1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp 2014

49 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghĩa Vụ Góp Vốn Vào Doanh Nghiệp Theo Luật Doanh Nghiệp 2014
Tác giả Trương Nguyễn Ngọc Dung
Người hướng dẫn ThS. Đặng Hoa Trang
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Thương Mại
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân Luật
Năm xuất bản 2017
Thành phố Tp Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 49
Dung lượng 748,4 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ NGHĨA VỤ GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP (11)
    • 1.1 Khái quát chung về doanh nghiệp (11)
      • 1.1.1 Khái niệm (11)
      • 1.1.2 Đặc điểm (11)
      • 1.1.3 Phân loại (13)
    • 1.2 Khái quát chung về nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp (15)
      • 1.2.1 Khái niệm về nghĩa vụ góp vốn (15)
      • 1.2.2 Đặc điểm của nghĩa vụ góp vốn (17)
      • 1.2.3 Ý nghĩa của nghĩa vụ góp vốn (18)
    • 1.3 Các vấn đề pháp lý liên quan (21)
      • 1.3.1 Các đối tƣợng có quyền góp vốn vào doanh nghiệp (21)
      • 1.3.2 Tài sản góp vốn vào doanh nghiệp (25)
  • CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VỀ NGHĨA VỤ GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP - THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ (28)
    • 2.1 Cam kết góp vốn vào doanh nghiệp (28)
    • 2.2 Định giá tài sản góp vốn (29)
    • 2.3 Chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn (0)
    • 2.4 Thời hạn thực hiện nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp (35)
    • 2.5 Thay đổi loại tài sản góp vốn (0)
    • 2.6 Cơ chế giám sát việc thực hiện nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp (37)
    • 2.7 Vi phạm nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp và hậu quả pháp lý (38)

Nội dung

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ NGHĨA VỤ GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP

Khái quát chung về doanh nghiệp

Khi nền kinh tế thị trường phát triển, nhu cầu hợp tác kinh doanh gia tăng, dẫn đến việc các chủ thể hùn hạp vốn nhàn rỗi để tham gia sản xuất, kinh doanh nhằm thu lợi ích vật chất Các ý tưởng kinh doanh được hình thành, bao gồm lĩnh vực, quy mô sản xuất và đầu tư vào công nghệ để tối ưu hóa lợi nhuận Để hiện thực hóa những ý tưởng này, việc thành lập doanh nghiệp trở thành ưu tiên hàng đầu, vì doanh nghiệp đóng vai trò cầu nối giữa nhà đầu tư và khách hàng, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh Doanh nghiệp cho phép các chủ thể quyết định và quản lý hoạt động của mình theo pháp luật Theo Điều 4 khoản 7 LDN 2014, doanh nghiệp được định nghĩa là tổ chức có tên riêng, tài sản, trụ sở giao dịch và được đăng ký theo quy định pháp luật với mục đích kinh doanh, từ đó khái quát các đặc điểm của doanh nghiệp.

Thứ nhất, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế đƣợc thành lập theo quy định của pháp luật và phải dưới một hình thức pháp lý nhất định

Theo Luật Doanh Nghiệp (LDN) 2014, doanh nghiệp được định nghĩa là một tổ chức kinh tế hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận Tuy nhiên, khái niệm tổ chức kinh tế có thể khá rộng và khó xác định Do đó, LDN 2014 đã quy định doanh nghiệp phải có các thuộc tính cụ thể như: tên riêng, tài sản, trụ sở giao dịch và được đăng ký theo quy định pháp luật nhằm mục đích kinh doanh So với LDN 2005, định nghĩa doanh nghiệp trong LDN 2014 đã có những điều chỉnh quan trọng.

