể chủ động hoặc thụ động trong việc thừa nhận các vấn đề pháp lý Khi cần thiết, các cơ quan nhà nước sẽ chủ động soạn thảo và ban hành quy định để bảo vệ quyền lợi của giai cấp cầm quyền hoặc lợi ích xã hội Ngoài ra, hoạt động này cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các nhóm, tầng lớp trong xã hội khi họ yêu cầu quyền và lợi ích của mình được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.

Quyền được thừa nhận về mặt pháp lý của người đồng tính là việc nhà nước công nhận và điều chỉnh quyền lợi của cộng đồng người đồng tính thông qua các quy định pháp luật Điều này có nghĩa là việc ghi nhận pháp lý và đảm bảo thực hiện các chuẩn mực ứng xử phù hợp của xã hội đối với người đồng tính, nhằm bảo vệ và thúc đẩy lợi ích hợp pháp của họ.

Quyền được thừa nhận về mặt pháp lý của người đồng tính là một trong những quyền cơ bản của con người và công dân, được Hiến định và xác lập mối quan hệ giữa nhà nước và công dân Hiến pháp cần quy định trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm quyền cơ bản của người đồng tính, với hiệu lực trực tiếp ràng buộc hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp Người đồng tính phải được hưởng đầy đủ quyền con người, là những quyền tự nhiên không thể bị tước bỏ bởi bất kỳ ai hay nhà nước nào Quyền con người được hiểu là quyền có được các nguồn lực và điều kiện cần thiết để sống một cuộc sống tối thiểu, và người đồng tính, với vai trò là một nhân tố trong xã hội, hoàn toàn có quyền được nhà nước ghi nhận và bảo đảm các quyền cơ bản này.

Quyền được thừa nhận về mặt pháp lý của người đồng tính là một quyền cơ bản của con người, bảo đảm sự cần thiết cho họ trong việc sống một cuộc sống bình đẳng và được tôn trọng.

17 Nickel, J (2007) Human rights The Stanford Encyclopedia of Philosophy E N Zalta, (ed.), http://plato.stanford.edu/archives/sum2007/entries/rights-human (Truy cập ngày 10/6/2017)

20 thể sống thật với bản thân, với xu hướng tính dục, với bản dạng giới của chính mình

Quyền thừa nhận pháp lý của người đồng tính là biểu hiện của sự tự do và bình đẳng trong xã hội Mỗi cá nhân đều có quyền tự do, nhưng sự tự do này chỉ nên bị giới hạn khi nó xâm phạm đến quyền tự do của người khác Trong một nhà nước pháp quyền, công dân có thể hành động tự do miễn là không vi phạm pháp luật Nếu việc thừa nhận quyền của người đồng tính không gây tổn hại đến tự do hay mối quan hệ khác trong xã hội, thì quyền này cần được tôn trọng và thực hiện Sự ghi nhận pháp lý khẳng định quyền lợi hợp pháp của một bộ phận trong xã hội, cho phép họ thực hiện các hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích của mình.

Quyền thừa nhận pháp lý của người đồng tính phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lịch sử, địa lý, tôn giáo và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, dẫn đến sự khác biệt trong việc xác lập quyền này Cộng đồng người đồng tính hiện nay đang trở thành một giá trị xã hội phổ biến, phản ánh sự phát triển và các đặc điểm xã hội, nhưng thái độ và ứng xử đối với họ vẫn phụ thuộc vào nhận thức của từng cá nhân Quyền được thừa nhận của người đồng tính phát triển song song với sự giao thoa văn hóa và hội nhập toàn cầu, trong bối cảnh lịch sử cụ thể Các yếu tố tôn giáo, lịch sử và địa lý tạo ra sự khác biệt trong nhận thức về quyền của người đồng tính, từ đó hình thành những quan điểm và quy định pháp lý khác nhau Thế giới đang chứng kiến sự chuyển đổi mạnh mẽ trong nhận thức xã hội và pháp lý về người đồng tính, thể hiện xu hướng tất yếu hướng tới một xã hội phát triển, văn minh, tôn trọng giá trị nhân văn và phẩm giá cá nhân.

Quyền được thừa nhận về mặt pháp lý của người đồng tính phụ thuộc lớn vào trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm, tôn trọng và bảo vệ họ Để đảm bảo công bằng và bình đẳng cho tất cả công dân, cần chú trọng đến việc hỗ trợ cộng đồng người đồng tính, vì đây là nhóm thiểu số dễ tổn thương trong xã hội.

