1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Pháp luật việt nam về bảo hiểm thất nghiệp

76 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp Luật Việt Nam Về Bảo Hiểm Thất Nghiệp
Tác giả Hoàng Tố Nguyên
Trường học Trường Đại Học Luật Tp Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật
Thể loại Luận Văn
Thành phố Tp Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 76
Dung lượng 1,29 MB

Cấu trúc

  • 1.1.1. Khái niệm thất nghiệp (8)
  • 1.1.2. Ảnh hưởng của thất nghiệp đến đời sống kinh tế - xã hội (11)
    • 1.1.2.1. Xét về mặt kinh tế (11)
    • 1.1.2.2. Xét về mặt xã hội (12)
  • 1.2. Những vấn đề chung về bảo hiểm thất nghiệp (12)
    • 1.2.1. Sự hình thành bảo hiểm thất nghiệp (13)
      • 1.2.1.1. Cơ sở lý luận xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp (0)
      • 1.2.1.2. Lịch sử hình thành bảo hiểm thất nghiệp và sự phát triển của bảo hiểm thất nghiệp (0)
    • 1.2.2. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp (15)
      • 1.2.2.1. Đối với người lao động (15)
      • 1.2.2.2. Đối với người sử dụng lao động (16)
      • 1.2.2.3. Đối với nhà nước (16)
    • 1.2.3. Bản chất của bảo hiểm thất nghiệp (16)
      • 1.2.3.1. Đặc điểm chung của bảo hiểm thất nghiệp (17)
      • 1.2.3.2. Đặc điểm riêng của bảo hiểm thất nghiệp (18)
    • 1.2.4. Nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp (20)
      • 1.2.4.1. Bảo hiểm thất nghiệp dựa trên sự đóng góp của các bên để hình thành quỹ bảo hiểm độc lập và tập trung (0)
      • 1.2.4.2. Bảo hiểm thất nghiệp phải lấy số đông bù số ít (20)
      • 1.2.4.3. Nguyên tắc cân đối giữa đóng góp và hưởng thụ, nhu cầu thực tế với khả năng đáp ứng và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội (21)
      • 1.2.4.4. Nguyên tắc công bằng trong bảo hiểm thất nghiệp (22)
    • 1.3.2. Cơ sở kinh tế - xã hội (26)
    • 1.3.3. Cơ sở pháp lý (27)
  • 2.2. Đối tượng, phạm vi áp dụng bảo hiểm thất nghiệp (0)
  • 2.3. Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp (33)
  • 2.4. Các chế độ bảo hiểm thất nghiệp (35)
    • 2.4.1. Trợ cấp thất nghiệp (36)
      • 2.4.1.1. Mức trợ cấp thất nghiệp (36)
      • 2.4.1.2. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp (37)
      • 2.4.1.3. Tạm dừng và chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp (38)
    • 2.4.2. Hỗ trợ học nghề (40)
      • 2.4.2.1. Cơ quan tiến hành (40)
      • 2.4.2.2. Mức hỗ trợ học nghề (40)
      • 2.4.2.3. Thời gian hỗ trợ học nghề (0)
    • 2.4.3. Hỗ trợ tìm việc làm (41)
      • 2.4.3.1. Cơ quan tiến hành (41)
      • 2.4.3.2. Thời gian hỗ trợ tư vấn việc làm (41)
    • 2.4.4. Bảo hiểm y tế (42)
  • 2.5. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp (43)
    • 2.5.1. Những quy định về việc đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp (43)
      • 2.5.1.1. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp (43)
      • 2.5.1.2. Mức và phương thức đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp (45)
    • 2.5.2. Những quy định về quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp (47)
      • 2.5.2.1. Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp (47)
      • 2.5.2.2. Sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp (49)
  • 3.2. Một số vấn đề khi triển khai áp dụng bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam (0)
    • 3.2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp (0)
    • 3.2.2. Công tác quản lý bảo hiểm thất nghiệp (54)
    • 3.2.3. Công tác tổ chức, thực hiện bảo hiểm thất nghiệp (56)
    • 3.2.4. Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm (0)
    • 3.2.5. Công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm chế độ bảo hiểm thất nghiệp (0)
    • 3.2.6. Một số vấn đề khác (58)
  • 3.3. Một số giải pháp nhằm triển khai và hoàn thiện bảo hiểm thất nghiệp (60)
    • 3.3.1. Triển khai theo đúng quy định của Luật bảo hiểm xã hội và từng bước hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo hiểm thất nghiệp (60)
    • 3.3.2. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp (0)
    • 3.3.3. Hoàn thiện, đổi mới, nâng cao năng lực quản lý của bộ máy bảo hiểm xã hội (0)
    • 3.3.4. Xây dựng cơ chế phối hợp tổ chức triển khai bảo hiểm thất nghiệp (65)
    • 3.3.5. Hoàn thiện chế độ hỗ trợ việc làm cho người thất nghiệp (67)
    • 3.3.6. Xây dựng chế tài đảm bảo triển khai thực hiện bảo hiểm thất nghiệp (69)
  • KẾT LUẬN (72)

Nội dung

Khái niệm thất nghiệp

Thất nghiệp và thiếu việc làm hiện đang là vấn đề toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng và suy giảm kinh tế Nhiều tổ chức và nhà khoa học đã thảo luận về vấn đề này, tuy nhiên vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều xung quanh nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng thất nghiệp.

Tổ chức Liên đoàn lao động Quốc tế (ILO) định nghĩa thất nghiệp trong Điều 20 Công ước số 102 ngày 28 tháng 6 năm 1952, cho rằng thất nghiệp là tình trạng người lao động không có thu nhập do không tìm được việc làm phù hợp, mặc dù họ có khả năng và sẵn sàng làm việc Đến năm 1988, Công ước số 168 đã bổ sung thêm điều kiện rằng một người được coi là thất nghiệp phải tích cực tìm kiếm việc làm, bên cạnh các tiêu chí đã nêu trong Công ước số 102.

Định nghĩa về thất nghiệp của ILO mang tính khái quát, gây khó khăn trong việc xác định người thất nghiệp thực tế tại các quốc gia Tại Hội nghị Quốc tế lao động lần thứ XIII ở Geneva năm 1983, khái niệm thất nghiệp đã được cụ thể hóa: “Thất nghiệp là hiện tượng chỉ toàn bộ số người ở độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật (a) không có việc làm, (b) có khả năng làm việc, (c) đang tìm kiếm việc làm.”

Xuất phát từ khái niệm thất nghiệp của ILO, pháp luật các nước đã đưa ra khái niệm người thất nghiệp Chẳng hạn như:

- Ở Pháp quan niệm: “Người thất nghiệp là người có đủ điều kiện để làm việc nhưng không có việc làm và đang tìm việc” 1

Luật Bảo hiểm thất nghiệp tại Cộng hòa Liên bang Đức định nghĩa người thất nghiệp là những lao động tạm thời không có quan hệ lao động hoặc chỉ tham gia vào công việc ngắn hạn.

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã công bố báo cáo kết quả nghiên cứu về mô hình chính sách thực hiện bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam, được thực hiện vào năm 1997, trong đó nêu rõ các khía cạnh quan trọng liên quan đến hiệu quả và tính khả thi của chính sách này.