5 Từ Thanh Thảo - Nguyễn Việt Khoa (2010), Luật Kinh tế, NXB Phương Đông, tr 7

6 Trường đại học Luật thành phố Hố Chí Minh (2016), Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, NXB

Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr 22

7 Đào Thị Thu Hằng (2016), Pháp luật về chủ thể kinh doanh, NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí

Các doanh nghiệp hiện nay được thành lập thông qua thủ tục đăng ký doanh nghiệp để nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, và phải hoạt động dưới một hình thức pháp lý nhất định Hình thức pháp lý của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố và đặc điểm pháp lý để phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp khác nhau Tại Việt Nam, các hình thức pháp lý phổ biến hiện nay bao gồm công ty cổ phần (CTCP), công ty hợp danh (CTHD), công ty trách nhiệm hữu hạn (Công ty TNHH) và doanh nghiệp tư nhân (DNTN).

Thứ hai, doanh nghiệp phải có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch và có sử dụng lao động làm thuê

Tên doanh nghiệp phải được lựa chọn bởi các nhà đầu tư và tuân thủ quy định pháp luật; nếu không, cơ quan đăng ký kinh doanh có quyền từ chối Tên tiếng Việt bao gồm hai thành tố: loại hình doanh nghiệp và tên riêng, có thể thêm yếu tố chức năng kinh doanh để giúp người tiêu dùng nhận biết sản phẩm, dịch vụ Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng tên tiếng nước ngoài, được dịch từ tiếng Việt sang một trong các ngôn ngữ sử dụng chữ La-tinh, với tên riêng có thể giữ nguyên hoặc dịch theo nghĩa tương ứng Ngoài ra, việc đặt tên doanh nghiệp không được vi phạm các điều cấm của Luật Doanh Nghiệp.

Theo quy định năm 2014, doanh nghiệp không được đặt tên trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên doanh nghiệp đã đăng ký, sử dụng tên của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, hay vi phạm truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc Tên doanh nghiệp không chỉ là yếu tố hình thức mà còn là dấu hiệu xác định tư cách pháp lý của doanh nghiệp trên thị trường, giúp Nhà nước quản lý hiệu quả Mỗi doanh nghiệp cần có trụ sở giao dịch để đảm bảo hoạt động kinh doanh, vì đây là địa điểm liên lạc quan trọng cho khách hàng và đối tác, với địa chỉ rõ ràng trên lãnh thổ Việt Nam.

8 Điều 38, Điều 39, Điều 40 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014

9 Lê Học Lâm - Lê Ngọc Đức (2011), Luật Kinh doanh, NXB Lao động - Xã hội, tr 61

Bài viết đề cập đến 8 huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh, và thành phố trực thuộc trung ương, cùng với thông tin liên hệ như số điện thoại, số fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có) Ngoài ra, doanh nghiệp còn có chi nhánh, văn phòng đại diện và các địa điểm kinh doanh khác.

Doanh nghiệp cần có tài sản để phục vụ cho hoạt động kinh doanh, bao gồm cả cơ sở vật chất và phương tiện kinh doanh Tài sản không chỉ là nguồn lực cho hoạt động mà còn là bảo đảm cho các cam kết tài chính Tài sản của doanh nghiệp được hình thành từ vốn góp của các nhà đầu tư, bao gồm vốn điều lệ và vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân Ngoài ra, tài sản cũng có thể được tạo ra từ việc huy động vốn hoặc tích lũy trong quá trình hoạt động kinh doanh.

Doanh nghiệp cần có lao động làm thuê để hoạt động hiệu quả Là một thực thể pháp lý, doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, nhưng mọi hoạt động sản xuất và kinh doanh đều diễn ra thông qua con người cụ thể Do đó, lao động làm thuê luôn đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành của doanh nghiệp.

Thứ ba, doanh nghiệp đƣợc thành lập nhằm mục đích kinh doanh

Theo khoản 16 Điều 4 LDN 2014, "kinh doanh" được định nghĩa là việc thực hiện liên tục các công đoạn trong quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi Mục tiêu sinh lợi không chỉ bao gồm lợi ích vật chất mà còn có thể là lợi ích phi vật chất, với các hoạt động có thể không nhằm thu lợi nhuận một cách trực tiếp Mặc dù các nhà đầu tư khi thành lập doanh nghiệp thường hướng đến việc tìm kiếm lợi nhuận, nhưng cũng có những doanh nghiệp được thành lập với mục đích thực hiện dịch vụ công ích, trong đó nhiệm vụ chính không phải là lợi nhuận mà là phục vụ lợi ích công cộng.