Nhóm người đồng tính thường có nguy cơ cao bị bỏ quên và vi phạm quyền con người, do đó cần được nhà nước bảo vệ đặc biệt hơn so với các cộng đồng khác Sự bình đẳng về quyền không chỉ đơn thuần là cào bằng quyền mà còn phải đảm bảo rằng mỗi thành viên trong xã hội, bao gồm cả người đồng tính, đều có cơ hội hưởng các quyền như nhau trong những điều kiện và khả năng tương tự Quyền được thừa nhận về mặt pháp lý không thể tự thực hiện mà phụ thuộc vào nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng và thực thi các quy định pháp luật liên quan.

Ý nghĩa của quyền được thừa nhận về mặt pháp lý của người đồng tính 22

Nhân quyền, hay quyền con người, là những quyền tự nhiên mà mỗi cá nhân được hưởng từ khi sinh ra và không thể bị tước bỏ bởi bất kỳ ai hay chính thể nào Những quyền này mang tính phổ quát, không phụ thuộc vào pháp luật hay phong tục tập quán của bất kỳ nền văn hóa nào, và không thể bị hạn chế bởi luật pháp do con người đặt ra John Locke trong tác phẩm "Khảo luận thứ hai về chính quyền" đã đề cập đến các quyền tự nhiên như quyền tự do, bình đẳng và quyền tư hữu Nền tảng của quyền tự nhiên là các chuẩn mực về sự công bằng và nguyên tắc tự do của con người, từ đó khẳng định rằng mọi cá nhân, bao gồm cả người đồng tính, đều có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Quyền được thừa nhận về mặt pháp lý là quyền quan trọng, đảm bảo sự công nhận và tôn trọng từ xã hội cũng như pháp luật Để đạt được công bằng trong quyền con người, người đồng tính cần thực hiện nghĩa vụ và được hưởng quyền bình đẳng như mọi cá nhân khác Họ cần được xã hội và pháp luật công nhận đầy đủ các quyền và nghĩa vụ, không để xảy ra bất kỳ sự thiếu hụt nào trong việc thiết lập quan hệ xã hội, nhằm khẳng định nhân phẩm và quyền công dân của mình.

Quyền tự do của người đồng tính, được công nhận như một quyền tự nhiên, nhấn mạnh rằng "con người sinh ra tự do" Một trong những biểu hiện quan trọng của quyền này là khả năng công khai bản dạng giới và xu hướng tính dục, sống đúng với bản năng của mình Tuy nhiên, áp lực xã hội và những quan điểm nặng nề từ phong kiến và tư tưởng Nho giáo đã tạo ra nhiều cản trở cho người đồng tính khi họ muốn công khai xu hướng tính dục, dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực và thậm chí là đe dọa đến lợi ích hợp pháp chung của xã hội và cá nhân khác.

Rousseau trong cuốn "Bàn về khế ước xã hội" cho rằng khi một người từ bỏ một số quyền tự do, họ cần nhận lại những lợi ích nhất định Người đồng tính thường phải lựa chọn giữa quyền mưu cầu hạnh phúc và quyền không bị kỳ thị từ xã hội Khi sống thật với xu hướng tính dục của mình để tìm kiếm hạnh phúc, họ thường phải đối mặt với sự phân biệt đối xử Ngược lại, nếu họ che giấu bản dạng giới và xu hướng tính dục, họ có thể đạt được sự công bằng và bình đẳng như những người dị tính khác.

Việc vi phạm quyền con người là một mâu thuẫn rõ ràng, đặc biệt đối với cộng đồng người đồng tính Họ không tự nguyện từ bỏ quyền lợi của mình, nhưng xã hội và pháp luật vẫn chưa đảm bảo đầy đủ các quyền cơ bản cho nhóm thiểu số này.

Quyền tự nhiên là nền tảng tư tưởng quan trọng, thúc đẩy các quốc gia xây dựng hệ thống pháp luật hợp lý Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng "Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng" và khẳng định những quyền không thể bị xâm phạm, bao gồm quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc Tương tự, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp cũng tuyên bố rằng "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi", khẳng định sự cần thiết phải duy trì tự do và bình đẳng cho mọi người Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập cũng đã thể hiện rõ tư tưởng này.