2 Cộng hòa liên bang Đức, Luật bảo hiểm thất nghiệp (1969), Tr 74

Tại Trung Quốc, người thất nghiệp được định nghĩa là những cá nhân trong độ tuổi lao động, có khả năng làm việc và mong muốn tìm kiếm việc làm nhưng không có việc Đối tượng này bao gồm những người mới bước vào thị trường lao động và những người đã mất việc làm và đang tìm kiếm cơ hội mới Đồng thời, nhóm này cũng là đối tượng được hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

Thông qua việc nghiên cứu các khái niệm về thất nghiệp có thể rút ra những đặc điểm chung của người thất nghiệp bao gồm:

Đối tượng trong độ tuổi lao động là yếu tố quan trọng liên quan đến quan hệ lao động và xác định tình trạng thất nghiệp Mỗi quốc gia có quy định riêng về độ tuổi lao động, dẫn đến sự khác biệt trong việc xác định quan hệ lao động giữa các nước.

Thứ hai, để được xem là người lao động, cần có khả năng lao động thể hiện qua thể lực và trí lực Những người trong độ tuổi lao động nhưng không thể làm việc do sức khỏe yếu, ốm đau hay bệnh tật ngoài ý muốn, hoặc không muốn làm việc dù đủ khả năng, sẽ không được coi là thất nghiệp.

Người lao động cần có mong muốn và sẵn sàng làm việc với mức lương hiện hành, phù hợp với giá trị sức lao động của bản thân Do đó, không được coi là thất nghiệp nếu họ từ chối công việc chỉ vì mức lương địa phương quá thấp so với yêu cầu cá nhân, hoặc khi họ yêu cầu mức lương tương xứng với trình độ tay nghề và học vấn của mình.

Thất nghiệp ở Việt Nam đã trở thành một vấn đề mới trong thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường Trước đây, nhà nước đảm nhận trách nhiệm cung cấp việc làm cho người lao động thông qua việc tuyển dụng vào biên chế suốt đời trong khu vực nhà nước Trong giai đoạn này, khái niệm thất nghiệp không được nhắc đến, mà chỉ có những thuật ngữ như "sức lao động mới gia tăng", "chưa tìm được việc làm" hay "đang chờ việc" Tuy nhiên, thực tế vẫn tồn tại một bộ phận người lao động có khả năng làm việc nhưng không tìm được việc làm.

3 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam và Hoa Kỳ hợp tác, Tài liệu tham khảo dự án đào tạo về bảo hiểm

4 Lê Thị Hoài Thu, Sự cần thiết xây dựng chế độ trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí nhà nước và pháp luật , 3/2000, Số 143 Tr 55

Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường đã hình thành thị trường lao động, trong đó sức lao động được coi là hàng hóa có thể mua bán theo giá cả Quan hệ lao động đã chuyển từ việc điều chỉnh bằng quyết định hành chính sang cơ chế hợp đồng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật Dưới tác động của quy luật cạnh tranh và cung cầu, một bộ phận lao động có việc làm có thể mất việc, trong khi những người mới gia nhập lực lượng lao động không tìm được việc làm, và những người yếu thế trong cạnh tranh thường không có cơ hội việc làm Khái niệm thất nghiệp đã được đề cập trong một số tài liệu tại Việt Nam.

Theo Kỷ yếu hội thảo khoa học 1988 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, thất nghiệp được định nghĩa là hiện tượng mà người lao động có nhu cầu tìm việc và đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền nhưng chưa có việc làm Khái niệm này vừa rộng vừa hẹp; rộng vì nó bao gồm cả những người mới tốt nghiệp chưa có kinh nghiệm làm việc, và hẹp vì nếu thiếu một trong các yếu tố như việc đăng ký với cơ quan có thẩm quyền, thì không được coi là thất nghiệp Do đó, số liệu về thất nghiệp ở nước ta có thể sẽ rất thấp.

Theo Sách hướng dẫn nghiệp vụ về chỉ tiêu xã hội ở Việt Nam do Tổng cục Thống kê xuất bản năm 1995, người thất nghiệp được định nghĩa là những cá nhân không có việc làm, sẵn sàng làm việc và đang actively tìm kiếm việc làm trong một khoảng thời gian xác định.

Theo Điều 3, Khoản 4 của Luật Bảo hiểm xã hội, người thất nghiệp được định nghĩa là người đang tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp, đã mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động nhưng chưa tìm được việc làm mới Do đó, để được công nhận là người thất nghiệp theo quy định của pháp luật, một trong những điều kiện bắt buộc là phải đang đóng bảo hiểm thất nghiệp.

Trên thực tế, những người được coi là thất nghiệp ở nước ta bao gồm:

Người lao động có thể mất việc làm do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm doanh nghiệp phá sản, giải thể, hoặc cắt giảm nhân sự trong quá trình tái cấu trúc Ngoài ra, việc chấm dứt hợp đồng lao động và sa thải cũng là những lý do phổ biến dẫn đến tình trạng thất nghiệp.

- Người mới đến tuổi lao động, học sinh, sinh viên mới tốt nghiệp hoặc thôi học, bỏ học chưa tìm được việc làm;

- Bộ đội xuất ngũ, thanh niên xung phong hết nghĩa vụ, lao động xuất khẩu về nước chưa có việc làm;

- Đối tượng trong tuổi lao động sau thời gian quản giáo, chữa trị bệnh đang có nhu cầu tìm việc làm;

- Những người phải nghỉ việc tạm thời không có thu nhập do tính thời vụ của sản xuất; 5

Ảnh hưởng của thất nghiệp đến đời sống kinh tế - xã hội

Xét về mặt kinh tế

 Đối với nền kinh tế

Tỷ lệ thất nghiệp cao không chỉ làm giảm sự tham gia của lực lượng lao động vào sản xuất, mà còn dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp hơn, gây tổn thất cơ hội tạo ra sản phẩm và dịch vụ, từ đó làm giảm tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Thất nghiệp cũng kéo theo sự suy giảm nhu cầu xã hội, khiến hàng hóa và dịch vụ không có người tiêu dùng, làm giảm cơ hội kinh doanh và chất lượng sản phẩm Hơn nữa, khi tỷ lệ thất nghiệp cao, nhu cầu tiêu dùng giảm, dẫn đến cơ hội đầu tư cũng bị hạn chế.

Thất nghiệp gia tăng phản ánh sự suy thoái kinh tế, khi tổng thu nhập quốc gia thực tế không đạt được tiềm năng Nguyên nhân chính là do thiếu vốn đầu tư, bởi ngân sách bị thu hẹp do thất thu thuế và phải chi hỗ trợ cho người lao động mất việc Tình trạng thất nghiệp cũng góp phần đẩy nền kinh tế vào nguy cơ lạm phát.

Thất nghiệp không chỉ làm suy giảm tốc độ phát triển kinh tế mà còn làm gia tăng chi phí từ ngân sách nhà nước và các quỹ xã hội cho các chương trình trợ giúp người thất nghiệp Bên cạnh đó, nguồn thu ngân sách từ thuế cũng giảm do thu nhập chịu thuế của người thất nghiệp không còn, dẫn đến tình trạng ngân sách quốc gia giảm sút trong khi chi phí cho vấn đề thất nghiệp lại tăng, gây ra thâm hụt ngân sách khó tránh khỏi.

5 Lê Thị Hoài Thu, Sự cần thiết xây dựng chế độ trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Nhà Nước và Pháp luật 3/2000, số 143, Tr 56

 Đối với người lao động

Người lao động thất nghiệp không chỉ mất việc làm mà còn đối mặt với việc mất nguồn thu nhập, dẫn đến khó khăn trong việc chi trả cho các nhu cầu thiết yếu và mua sắm hàng hóa tiêu dùng.