Hiện nay, khoa học pháp lý phân loại doanh nghiệp dựa trên nhiều tiêu chí, chủ yếu là hình thức sở hữu, mục đích hoạt động và quy mô kinh doanh Tuy nhiên, hai tiêu chí quan trọng nhất vẫn là hình thức pháp lý và tư cách pháp nhân.

Dựa vào hình thức pháp lý của doanh nghiệp, chúng ta có thể nhận diện và phân biệt các loại hình doanh nghiệp khác nhau dựa trên những đặc điểm pháp lý đặc trưng của từng loại.

10 Điều 43, Điều 45 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014

11 Từ Thanh Thảo - Nguyễn Việt Khoa, tlđd (5), tr 12

9 loại hình doanh nghiệp khác thì doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm: CTCP, CTHD, Công ty TNHH và DNTN

Doanh nghiệp được coi là có tƣ cách pháp nhân khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015.

Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân bao gồm CTCP, Công ty TNHH và CTHD, trong khi DNTN không có tư cách pháp nhân theo LDN 2014 DNTN do một cá nhân làm chủ và chủ sở hữu chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản cá nhân cho mọi hoạt động của doanh nghiệp Tài sản của chủ DNTN không cần chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp, dẫn đến việc DNTN không có tài sản độc lập Trong trường hợp phát sinh nợ, chủ DNTN phải dùng toàn bộ tài sản của mình để chi trả cho chủ nợ Tư cách pháp lý của DNTN phụ thuộc vào tư cách pháp lý của chủ, người này là đại diện theo pháp luật và có thể tham gia các quan hệ pháp luật liên quan đến DNTN Do đó, DNTN không có tài sản độc lập và không thể tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập, chính vì vậy DNTN không được công nhận là pháp nhân.

Hiện nay, vấn đề tư cách pháp nhân của công ty hợp danh (CTHD) vẫn còn nhiều tranh cãi CTHD bao gồm hai loại thành viên: thành viên hợp danh (TVHD) và thành viên góp vốn (TVGV) Trong khi TVGV chỉ chịu trách nhiệm về nợ trong phạm vi vốn đã góp, TVHD phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với nghĩa vụ của công ty Nếu tài sản của CTHD không đủ để thanh toán nợ, TVHD sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số nợ còn lại Do chế độ trách nhiệm vô hạn của TVHD, một số ý kiến cho rằng CTHD không có tư cách pháp nhân vì không đáp ứng tiêu chí “tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình” Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn khẳng định tư cách pháp nhân của CTHD, vì trong quá trình kinh doanh, CTHD phải sử dụng tài sản của mình để giải quyết các khoản nợ phát sinh.

Theo Điều 74 của Bộ luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi đáp ứng các điều kiện sau: được thành lập theo quy định của Bộ luật và luật liên quan; có cơ cấu tổ chức theo Điều 83 của Bộ luật; sở hữu tài sản độc lập với cá nhân và pháp nhân khác, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; và tham gia vào quan hệ pháp luật một cách độc lập nhân danh mình.

Khái quát chung về nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp

1.2.1 Khái niệm về nghĩa vụ góp vốn

Nhu cầu sản xuất và kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận, cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường, đã thúc đẩy các nhà đầu tư hợp tác thông qua việc góp vốn Góp vốn được hiểu là hành động các nhà đầu tư tự bỏ vốn hoặc kết hợp với những đối tác khác để tạo ra nguồn lực chung lớn hơn, nhằm thực hiện ý tưởng kinh doanh và mang lại lợi ích vật chất cho mình.

Theo quy định pháp luật, góp vốn được định nghĩa là hành động mà nhà đầu tư đưa tài sản vào doanh nghiệp dưới nhiều hình thức khác nhau, nhằm mục đích trở thành chủ sở hữu hoặc đồng sở hữu doanh nghiệp.