Năm 1945 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của mỗi cá nhân và dân tộc Do đó, không một cá nhân hay Nhà nước nào có thể loại trừ người đồng tính khỏi các quyền lợi hợp pháp Cần thiết lập những quy định cụ thể và rõ ràng để công nhận và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người đồng tính, đảm bảo họ được đối xử bình đẳng như mọi người khác trong xã hội.

Học thuyết về các quyền pháp lý cho rằng quyền con người không phải là bẩm sinh mà do Nhà nước xác định và pháp điển hóa thành quy phạm pháp luật, hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa Do đó, phạm vi, giới hạn và thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị cùng các yếu tố như phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa của xã hội Điều này cho thấy các quyền pháp lý có tính chất khác biệt tương đối về mặt văn hóa và chính trị.

Quan điểm cực đoan phủ nhận hoàn toàn lý thuyết về quyền con người không còn phù hợp, vì hầu hết các văn kiện pháp luật quốc gia đều công nhận quyền con người như những quyền pháp lý Tuy nhiên, Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và một số văn bản pháp lý khác khẳng định rằng quyền con người là các quyền tự nhiên, vốn có và không thể chuyển nhượng của mỗi cá nhân.

Quyền được thừa nhận về mặt pháp lý của người đồng tính là nền tảng quan trọng để đảm bảo quyền mưu cầu hạnh phúc của họ Quyền mưu cầu hạnh phúc thể hiện sự tự do, cho phép mỗi cá nhân tìm kiếm giá trị sống cho bản thân Đây là điều hiển nhiên trong mọi giai đoạn lịch sử và chế độ chính trị xã hội Hạnh phúc đến từ việc sống thật với bản thân, suy nghĩ và nhận thức của mình, được yêu thương và sống trong tình yêu Cộng đồng người đồng tính luôn khao khát tìm kiếm hạnh phúc đơn giản mà những người dị tính thường có, không bị định kiến hay trở ngại từ xã hội.

Hiện nay, quan điểm về người đồng tính tại Việt Nam rất đa dạng, phản ánh sự chấp nhận xã hội và pháp luật đối với cộng đồng này Quá trình công nhận quyền lợi của người đồng tính cần được nghiên cứu và đánh giá khoa học, thực hiện theo lộ trình thích hợp Việc thừa nhận pháp lý cho người đồng tính cần được xem xét cẩn trọng, đảm bảo sự tương thích với các giai đoạn phát triển cụ thể.

18 Trong một số tài liệu, các quyền pháp lý còn được gọi là các quyền dân sự (civil rights), hoặc các quyền luật định (statutory rights)

Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền khẳng định phẩm giá và quyền bình đẳng không thể tách rời của tất cả mọi người, nhấn mạnh tầm quan trọng của nhân quyền trong xã hội Tương tự, Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776) cũng nhấn mạnh rằng mọi người đều sinh ra với quyền bình đẳng, được ban cho những quyền cơ bản như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, không ai có thể xâm phạm.

Nhận thức xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự hài hòa lợi ích và thúc đẩy quá trình phát triển bền vững của xã hội hiện nay.

Quá trình ghi nhận quyền của người đồng tính về mặt pháp lý ở một số quốc gia trên thế giới

Nhận thức về người đồng tính, lưỡng tính và chuyển giới ở Hà Lan đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, phản ánh thái độ khoan dung nhưng cũng cứng cỏi Từ năm 1730 đến 1811, quan hệ tình dục đồng giới bị coi là tội phạm công cộng do ảnh hưởng của Bộ Luật Napoleon sau khi Hà Lan sáp nhập vào Pháp, chủ yếu tập trung vào nam giới quan hệ với nhau Tuy nhiên, sau này, nhiều quan điểm đã đề xuất bãi bỏ quy định nghiêm khắc này, không còn xem đó là tội phạm nhưng vẫn coi là hành vi vi phạm chuẩn mực xã hội.

Năm 1911, các đảng chính trị theo đạo Cơ đốc tại Hà Lan đã ban hành Điều 248bis, nâng cao tuổi đồng ý cho quan hệ đồng tính lên 21 tuổi, trong khi tuổi đồng ý cho quan hệ khác giới vẫn là 16 Để phản đối các quy định này, tổ chức Nederlandsch Wetenschappelijk Humanitair Komitee (NWHK) được thành lập vào năm 1919 dưới sự lãnh đạo của Jacob Schorer Cùng thời điểm, những quán rượu đồng tính đầu tiên, như The Empire, cũng xuất hiện tại Amsterdam Năm 1932, tạp chí đồng tính đầu tiên mang tên Wij (Chúng tôi) được xuất bản Tuy nhiên, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, NWHK bị đóng cửa bởi Đức Quốc xã, và các quy định cấm tình dục đồng giới của Đức cũng được áp dụng tại Hà Lan.