Khi thất nghiệp, người lao động thường phải chấp nhận công việc không tương xứng với năng lực, dẫn đến tình trạng làm việc dưới khả năng Giới chủ lợi dụng tình hình này để gây sức ép, không cải thiện môi trường làm việc, áp đặt năng suất cao, trả lương thấp và hạn chế cơ hội thăng tiến Hệ quả là, tình trạng thất nghiệp làm giảm sức mạnh đàm phán của người lao động, tăng chi phí khi rời bỏ công việc và hạn chế khả năng tìm kiếm cơ hội thu nhập mới.

Xét về mặt xã hội

Thất nghiệp không chỉ gây ra những thiệt hại về tài chính mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tinh thần của người lao động và gia đình họ Họ thường phải đối mặt với chấn thương tâm lý nặng nề hơn là mất mát thu nhập, sống trong tâm trạng nặng nề như bị tách khỏi xã hội và cảm thấy mình là gánh nặng cho người khác Sự mặc cảm và tự ti khiến họ dễ bị kích động, dẫn đến tình trạng suy sụp cả về thể chất lẫn tinh thần.

Tình trạng thất nghiệp gia tăng đang gây ra sự bất ổn trong trật tự xã hội, với các hiện tượng bãi công và biểu tình đòi quyền làm việc ngày càng tăng Điều này dẫn đến sự gia tăng các tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút và mại dâm Hơn nữa, sự ủng hộ của người lao động đối với chính quyền có thể suy giảm, gây ra những xáo trộn xã hội và thậm chí dẫn đến biến động chính trị.

Thất nghiệp là một vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp, ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống của người dân Để giải quyết tình trạng này, cần có một hệ thống chính sách đồng bộ và liên tục trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, không thể chỉ dựa vào một biện pháp đơn lẻ Thực tế cho thấy thất nghiệp luôn hiện hữu trong nền kinh tế thị trường và có xu hướng gia tăng theo chu kỳ phát triển của nền kinh tế.

Bảo hiểm thất nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục tình trạng thất nghiệp, không chỉ bù đắp một phần thu nhập cho người lao động mà còn hỗ trợ họ quay trở lại thị trường lao động Nhờ vào các chế độ hỗ trợ, bảo hiểm thất nghiệp góp phần ổn định kinh tế - xã hội, điều mà các biện pháp khác không thể thực hiện.

Những vấn đề chung về bảo hiểm thất nghiệp

Sự hình thành bảo hiểm thất nghiệp

1.2.1.1 Cơ sở lí luận xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp

Người lao động là trung tâm của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm hàng hóa cho sự trao đổi và lưu thông Thiếu người lao động, nền kinh tế sẽ không thể hoạt động hiệu quả Do đó, bảo vệ quyền lợi và sức khỏe của người lao động là chính sách thiết yếu để đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế.

Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được xem như một loại hàng hóa đặc biệt, được người lao động trao đổi với người sử dụng lao động Giá trị của sức lao động có thể thay đổi tùy thuộc vào quy luật cạnh tranh và cung cầu Khi cầu về lao động vượt quá cung, người lao động có nhiều cơ hội lựa chọn công việc tốt với mức lương cao Ngược lại, khi cung lớn hơn cầu, người sử dụng lao động có thể chọn lao động với chi phí thấp hơn Tình trạng thất nghiệp là điều không thể tránh khỏi và xảy ra ở mọi quốc gia, là rủi ro ngoài ý chí của người lao động.

Người lao động mất việc và không có thu nhập cần tìm cách duy trì cuộc sống cho bản thân và gia đình Vấn đề quan trọng là làm thế nào để đảm bảo thu nhập trong thời gian thất nghiệp Một trong những quyền cơ bản của con người, đặc biệt là người lao động, được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền ngày 10 tháng 12 năm 1948.

Mỗi cá nhân đều có quyền được sống với mức sống tối thiểu để bảo đảm sức khỏe cho bản thân và gia đình Họ có quyền làm việc và tự do lựa chọn nghề nghiệp, đồng thời được hưởng những điều kiện làm việc hợp lý và thuận lợi Ngoài ra, mọi người còn có quyền được bảo vệ khỏi tình trạng thất nghiệp.

Quyền được bảo vệ chống thất nghiệp là một trong những quyền cơ bản của con người, được công nhận không chỉ trong pháp luật quốc gia mà còn trong các quy định pháp luật quốc tế.

Sự ra đời của chế độ bảo hiểm thất nghiệp đã biến quyền này trở thành hiện thực

1.2.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiểm thất nghiệp

Thất nghiệp có ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người lao động và sự phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy các quốc gia cần tìm kiếm biện pháp hiệu quả để giải quyết tình trạng này Để bảo vệ quyền lợi và đảm bảo an toàn cho người lao động, cần triển khai các chính sách hỗ trợ cho người thất nghiệp Một số giải pháp phổ biến bao gồm: tăng cường môi giới việc làm, tư vấn nghề nghiệp, trợ cấp học nghề, bồi dưỡng và đào tạo lại nghề nghiệp, cũng như tạo ra các cơ hội việc làm mới.

Mặc dù các biện pháp hiện tại không giải quyết ngay lập tức vấn đề cấp bách nhất do thất nghiệp gây ra - đó là mất thu nhập, các quốc gia công nghiệp phát triển đã dành một khoản ngân sách lớn hàng năm cho an sinh xã hội và vấn đề thất nghiệp Tuy nhiên, tình trạng thất nghiệp gia tăng đã tạo áp lực nặng nề lên ngân sách Chính phủ Một giải pháp hiệu quả để bảo vệ người lao động khỏi khủng hoảng kinh tế khi mất việc là cung cấp khoản thu nhập bù đắp, đồng thời hỗ trợ đào tạo nghề và tìm kiếm việc làm, giúp họ nhanh chóng trở lại thị trường lao động thông qua mô hình bảo hiểm thất nghiệp.

Từ cuối thế kỷ XIX, bảo hiểm thất nghiệp đã ra đời, ban đầu là nguồn tài chính cho quỹ công đoàn Để khuyến khích hiệu quả lao động và bảo vệ đời sống công nhân, các doanh nghiệp đã đóng góp một phần thu nhập vào quỹ chung để trợ cấp thất nghiệp tạm thời hoặc một phần Các khoản đóng góp này được tính vào giá thành sản phẩm, làm tăng gánh nặng cho người tiêu dùng Nhận thấy tầm quan trọng của trợ cấp thất nghiệp, nhiều chính quyền địa phương đã liên kết doanh nghiệp và nghiệp đoàn để hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp Quỹ tự nguyện đầu tiên được thành lập tại Thụy Sỹ vào năm 1893, nhưng chỉ những người có công việc không ổn định mới tham gia Một số quốc gia khác đã hỗ trợ quỹ tư nhân để tăng thêm nguồn kinh phí cho trợ cấp thất nghiệp Tuy nhiên, quỹ tự nguyện gặp khó khăn tài chính và không đủ khả năng chi trả cho tất cả các rủi ro, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế Do đó, các nhà kinh tế đã kết luận rằng việc phát triển trợ cấp thất nghiệp cần phải được thực hiện bởi Nhà nước trên quy mô toàn quốc.