Năm 2005, Luật Doanh nghiệp đã định nghĩa “góp vốn” tại khoản 4 Điều 4, nêu rõ rằng đây là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung Theo luật hiện hành, “góp vốn” được hiểu là việc góp tài sản để hình thành vốn điều lệ, bao gồm cả việc thành lập doanh nghiệp mới hoặc tăng vốn cho doanh nghiệp đã có Vốn điều lệ là tổng giá trị tài sản mà các thành viên đã góp hoặc cam kết góp khi thành lập công ty Góp vốn không chỉ diễn ra khi thành lập công ty mà còn có thể xảy ra sau đó, giúp xác lập quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2014 chỉ giải thích thuật ngữ “góp vốn” mà không định nghĩa rõ ràng về “nghĩa vụ góp vốn”, đây là một dạng nghĩa vụ pháp lý cần được làm rõ.

13 Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa - NXB Tƣ pháp, tr 312

14 Khoản 13 Điều 4 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/ QH13) ngày 26/11/2014

15 Khoản 29 Điều 4 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/ QH13) ngày 26/11/2014

Nghĩa vụ pháp lý là một khái niệm quan trọng trong hệ thống pháp luật, thể hiện trách nhiệm của cá nhân hoặc tổ chức trong việc thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật Hiểu rõ về nghĩa vụ pháp lý giúp mọi người nhận thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình trong xã hội Các quan điểm lý luận chung về pháp luật cho thấy nghĩa vụ pháp lý không chỉ đơn thuần là trách nhiệm mà còn là yếu tố đảm bảo trật tự và công bằng trong cộng đồng.

Nghĩa vụ pháp lý được định nghĩa là hành vi mà pháp luật yêu cầu các chủ thể thực hiện để bảo đảm quyền lợi của các chủ thể khác Trong khi đó, quyền pháp lý của chủ thể thể hiện khả năng mà pháp luật cho phép họ thực hiện hành vi nhất định, với sự linh hoạt trong việc quyết định thực hiện hay không, tùy thuộc vào khả năng và ý định cá nhân.

Nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ pháp luật được xác định là hành vi bắt buộc mà một bên phải thực hiện để bảo đảm quyền lợi của bên kia Quyền chủ thể trong quan hệ pháp luật phản ánh khả năng của cá nhân và tổ chức, được quy định bởi pháp luật và được Nhà nước bảo vệ thông qua các biện pháp cưỡng chế Quyền chủ thể bao gồm khả năng tự xử sự hợp pháp, yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ, và yêu cầu cơ quan nhà nước can thiệp khi quyền lợi bị xâm hại.

Nghĩa vụ pháp lý là nghĩa vụ phát sinh từ quy định của pháp luật, yêu cầu chủ thể thực hiện hành vi nhất định để bảo đảm quyền lợi của các chủ thể khác Nó không chỉ đơn thuần là hành vi, mà còn là sự bắt buộc mà chủ thể phải tuân theo Nghĩa vụ pháp lý có ba đặc điểm chính: (i) yêu cầu thực hiện các hoạt động trong phạm vi pháp luật cho phép; (ii) chủ thể phải hành động tích cực để thực hiện quyền của người khác; và (iii) chủ thể sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý nếu không tuân thủ quy định.

Nghĩa vụ góp vốn là trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc tuân thủ quy định pháp luật doanh nghiệp để đóng góp tài sản, tạo thành vốn điều lệ của công ty theo cam kết Việc vi phạm nghĩa vụ này sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định cho các bên liên quan.

16 Nguyễn Minh Đoan (2017), Tài liệu hướng dẫn môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật, tr 383

17 Nguyễn Minh Đoan, tlđd (16), tr 382

18 Đinh Văn Mậu - Phạm Hồng Thái (2001), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB Tổng hợp Đồng Nai, tr 409

19 Đinh Văn Mậu - Phạm Hồng Thái, tlđd (18), tr 408

20 Trường đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Công an nhân dân, tr 156

Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về khái niệm góp vốn và nghĩa vụ góp vốn trong doanh nghiệp tư nhân (DNTN) Theo Luật Doanh Nghiệp 2014, DNTN được thành lập và sở hữu bởi một cá nhân, với vốn đầu tư duy nhất từ chủ sở hữu mà không có sự tham gia hay liên kết với bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào khác Điều này dẫn đến việc chủ DNTN không thực hiện nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp, vì không có hoạt động chuyển dịch tài sản góp vốn vào tài sản chung của doanh nghiệp Do đó, trong chương hai của đề tài, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu nghĩa vụ góp vốn vào các loại hình doanh nghiệp khác như công ty cổ phần (CTCP), công ty hợp danh (CTHD) và công ty trách nhiệm hữu hạn (Công ty TNHH).