Phong trào quyền tự do LGBT tại Hà Lan được khởi đầu lại vào năm 1945 với sự thành lập Trung tâm văn hoá và giải trí (COC) ở Hague bởi Niek Engelschman, cùng với việc phát hành tạp chí Levensrecht (Quyền sống).

Từ cuối những năm 1940 đến những năm 1960, một số nhà tâm thần học và giáo sĩ Hà Lan đã coi tình dục đồng giới là một dạng bệnh tâm thần nhẹ.

20 Gert Hekma (2005), The Amsterdam Bar Culture And Changing Gay/Lesbian Identities, Gay Studies Department, University of Amsterdam

Vào những năm 1960, phong trào cách mạng tình dục đã mở ra cái nhìn cởi mở hơn về người đồng tính, cũng như việc hợp pháp hóa phá thai và mại dâm Chính quyền Amsterdam đã chấp nhận sự tồn tại của các quán rượu đồng tính, với sự ra đời của DOK (De Odeon Kelder) vào năm 1952, tiếp theo là chương trình ca múa nhạc đồng tính của COC vào năm 1955 Những hoạt động này đã kéo dài hơn ba mươi năm, thu hút đông đảo người đồng tính nam từ khắp nơi trên thế giới, góp phần biến Amsterdam thành thủ đô đồng tính của thời kỳ đó.

Năm 1971, Điều 248bis bị bãi bỏ, quân đội cũng dỡ bỏ lệnh cấm người đồng tính gia nhập Đến năm 1973, các tổ chức y tế tâm thần ở Hà Lan đã ngừng điều trị tình dục đồng giới, dẫn đến việc nhiều người đồng tính Hà Lan bắt đầu "công khai" Các ấn phẩm đồng tính như "Gay Krant" ra đời, và các đảng chính trị cánh hữu cũng như cánh tả tại Hà Lan bắt đầu ủng hộ quyền lợi của người đồng tính Năm 1987, Homomonument, đài tưởng niệm đồng tính đầu tiên trên thế giới, được khai trương ở Amsterdam để tưởng niệm những người đồng tính nam và nữ bị bức hại vì xu hướng tình dục của họ.

Vào năm 1993, Nghị viện Hà Lan đã thông qua “Luật Quyền Bình đẳng”, trong đó quy định định hướng tình dục được bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử Đến năm 1998, Nghị viện Hà Lan đã chính thức cho phép các cặp đôi đồng tính thiết lập quan hệ có đăng ký.

Năm 2001, Hà Lan đã trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng cho cộng đồng LGBT Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều cuộc tranh luận và phản đối từ các lãnh đạo bảo thủ trong cộng đồng Hồi giáo, những người chiếm hơn 5% dân số Các chính trị gia thuộc Đảng Công giáo bảo thủ, mặc dù chiếm khoảng 5% trong Nghị viện, vẫn phản đối các luật về quyền của người đồng tính, nhưng đồng thời cũng lên án sự kỳ thị đối với cộng đồng này.

Năm 2005, Hà Lan đã cho phép các cặp đôi đồng tính nhận con nuôi từ nước ngoài, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc công nhận quyền lợi của họ Mặc dù hai lãnh thổ tự trị Aruba và Antilles chưa hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, Toà án Tối cao Hà Lan đã khẳng định quyền tự do xu hướng tình dục vào năm 2007.

21 Bureau of Democracy, Human Rights, and Labor (2006), Country Report on Human Rights Practices in the Netherlands, https://www.state.gov/j/drl/rls/hrrpt/2006/78830.htm, (truy cập ngày 14/10/2016)

Tất cả các cuộc hôn nhân được ký kết tại các vùng khác nhau của Vương quốc Hà Lan đều phải được công nhận ở các khu vực khác, điều này buộc Aruba phải công nhận hôn nhân đồng tính.

Năm 2006, chính phủ Hà Lan đã quyết định không trục xuất một số người nhập cư đồng tính người Iran vì lo ngại họ có thể bị giết nếu trở về quê hương Cùng năm, một cuộc thăm dò của Liên minh Châu Âu cho thấy Hà Lan là quốc gia ủng hộ mạnh mẽ nhất cho hôn nhân đồng giới, với tỷ lệ ủng hộ lên tới 82%.