Vào đầu thế kỷ 20, cụ thể là trong các năm 1900 và 1910, Nauy và Đan Mạch đã thông qua Đạo luật quốc gia về bảo hiểm thất nghiệp tự nguyện, trong đó có sự hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước.

Vào năm 1911, Vương quốc Anh đã ban hành đạo luật đầu tiên về bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc, mở đầu cho xu hướng này tại nhiều quốc gia châu Âu khác, bao gồm Thụy Điển và Cộng hòa Liên bang Đức.

Sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 1929 đến 1933, nhiều quốc gia ở Châu Âu và Bắc Mỹ đã triển khai các Đạo luật về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp, điển hình là Hoa Kỳ vào năm 1935 và Canada vào năm 1939.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, đặc biệt là sau khi có Công ước số 102

Kể từ năm 1952, theo khuyến nghị của ILO, nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng bảo hiểm thất nghiệp và trợ cấp thất nghiệp nhằm giải quyết vấn đề thất nghiệp trong nước.

Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp

Bảo hiểm thất nghiệp là một quỹ tài chính được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước, nhằm cung cấp hỗ trợ thu nhập cho người lao động trong thời gian mất việc Đây là một chế độ trong hệ thống bảo hiểm xã hội, mang tính nhân đạo, tạo thành mạng lưới an toàn cho cuộc sống của người lao động Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ giúp đảm bảo đời sống cho người thất nghiệp và tạo cơ hội tìm việc mới, mà còn góp phần ổn định chính trị - xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững cho quốc gia.

1.2.2.1 Đối với người lao động

Bảo hiểm thất nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người lao động, đặc biệt khi họ rơi vào tình trạng thất nghiệp, dẫn đến mất nguồn thu nhập và phương tiện sinh sống Trong những lúc khó khăn này, bảo hiểm thất nghiệp trở thành một cứu cánh kinh tế, giúp bù đắp một phần thu nhập để người lao động ổn định cuộc sống Hơn nữa, chương trình này còn hỗ trợ người lao động trong việc tìm kiếm cơ hội quay trở lại thị trường lao động.

Trịnh Thị Hoa (2005) đã trình bày những lý luận cơ bản về bảo hiểm thất nghiệp hiện đại trong Tạp chí Bảo hiểm xã hội, nhấn mạnh vai trò của bảo hiểm thất nghiệp trong việc hỗ trợ người lao động thông qua các hoạt động như tìm kiếm việc làm, đào tạo nghề và nâng cao tay nghề.

Bảo hiểm thất nghiệp là một công cụ quan trọng giúp bảo vệ quyền lợi của người lao động, không chỉ hỗ trợ tài chính mà còn trang bị cho họ những kỹ năng và cơ hội để tự lập trong tương lai.

1.2.2.2 Đối với người sử dụng lao động

Bảo hiểm thất nghiệp giúp giảm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp khi xảy ra tình trạng thất nghiệp, đồng thời tạo sự yên tâm cho người lao động, khuyến khích họ làm việc hiệu quả hơn Điều này không chỉ hỗ trợ sự ổn định trong doanh nghiệp mà còn thúc đẩy sự phát triển sản xuất Mặc dù giữa người lao động và người sử dụng lao động luôn tồn tại những bất đồng về lợi ích, nhưng bảo hiểm thất nghiệp đã cân bằng được các quyền lợi, giảm thiểu mâu thuẫn và tạo ra môi trường làm việc ổn định, từ đó đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra suôn sẻ.

Mỗi quốc gia đều có một đội quân thất nghiệp với tỷ lệ khác nhau, đặc biệt cao trong thời kỳ suy thoái Khi ngân sách nhà nước hạn chế, việc chi cho giải quyết thất nghiệp trở thành gánh nặng lớn, nhưng bảo hiểm thất nghiệp giúp giảm bớt áp lực này Nhờ có bảo hiểm thất nghiệp, nhà nước không phải đối phó với biểu tình hay bãi công, đồng thời giảm thiểu chi phí cho các vấn đề xã hội phát sinh từ thất nghiệp Sự bảo vệ cuộc sống của người dân càng cao thì sự ổn định kinh tế, chính trị và xã hội càng vững bền.

Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ mang lại lợi ích thiết thực cho người lao động và doanh nghiệp mà còn góp phần quan trọng vào việc cân bằng nền kinh tế, giảm căng thẳng xã hội và ổn định chính trị tại mỗi quốc gia.

Bản chất của bảo hiểm thất nghiệp

7 Trịnh thị Hoa, Nhũng lí luận cơ bản về Bảo hiểm thất nghiệp hiện đại, Tạp chí Bảo hiểm xã hội 6/2005

Công ước 102 của Tổ chức Lao động quốc tế (1952) nhằm hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, bao gồm bảo hiểm xã hội, và khuyến nghị các nước thành viên thực hiện một số chế độ bảo hiểm nhất định Điều 2 của Công ước quy định rõ ràng về các yêu cầu này.

Bảo hiểm xã hội bao gồm ít nhất ba phần, trong đó có bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, và trợ cấp tai nạn lao động Bảo hiểm thất nghiệp là một chế độ quan trọng trong hệ thống bảo hiểm xã hội, mang những đặc điểm chung nhưng cũng có những nét riêng biệt so với các chế độ khác.

1.2.3.1 Đặc điểm chung của bảo hiểm thất nghiệp

Bảo hiểm thất nghiệp không nhằm mục đích kinh doanh hay lợi nhuận, mà là công cụ phân phối lại thu nhập xã hội Khi gặp khó khăn và mất thu nhập, bảo hiểm thất nghiệp cung cấp khoản trợ cấp giúp người lao động vượt qua giai đoạn khó khăn Chức năng của bảo hiểm thất nghiệp là thực hiện phân phối lại thu nhập dựa trên nguyên tắc công bằng, trong đó mức trợ cấp phụ thuộc vào mức độ đóng góp và rủi ro của từng cá nhân.

Bảo hiểm thất nghiệp, mặc dù không nhằm mục đích kinh doanh hay lợi nhuận, vẫn thể hiện bản chất kinh tế qua chức năng phân phối lại thu nhập trong xã hội Nhờ vào cơ chế đóng - hưởng, nó giúp đảm bảo đời sống của người lao động và gia đình họ trước những rủi ro và bất trắc xã hội.

Bảo hiểm thất nghiệp là một quỹ tổ chức nhằm hỗ trợ các cá nhân đối phó với những rủi ro và khó khăn trong cuộc sống Qua sự hợp tác và tương trợ, những khó khăn của cá nhân được phân tán rộng rãi, giúp họ nhanh chóng vượt qua và hòa nhập với cộng đồng Người lao động chỉ cần đóng góp một phần nhỏ từ thu nhập của mình vào quỹ, trong khi xã hội sẽ có đủ nguồn lực để bù đắp cho những rủi ro xảy ra, thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”.

Bảo hiểm thất nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ giữa tính kinh tế và tính xã hội, không thể tách rời Sự đảm bảo kinh tế cho người lao động và gia đình họ thể hiện tính xã hội của bảo hiểm, trong khi việc đóng góp một khoản nhỏ nhưng đủ để trang trải các rủi ro xã hội lại phản ánh tính kinh tế của hệ thống này.