STT CÁC QUYỀN CỤ THỂ CHẤP NHẬN GHI CHÚ

1 Quyền quan hệ tình dục đồng tính hợp pháp Có Từ năm 1811

2 Bình đẳng về độ tuổi quan hệ tình dục Có Từ năm 1971

3 Chống phân biệt đối xử trong công việc Có Từ năm 1993

4 Chống phân biệt đối xử trong cung cấp hàng hóa và dịch vụ Có

Luật chống phân biệt đối xử trong tất cả các lĩnh vực khác (bao gồm phân biệt một cách gián tiếp, phát ngôn kích động thù hận)

6 Hôn nhân đồng tính Có

Từ năm 2001; quốc gia đầu tiên trên thế giới

7 Quan hệ đồng tính có đăng ký Có Quan hệ đối tác từ 1998

8 Chấp nhận nuôi con nuôi của các cặp đồng tính Có

Chung với hôn nhân đồng tính năm 2001

9 Quân đội chấp nhận người đồng chính Có

10 Quyền chuyển giới tính hợp pháp Có

11 Đồng tính nữ được thụ tinh trong ống nghiệm Có Các cặp đồng tính nữ

Bảng tổng hợp Quyền của người đồng tính ở Hà Lan

22 Hope Lozano-Bielat (2007), Same-Sex Marriage: Redefining Legal Unions Around the World, Pew

Nam Phi có một lịch sử phức tạp về quyền của cộng đồng người đồng tính, với khoảng hai triệu người bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp giữa các truyền thống địa phương, chủ nghĩa thực dân và hậu quả của chủ nghĩa Apartheid Hiến pháp sau Apartheid của Nam Phi được công nhận là một trong những hiến pháp tiến bộ nhất thế giới, cấm kỳ thị dựa trên xu hướng tính dục Là quốc gia đầu tiên ở châu Phi và thứ năm trên thế giới hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới, Nam Phi cũng cho phép các cặp đôi đồng giới nhận con nuôi và thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm Tuy nhiên, cộng đồng người đồng tính tại đây vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm kỳ thị xã hội, bạo lực tình dục và tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS cao.

Trong lịch sử, quan hệ tình dục đồng giới giữa nam giới đã bị cấm ở Nam Phi do ảnh hưởng của luật pháp La Mã - Hà Lan Tuy nhiên, từ những năm 1970, cộng đồng LGBT và các phong trào nhân quyền đã phát triển mạnh mẽ Năm 1994, quan hệ tình dục đồng giới nam được hợp pháp hóa, và quan hệ đồng tính nữ không còn bị coi là bất hợp pháp Độ tuổi chấp thuận cho tất cả các hành vi tình dục đồng giới được xác định là 19 tuổi Vào tháng 5/1996, Nam Phi trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới bảo vệ quyền lợi của người LGBT thông qua Phần 9 của Hiến pháp, cấm phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, giới tính, và xu hướng tình dục Từ ngày 01 tháng 01 năm 2008, tất cả các điều khoản phân biệt đối xử đã bị bãi bỏ, bao gồm việc quy định độ tuổi quan hệ là 16 tuổi bất kể xu hướng tình dục.

Quyền của người đồng tính nữ, đồng tính, lưỡng tính và chuyển giới ở Hoa Kỳ đã trải qua nhiều giai đoạn thay đổi, chủ yếu phụ thuộc vào quyết định của Tòa án Kể từ ngày 26 tháng 6 năm 2003, theo phán quyết của Tòa án Tối cao, hoạt động tình dục giữa người lớn đồng ý cùng giới tính và thanh thiếu niên cùng giới tính ở độ tuổi gần gũi đã được hợp pháp hóa trên toàn quốc.

23 Goodman Ryan (2001), Beyond the enforcement principle: sodomy laws, social norms, and social panoptics, California Law Review, trang 643

Vào ngày 26 tháng 6 năm 2015, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã đưa ra quyết định quan trọng trong vụ Obergefell kiện Hodges, công nhận và cấp phép hôn nhân cho các cặp đồng tính tại tất cả các bang Quyết định này đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc bảo vệ quyền lợi của cộng đồng LGBTQ+ tại Hoa Kỳ.