1.2.3.2 Đặc điểm riêng của bảo hiểm thất nghiệp

 Bảo hiểm thất nghiệp là một chế độ khó quản lý và dự đoán

Bảo hiểm thất nghiệp là một chế độ quản lý khó khăn nhất trong các hệ thống bảo hiểm xã hội, do quy mô và mức độ thất nghiệp khó có thể dự đoán chính xác Dự báo đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp gặp nhiều thách thức bởi sự dịch chuyển lao động trong cơ chế thị trường, nơi mà quan hệ lao động ngày càng đa dạng Trong nền kinh tế thị trường, người lao động có thể dễ dàng rơi vào tình trạng thất nghiệp do tác động của quy luật cạnh tranh và cung cầu, cũng như các thay đổi trong cơ cấu sản xuất và công nghệ.

Người lao động trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh gặp khó khăn trong việc quản lý quyền lợi bảo hiểm thất nghiệp do tính không ổn định và luân chuyển của công việc Đặc biệt, tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ý thức chấp hành pháp luật của chủ sử dụng lao động còn hạn chế, dẫn đến tình trạng nhiều người đã có việc làm nhưng vẫn nhận trợ cấp thất nghiệp Hệ thống quản lý bảo hiểm thất nghiệp với nguồn lực hạn chế không thể bao quát hết các doanh nghiệp này, gây khó khăn trong việc xác định tài chính bảo hiểm Để đảm bảo sự cân đối giữa đóng góp và khoản hưởng, cần phải dự đoán chính xác rủi ro bảo hiểm.

Bảo hiểm thất nghiệp cần được liên kết chặt chẽ với hệ thống đào tạo nghề và các trung tâm dịch vụ việc làm, đồng thời cần có những biện pháp tích cực khác nhằm cải thiện tình hình thị trường lao động.

Chế độ bảo hiểm thất nghiệp và giải quyết việc làm có mối quan hệ chặt chẽ, là hai giai đoạn trong một quá trình thống nhất nhằm hỗ trợ người lao động Mặc dù cách tổ chức thực hiện khác nhau, cả hai đều hướng đến mục tiêu chung là an sinh xã hội, bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động Trong khi bảo hiểm thất nghiệp bù đắp một phần thu nhập cho người lao động thông qua các quy định về trợ cấp, thì giải quyết việc làm tiếp nối quá trình này bằng việc đưa người lao động trở lại thị trường lao động, giúp hạn chế và ngăn ngừa tình trạng thất nghiệp.

Bảo hiểm thất nghiệp đóng vai trò quan trọng trong chính sách việc làm của mỗi quốc gia, ảnh hưởng đến việc xác định số lượng người thất nghiệp, mức đóng góp và thời gian thụ hưởng Thông qua các dữ liệu này, chính phủ có thể đưa ra các định hướng nhằm tạo lập việc làm, từ việc dạy nghề, tư vấn việc làm cho đến việc hỗ trợ người lao động trở lại thị trường lao động.

Mối quan hệ giữa chế độ bảo hiểm thất nghiệp và giải quyết việc làm thể hiện rằng việc giải quyết hiệu quả công ăn việc làm cho người lao động không chỉ giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp mà còn góp phần phát triển một thị trường lao động lành mạnh Việc thực hiện đầy đủ các quy định về bảo hiểm thất nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho sự phát triển này.

Ngày nay, ở các nước phát triển, chế độ bảo hiểm thất nghiệp không chỉ được coi là biện pháp thụ động giải quyết hậu quả của thất nghiệp mà còn là một phần quan trọng trong chính sách thị trường lao động tích cực Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ chi trả trợ cấp mà còn thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, ngăn chặn thất nghiệp, bảo vệ việc làm, nâng cao năng lực nghề nghiệp và hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho người lao động Các hoạt động này liên quan chặt chẽ đến thị trường lao động và các chương trình tạo việc làm, vì không có chương trình trợ cấp nào có thể thay thế thu nhập từ công việc mà người lao động tự kiếm được Do đó, cần kết hợp đồng bộ chính sách bảo hiểm thất nghiệp với các biện pháp và chính sách việc làm để đảm bảo cơ hội tồn tại công bằng cho mọi người.

 Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ ngắn hạn

Công ước số 102 của ILO quy định thời gian trả trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 26 tuần trong vòng 12 tháng Tuy nhiên, thời gian chi trả trợ cấp khác nhau giữa các quốc gia Một số nước áp dụng chế độ bảo hiểm không có giới hạn thời gian, trong khi những nơi khác có quy định thời gian cụ thể Đối với các quốc gia có thời gian chi trả hạn chế, có hai cách tiếp cận: một là quy định thời gian hưởng trợ cấp tối đa cho tất cả người thất nghiệp mà không phân biệt thời gian làm việc và số tiền đóng góp; hai là căn cứ vào mức độ đóng góp vào quỹ để xác định thời gian hưởng trợ cấp tối đa.

Thời gian hưởng bảo hiểm thất nghiệp ở nhiều quốc gia thường từ 6 đến 24 tháng, tùy thuộc vào thời gian đóng bảo hiểm và độ tuổi của người lao động Đây được xem là chế độ ngắn hạn, nhằm tạo động lực cho người lao động nhanh chóng tìm kiếm việc làm mới Nếu sau khoảng thời gian này mà người lao động vẫn chưa tìm được việc, họ sẽ không còn nhận được trợ cấp thất nghiệp Hơn nữa, khoản trợ cấp này chỉ đủ để đảm bảo cuộc sống tối thiểu, điều này khuyến khích người lao động không ỷ lại vào trợ cấp mà nỗ lực tìm kiếm cơ hội việc làm mới.

Nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp

1.2.4.1 Bảo hiểm thất nghiệp dựa trên sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động để hình thành quỹ bảo hiểm độc lập và tập trung

Quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở các quốc gia có sự khác biệt nhưng đều tập trung vào ba đối tượng chính: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước Người lao động và người sử dụng lao động là hai bên bắt buộc tham gia, vì họ là những bên tạo ra quan hệ lao động dẫn đến tình trạng thất nghiệp Nhà nước, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, có thể hỗ trợ hoặc đóng góp vào quỹ này, thể hiện trách nhiệm trong việc quản lý các rủi ro ảnh hưởng đến đời sống xã hội.

Sự đóng góp này sẽ thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm thất nghiệp Điều này sẽ dẫn đến việc hình thành một quỹ tài chính độc lập, tập trung và không thuộc ngân sách nhà nước, nhằm đảm bảo an toàn cho quỹ và chủ động trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến thất nghiệp.

1.2.4.2 Bảo hiểm thất nghiệp phải lấy số đông bù số ít

Quỹ bảo hiểm thất nghiệp được hình thành từ sự đóng góp của nhiều người tham gia, tuy nhiên chỉ những người đáp ứng đủ điều kiện mới được nhận trợ cấp Điều này bao gồm cả những người mới tham gia và những người đã có thời gian tham gia trước đó.

Bảo hiểm thất nghiệp mang tính chất xã hội, thể hiện sự tương trợ và chia sẻ rủi ro giữa các thành viên Mặc dù có sự khác biệt về mức độ nguy cơ thất nghiệp giữa các cá nhân, nhưng nguyên tắc bình đẳng trong việc hưởng bảo hiểm yêu cầu rằng kết quả đóng góp của số đông người tham gia sẽ được sử dụng để hỗ trợ cho những người gặp khó khăn Điều này không chỉ giúp cân đối thu chi mà còn đảm bảo an toàn cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp, đồng thời khẳng định bản chất của hệ thống bảo hiểm này.

1.2.4.3 Nguyên tắc cân đối giữa đóng góp và hưởng thụ, nhu cầu thực tế với khả năng đáp ứng và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội

Bảo hiểm thất nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người lao động mất thu nhập do thất nghiệp Việc quy định tỷ lệ và thời gian hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng cần đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động, đồng thời cân nhắc đến mức đóng góp bảo hiểm thất nghiệp trước đó của họ.

Mức đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp cần được điều chỉnh sao cho phù hợp với khả năng tài chính của người lao động, đồng thời đảm bảo yêu cầu tài chính của quỹ Điều này nhằm tránh ảnh hưởng tiêu cực đến mức tiêu dùng hiện tại của người lao động, giá thành sản xuất và khả năng cân đối thu chi của ngân sách.

Xác định mức hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cần cân nhắc khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm và khuyến khích người lao động tìm kiếm việc làm Nếu tỷ lệ trợ cấp quá thấp hoặc thời gian hưởng quá ngắn, sẽ làm mất ý nghĩa của bảo hiểm thất nghiệp Ngược lại, nếu mức trợ cấp quá cao và thời gian hưởng kéo dài, sẽ gây khó khăn cho tài chính quỹ bảo hiểm, đồng thời tạo tâm lý ỷ lại ở người lao động Do đó, khi xây dựng mức trợ cấp thất nghiệp, cần đảm bảo các điều kiện nhất định để duy trì tính hiệu quả và khuyến khích người lao động chủ động tìm kiếm công việc.

- Mức trợ cấp phải đảm bảo mức sống tối thiểu của người lao động;

- Mức trợ cấp phải nhỏ hơn tiền lương hoặc tiền công khi đang làm việc của người lao động một cách hợp lý;

- Mức trợ cấp phải dựa trên cơ sở sự đóng góp và thời gian đóng góp;

- Mức trợ cấp phải phản ánh được nghĩa vụ trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm

Mỗi quốc gia cần điều chỉnh mức đóng góp và thời gian hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp dựa trên tình hình thực tế của nền kinh tế xã hội, đảm bảo tính hợp lý và tuân thủ các thông lệ cũng như luật pháp quốc tế.

1.2.4.4 Nguyên tắc công bằng trong bảo hiểm thất nghiệp

Người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp sẽ nhận trợ cấp khác nhau tùy thuộc vào thời gian và mức đóng góp Để đảm bảo công bằng, chế độ bảo hiểm không phân biệt đối xử với bất kỳ người tham gia nào, bất kể loại hình hay thành phần kinh tế Sự công bằng này còn thể hiện qua các quy định thống nhất về đóng góp và thụ hưởng, nhằm khuyến khích người lao động tích cực tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

1.3 Cơ sở xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở iệt Nam

1.3.1 Tính cấp thiết của việc ban hành chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở iệt Nam

Với cơ cấu dân số trẻ, lực lượng lao động tại Việt Nam rất phong phú, hàng năm có khoảng 1,2 đến 1,3 triệu người đủ tuổi lao động, trong đó nam từ 15 đến 60 tuổi và nữ từ 15 đến 55 tuổi.

Trong độ tuổi từ 15 đến 55, nhu cầu tìm kiếm việc làm ngày càng cao, tuy nhiên, khả năng thu hút lao động của nền kinh tế lại bị hạn chế Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thay đổi công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra áp lực lớn lên thị trường lao động Nền kinh tế thị trường mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng bộc lộ những vấn đề như việc làm và tình trạng thất nghiệp Tỷ lệ thất nghiệp ở mức cho phép có thể thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và cải thiện quan hệ lao động, từ đó nâng cao năng suất và chất lượng Ngược lại, nếu tỷ lệ thất nghiệp vượt quá mức cho phép, nó sẽ trở thành một vấn đề xã hội nghiêm trọng cần được giải quyết.

Tình hình thất nghiệp trong độ tuổi ở iệt Nam ( 3 - 2006) 9

Tổng số người thất nghiệp (1.000 người) 949 926 929 997

9 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Kết quả điều tra lao động việc làm 2003, 2004, 2005, 2006

Tỷ lệ thất nghiệp chung của lực lượng lao động ở Việt Nam trong thời gian qua rất thấp, chủ yếu do khoảng 76% lao động làm việc tại nông thôn, nơi phần lớn là nông dân và hộ kinh doanh nhỏ, dẫn đến nguy cơ thất nghiệp thấp Chỉ khoảng 17% lao động làm việc trong khu vực công ăn lương có khả năng thất nghiệp Do đó, cần tập trung vào tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố, trong khi ở nông thôn cần xem xét thời gian lao động chưa được sử dụng.

Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thời gian làm việc đƣợc sử dụng ở nông thôn của lực lƣợng lao động trong độ tuổi ( -2005) 10

Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị (%) 6,01 5,78 5,60 5,31 Thời gian sử dụng ở khu vực nông thôn (%) 75,42 77,65 79,10 80,65

Căn cứ kết quả điều tra lao động, việc làm của Bộ Lao động - Thương binh và

Năm 2005, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi tại khu vực thành thị là 5,31%, cho thấy sự giảm sút so với các năm trước Tuy nhiên, tình trạng thất nghiệp hiện nay vẫn tồn tại nhiều vấn đề đáng chú ý, đặc biệt là trong cơ cấu lao động tại khu vực thành thị, cần được quan tâm và giải quyết.

Theo thống kê, tỷ lệ người thất nghiệp dài hạn (trên 12 tháng) chiếm 56,7%, trong khi tỷ lệ thất nghiệp từ 6 đến dưới 12 tháng là 21,4% Tổng cộng, hai nhóm này chiếm đến 78,1% tổng số người thất nghiệp Bên cạnh đó, tỷ lệ thất nghiệp từ 1 đến dưới 6 tháng là 18,2%, và tỷ lệ thất nghiệp dưới 1 tháng chỉ chiếm 3,7%.

Theo nhóm tuổi, ở nhóm tuổi càng trẻ thì tỷ lệ thất nghiệp càng cao: nhóm 15-

19 tuổi tỷ lệ thất nghiệp lên đến 13,9%, nhóm 20-24 tuổi 13,8%, nhóm 25-29 tuổi 7,2%, nhóm 30-34 tuổi 5,2%, nhóm 35-39 tuổi 4%, nhóm 40-44 tuổi 3,9% 12

Theo trình độ chuyên môn, tỷ lệ thất nghiệp không chỉ tồn tại ở lực lượng lao động chưa qua đào tạo (8%), mà còn ở các nhóm lao động đã qua đào tạo, với 1,8% là người đã qua đào tạo nghề, 4,4% là người tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, và 3,8% là người tốt nghiệp cao đẳng, đại học Đặc biệt, trong tổng số lao động thất nghiệp tại thành phố, 73,7% là những người chưa tìm được việc làm sau khi thôi học hoặc tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo.

Cơ sở kinh tế - xã hội

Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới vào năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua những chuyển biến mạnh mẽ Chúng ta đã từ một nền kinh tế tự cung tự cấp, khép kín với cơ chế quản lý tập trung và bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong thị trường đã thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.