THỰC TIỄN GHI NHẬN QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:30

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
14. Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Vũ Khánh Tùng, Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Tp. Hà Nội, 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người
Nhà XB: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội
15. Nguyễn Mạnh Hùng, Thuật ngữ pháp lý, nhà xuất bản Chính trị - Sự thật, Hà Nội, 2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thuật ngữ pháp lý
Nhà XB: nhà xuất bản Chính trị - Sự thật
16. Nguyễn Ngọc Hòa, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học (phần chuyên ngành Luật dân sự, Luật tố tụng dân sự, Luật HN&GĐ), Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học (phần chuyên ngành Luật dân sự, Luật tố tụng dân sự, Luật HN&GĐ)
19. Thái Thị Tuyết Dung, Vũ Thị Thúy, Bảo đảm quyền của người đồng tính và người chuyển giới trong tư pháp hình sự Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 18 năm 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo đảm quyền của người đồng tính và người chuyển giới trong tư pháp hình sự Việt Nam
20. Thái Thị Tuyết Dung, Vũ Thị Thúy, Bảo đảm quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và vấn đề sửa đổi Hiến pháp, Tạp chí Khoa học pháp lý, tháng 02 năm 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo đảm quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và vấn đề sửa đổi Hiến pháp
21. Trương Hồng Quang, Tìm hiểu quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, 2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính ở Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
23. Reeder Greg (2000), Same-sex desire, conjugal constructs, and the tomb of Niankhkhnum and Khnumhotep, World Archaeology, , trang 193 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Same-sex desire, conjugal constructs, and the tomb of Niankhkhnum and Khnumhotep
Tác giả: Reeder Greg
Năm: 2000
24. X, Jacobus (1900),Untrodden fields of anthropology: observations on the esoteric manners and customs of semicivilizedpeoples, American Anthropological Society, New York Sách, tạp chí
Tiêu đề: Untrodden fields of anthropology: observations on the esoteric manners and customs of semicivilizedpeoples
Tác giả: X, Jacobus
Năm: 1900
25. Weeks, J., Holland, J. and Waites, M., (Eds.) (2003) Sexualities and Society: A Reader. Polity Press: Cambridge, UK, ISBN 9780745622484 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sexualities and Society: A Reader
26. Janet G. Baker, The Development of Prejudice Towards Gays and Lesbians by Adolescents, Journal of Homosexuality, 1998, trang 89 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Development of Prejudice Towards Gays and Lesbians by Adolescents
27. Pride Marches and Parades (2004), Encyclopedia of Lesbian, Gay, Bisexual, and Transgender History in America, Marc Stein, trang 23 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Encyclopedia of Lesbian, Gay, Bisexual, and Transgender History in America
Tác giả: Pride Marches and Parades
Năm: 2004
28. Cass Vivienne (1979), Homosexual identity formation: A theoretical model. Journal of Homosexuality, trang Sách, tạp chí
Tiêu đề: Homosexual identity formation: A theoretical model. "Journal of Homosexuality
Tác giả: Cass Vivienne
Năm: 1979
29. OHCHR, Frequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva, 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Frequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation
30. Janet G. Baker, The Development of Prejudice Towards Gays and Lesbians by Adolescents, Journal of Homosexuality, 1998, trang 89.Tài liệu từ internet Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Development of Prejudice Towards Gays and Lesbians by Adolescents", Journal of Homosexuality, 1998, trang 89
31. Chí Thiện, Một thế giới, Đề xuất kết hợp dân sự cho cộng đồng LGBT, http://motthegioi.vn/cau-vong-luc-sac/de-xuat-ket-hop-dan-su-cho-cong-dong-lgbt-18010.html Link
32. ETC Graz, Tìm hiểu về quyền con người, http://www.etc- graz.at/typo3/fileadmin/user_upload/ETC-Hauptseite/manual/versionen/vietnamese/ Quyen_con_nguoi_-_P1.pdf Link
33. EZLAWblog, Kết hôn giữa những người đồng tính tại Việt Nam, http://www.ezlawblog .com/2015/06/hon-nhan-ong-tinh-uoc-cho-phep-tai-viet.html Link
34. Một số thuật ngữ thông dụng trong cộng đồng đồng tính và chuyển giới, https://taolarod.wordpress.com/425-2/mot-so-thuat-ngu-thong-dung-trong-cong-dong-dong-tinh-va-chuyen-gioi/ Link
1. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) Khác
3. Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w