Chính sách mở cửa của Việt Nam đã thúc đẩy đầu tư nước ngoài (FDI) gia tăng mạnh mẽ, với hơn 5.000 dự án FDI còn hiệu lực và tổng vốn gần 50 tỷ USD tính đến cuối năm 2005 Trong năm 2005, có 771 dự án mới được cấp phép với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 3,9 tỷ USD Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài không chỉ cung cấp nguồn vốn lớn cho sản xuất mà còn tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động Tỷ lệ lao động trong khu vực FDI mặc dù còn thấp, nhưng đã tăng từ 0,99% năm 2000 lên 2,66% năm 2005.

Luật Doanh nghiệp 2005 đã tạo nền tảng cho sự hình thành và phát triển của hàng trăm ngàn doanh nghiệp ngoài quốc doanh, góp phần tạo ra việc làm và nâng cao thu nhập cho hàng triệu lao động Khu vực này hiện chiếm 87,84% tổng số việc làm trong nền kinh tế và hàng năm đóng góp hơn 60% vào GDP Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh không chỉ khẳng định vị thế quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân mà còn tạo điều kiện mở rộng các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động.

17 Tổng cục thống kê, Tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và cả năm 2005

18 Tổng cục thống kê, Cơ cấu lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo thành phần kinh tế và ngành kinh tế

19 Tổng cục thống kê, Cơ cấu lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo thành phần kinh tế và ngành kinh tế

Từ năm 1992 đến 2005, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam đã tăng mạnh từ 228.892 tỷ đồng lên 889.221 tỷ đồng, cho thấy sự phát triển kinh tế liên tục và ấn tượng Tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước đã duy trì ở mức cao, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

2005 với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức 8,4%, Việt Nam là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất ở khu vực Đông Nam Á

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia là chỉ số quan trọng phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của Nhà nước Khi một quốc gia duy trì tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, đời sống người dân sẽ được cải thiện, doanh nghiệp sẽ gặp nhiều thuận lợi trong sản xuất kinh doanh, từ đó khuyến khích chủ doanh nghiệp tham gia bảo hiểm cho người lao động Điều này giúp giảm tình trạng trốn tránh trách nhiệm bảo hiểm Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ cũng đồng nghĩa với việc nhiều lao động có thu nhập cao, tạo điều kiện cho họ tham gia bảo hiểm thất nghiệp Cuối cùng, khi đời sống kinh tế nâng cao, nhận thức của người lao động cũng được cải thiện, họ không chỉ quan tâm đến cuộc sống hàng ngày mà còn mong muốn có sự hỗ trợ khi gặp rủi ro thất nghiệp.

Sự tăng trưởng kinh tế đã thúc đẩy các chương trình kinh tế - xã hội hiệu quả trong việc giải quyết việc làm, với 1,6 triệu người được tạo công ăn việc làm trong năm 2005, theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Trong đó, 1.120.000 người, chiếm 70%, có việc làm nhờ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội; 405.000 người, tương đương 25,32%, từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm; và 75.000 người, chiếm 4,68%, thông qua xuất khẩu lao động Những kết quả này tạo nền tảng vững chắc cho việc xây dựng và thực hiện hiệu quả các chế độ bảo hiểm thất nghiệp.

Sau gần 20 năm phát triển kinh tế thị trường, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế đáng kể Sự tách biệt của Bảo hiểm xã hội Việt Nam thành một quỹ tài chính độc lập với ngân sách Nhà nước đã tạo điều kiện cho Việt Nam đủ khả năng tổ chức và tài chính nhằm xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp.

Cơ sở pháp lý

20 Tổng cục thống kê, Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế và theo ngành kinh tế

21 Http://vietbao.vn/Xa-hoi/Nam-2006-du-kien-giai-quyet-viec-lam-cho-1-6-trieu-nguoi/65040550/157/

Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có sự điều chỉnh mạnh mẽ để phù hợp với các quan hệ xã hội mới Sự chuyển đổi này đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Hiến Pháp 1992 đánh dấu một bước quan trọng trong việc xác định nền kinh tế thị trường của Việt Nam (Điều 15) Mặc dù không trực tiếp đề cập đến thất nghiệp, nhưng Điều 55 quy định rằng "Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động", trong khi Điều 56 khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội cho người lao động Những quy định này tạo nền tảng cho việc ban hành các luật liên quan đến vấn đề thất nghiệp và giải quyết thất nghiệp tại Việt Nam.

Bộ luật lao động 1994 đã điều chỉnh các quan hệ và quản lý lao động, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam Đặc biệt, Điều 140 của Bộ luật này (được sửa đổi, bổ sung vào năm 2002) có những quy định quan trọng liên quan đến vấn đề này.

Chính phủ đã quy định chi tiết về việc đào tạo lại cho người lao động thất nghiệp, tỷ lệ đóng bảo hiểm thất nghiệp, cũng như điều kiện và mức trợ cấp thất nghiệp Những quy định này là cơ sở quan trọng để xây dựng và quản lý chế độ bảo hiểm thất nghiệp hiệu quả.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam đang tích cực hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, bao gồm cả lĩnh vực pháp luật Việc gia nhập Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) yêu cầu Việt Nam tuân thủ các quy định chung về lao động và thất nghiệp của tổ chức này.

Việc xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam đã phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế và tuân thủ các quy định của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho hệ thống bảo hiểm này.

Trước nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế, Việt Nam đã đủ điều kiện để xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp Nghị quyết Hội nghị Trung ương khóa IX đã chỉ rõ việc khẩn trương bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội và ban hành chế độ bảo hiểm thất nghiệp Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Chính phủ và Quốc hội Luật bảo hiểm xã hội, trong đó có Chương V quy định về bảo hiểm thất nghiệp, được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực từ 01/01/2009 Chế độ bảo hiểm thất nghiệp không chỉ hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội mà còn đảm bảo quyền lợi cho người lao động, góp phần giải quyết những bức xúc trong phát triển kinh tế xã hội Việc ra đời chế độ này đáp ứng nguyện vọng của cả người lao động và người sử dụng lao động, trở thành giải pháp hiệu quả để khắc phục tình trạng thất nghiệp tại Việt Nam.

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP

2.1 Hình thức của bảo hiểm thất nghiệp

Trên thế giới, bảo hiểm xã hội được chia thành hai loại: bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện Bảo hiểm xã hội bắt buộc là hình thức do pháp luật quy định, nhằm bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội, trong khi bảo hiểm xã hội tự nguyện cho phép người tham gia lựa chọn mức đóng phù hợp với thu nhập Bảo hiểm thất nghiệp, một chế độ quan trọng của bảo hiểm xã hội, cũng có hai hình thức này, nhưng việc áp dụng bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc là cần thiết để đảm bảo đời sống cho người thất nghiệp và góp phần ổn định chính trị, xã hội Ở Việt Nam, bảo hiểm thất nghiệp được quy định là chế độ bắt buộc nhằm tránh những bất cập từ hình thức tự nguyện, bởi vì chỉ những người lao động có nguy cơ thất nghiệp cao mới tham gia Điều này giúp đảm bảo quỹ bảo hiểm thất nghiệp hoạt động hiệu quả, ngăn chặn tình trạng thâm hụt quỹ do sự tham gia tự nguyện có thể dẫn đến Hơn nữa, bảo hiểm thất nghiệp khó quản lý do nhiều người có thể nhận trợ cấp trong khi vẫn có thu nhập từ công việc không đăng ký Do đó, quy định bảo hiểm thất nghiệp là chế độ bắt buộc là hợp lý để đảm bảo tài chính cho nhu cầu bảo hiểm này.

Bảo hiểm thất nghiệp là một vấn đề quan trọng đối với các quốc gia, với đối tượng tham gia chủ yếu là người lao động và người sử dụng lao động, tuy nhiên, phạm vi này có thể thay đổi tùy thuộc vào quy định của từng nước Thông thường, người lao động thất nghiệp cần phải có thời gian lao động nhất định và làm việc trong các cơ sở có quy mô lao động theo quy định Tại Việt Nam, đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp được quy định tại Điều 80 của Luật bảo hiểm xã hội, bao gồm cả người lao động có hợp đồng lao động từ 12 tháng trở lên Quy định này giúp xác định rõ ràng đối tượng tham gia, nhằm kiểm soát thời gian đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp một cách hiệu quả hơn.

Theo điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị định số 127/2008/NĐ-CP, hợp đồng làm việc không xác định thời hạn được quy định cho cả những người làm việc tại các đơn vị sự nghiệp nhà nước trước khi Nghị định số 116/2003/NĐ-CP có hiệu lực Những viên chức này được tuyển dụng không thông qua hợp đồng mà dựa trên các quyết định tuyển dụng và bổ nhiệm Nghị định số 116/2003/NĐ-CP nêu rõ các quy định liên quan đến việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp nhà nước.

Tất cả viên chức, bao gồm cả người đứng đầu và cấp phó, tại các đơn vị sự nghiệp nhà nước đều phải ký hợp đồng làm việc, theo quy định tại Điều 52 Điều này đồng nghĩa với việc mọi viên chức đều có quyền tham gia bảo hiểm thất nghiệp Để người sử dụng lao động có thể tham gia bảo hiểm thất nghiệp, họ cần phải có từ 10 lao động trở lên Thông tư số 04/2009/TT-BLĐTBXH, ban hành ngày 22 tháng 1 năm 2009, đã hướng dẫn một số điều trong Nghị định 127/2008/NĐ-CP.

04), tại mục III.1.1 có quy định về số lao động được người sử dụng lao động sử dụng từ

Theo quy định, số lao động từ 10 người trở lên bao gồm: lao động Việt Nam có hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng xác định thời hạn từ 12 đến 36 tháng, hoặc hợp đồng theo mùa vụ và công việc nhất định có thời hạn từ 3 tháng trở lên Đối với các cơ quan nhà nước, lao động còn bao gồm cả cán bộ, công chức đang làm việc tại cơ quan.

Người sử dụng lao động chỉ có trách nhiệm đóng bảo hiểm thất nghiệp cho những lao động có hợp đồng từ đủ 1 năm trở lên, mặc dù tổng số lao động mà đơn vị sử dụng là 10 người.

Bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội áp dụng cho nhiều đối tượng, bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức chính trị.

Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, và các tổ chức khác, bao gồm cả cơ quan nước ngoài và tổ chức quốc tế, đều hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam Ngoài ra, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, và tổ hợp tác cũng có trách nhiệm thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động là công dân Việt Nam.

Các chế độ bảo hiểm thất nghiệp

Quỹ bảo hiểm thất nghiệp

Một số vấn đề khi triển khai áp dụng bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam

Một số giải pháp nhằm triển khai và hoàn thiện bảo hiểm thất nghiệp

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:27

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Viện nghiên cứu quản lí kinh tế Trung ương (2005), Kinh tế Việt Nam 2004, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế Việt Nam 2004
Tác giả: Viện nghiên cứu quản lí kinh tế Trung ương
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Năm: 2005
2. Tài liệu tham khảo dự án đào tạo về bảo hiểm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Việt Nam và Hoa Kỳ hợp tác Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu tham khảo dự án đào tạo về bảo hiểm
Tác giả: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Việt Nam, Hoa Kỳ
3. Đàm Bích Hiên, Trợ cấp thôi việc theo Luật lao động Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trợ cấp thôi việc theo Luật lao động Việt Nam
Tác giả: Đàm Bích Hiên
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
4. Anh Linh (2003), Bảo hiểm thất nghiệp của một số nước, Tạp chí Lao động & xã hội (206+207+208) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo hiểm thất nghiệp của một số nước
Tác giả: Anh Linh
Nhà XB: Tạp chí Lao động & xã hội
Năm: 2003
5. Lê Thị Hoài Thu, Sự cần thiết xây dựng chế độ trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Nhà Nước và Pháp luật 3/2000, số 143 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự cần thiết xây dựng chế độ trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam
Tác giả: Lê Thị Hoài Thu
Nhà XB: Tạp chí Nhà Nước và Pháp luật
Năm: 2000
7. Nguyễn Năng Khánh, Pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp – Sự cần thiết khách quan, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, 10/2001, số 9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp – Sự cần thiết khách quan
Tác giả: Nguyễn Năng Khánh
Nhà XB: Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Năm: 2001
8. Nguyễn Thị Hải Đường, Nhu cầu tham gia Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Lao đông & Xã hội số 335 (từ 16/3/2009 – 31/3/2009) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhu cầu tham gia Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Hải Đường
Nhà XB: Tạp chí Lao động & Xã hội
Năm: 2009
9. Nguyễn Tiệp, Một số vấn đề về Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Lao động & Xã hội, 4/2009, số 356 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Tiệp
Nhà XB: Tạp chí Lao động & Xã hội
Năm: 2009
14. Vũ Hồng Minh, Khởi kiện doanh nghiệp vi phạm về đóng bảo hiểm xã hội - Thực tiễn và vướng mắc, Tạp chí Bảo hiểm xã hội số 11/2008.III. BÁO CÁO Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khởi kiện doanh nghiệp vi phạm về đóng bảo hiểm xã hội - Thực tiễn và vướng mắc
Tác giả: Vũ Hồng Minh
Nhà XB: Tạp chí Bảo hiểm xã hội
Năm: 2008
1. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) Khác
2. Bộ luật Lao động Việt Nam (sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006, 2007) 3. Luật Bảo hiểm xã hội.4. Luật Bảo hiểm y tế Khác
5. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2008) Khác
6. Nghị định số 127/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp Khác
7. Nghị định số 116/2003/NĐ-CP về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước Khác
8. Nghị định số 135/2007/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Bảo hiểm xã hội Khác
9. Thông tư số 04/2009/TT-BLĐTBXH hướng dẫn một số điều Nghị định 127/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp Khác
10. Thông tư số 96/2009/TT-BTC hướng dẫn chế độ tài chính đối với quỹ bảo hiểm thất nghiệp Khác
11. Thông tư số 17/2009/TT-BLĐTBXH sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn về hợp đồng lao động Khác
12. Công văn số 1461/BLĐTBXH-VL về việc thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp Khác
13. Công văn số 3168/BLĐTBXH-LĐTL về việc chế độ thôi việc đối với người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp từ ngày 1/1/2009 Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bên cạnh đó, mỗi quốc gia phải căn cứ vào tình hình thực tế của nền kinh tế xã hội mà quy định mức đóng góp và thời hạn hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho  hợp lý, phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế - Pháp luật việt nam về bảo hiểm thất nghiệp
n cạnh đó, mỗi quốc gia phải căn cứ vào tình hình thực tế của nền kinh tế xã hội mà quy định mức đóng góp và thời hạn hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho hợp lý, phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế (Trang 22)
Bảng kết quả điều tra đánh giá - Pháp luật việt nam về bảo hiểm thất nghiệp
Bảng k ết quả điều tra đánh giá (Trang 51)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w