1.2.2 Đặc điểm của nghĩa vụ góp vốn

Thứ nhất, nghĩa vụ góp vốn phát sinh dựa trên cam kết góp vốn của các nhà đầu tƣ

Khi có kế hoạch thành lập doanh nghiệp, nhà đầu tư cần tự quyết định việc thành lập Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một Thành viên (CTTNHH 1TV) hoặc thỏa thuận với các bên liên quan trong trường hợp thành lập Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hai Thành viên (CTTNHH 2TV), Công ty Hợp danh (CTHD) hay Công ty Cổ phần (CTCP) về việc góp vốn vào doanh nghiệp.

Cam kết góp vốn giữa các nhà đầu tư là một sự thỏa thuận quan trọng, không được quy định cụ thể bởi LDN 2014 về hình thức và nội dung Thông thường, cam kết này được thể hiện bằng văn bản hoặc lời nói, bao gồm các điều khoản quan trọng như loại tài sản góp vốn, định giá, mức góp vốn, số cổ phần đã đăng ký mua, mệnh giá cổ phần và thời hạn góp vốn Nó ghi nhận ý chí và sự thống nhất giữa các bên về việc góp vốn vào doanh nghiệp, giúp nhà đầu tư nắm rõ các hoạt động cần thực hiện để tuân thủ thỏa thuận Việc thực hiện cam kết này không chỉ đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư mà còn cho các bên liên quan, hỗ trợ thực hiện ý tưởng kinh doanh Do đó, một cam kết góp vốn rõ ràng và cụ thể sẽ là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp.

Thứ hai, nghĩa vụ góp vốn đƣợc thực hiện thông qua việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty

Nghĩa vụ góp vốn của nhà đầu tư được thực hiện thông qua việc đưa tài sản vào doanh nghiệp Tài sản được góp sẽ tạo thành vốn điều lệ của công ty, góp phần quan trọng vào sự phát triển và hoạt động của doanh nghiệp.

Góp vốn vào công ty có thể thực hiện bằng hai hình thức: góp vốn trực tiếp và góp vốn gián tiếp Góp vốn trực tiếp là việc chủ thể chuyển quyền sở hữu tài sản của mình vào công ty, thường diễn ra khi thành lập công ty hoặc tăng vốn điều lệ Ngược lại, góp vốn gián tiếp cho phép nhà đầu tư xác lập quyền sở hữu đối với cổ phần hoặc phần vốn góp đã có sẵn mà không cần chuyển giao tài sản trực tiếp Hình thức góp vốn gián tiếp có thể thực hiện qua việc nhận chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho hoặc thanh toán nợ bằng cổ phần.

Thứ ba, khi vi phạm nghĩa vụ góp vốn các nhà đầu tƣ phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định

Theo Luật Doanh Nghiệp (LDN) 2014, nhà đầu tư có nghĩa vụ góp vốn dựa trên số vốn cam kết và thời hạn góp vốn đối với thành viên công ty TNHH, cũng như số cổ phần đăng ký mua và thời hạn thanh toán của cổ đông công ty cổ phần (CTCP) Việc vi phạm nghĩa vụ này sẽ dẫn đến các hậu quả pháp lý như mất tư cách thành viên hoặc cổ đông, chịu trách nhiệm tài chính cho công ty, và có thể bị khai trừ LDN 2014 quy định các chế tài nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia và tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, yêu cầu nhà đầu tư tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về nghĩa vụ góp vốn.

1.2.3 Ý nghĩa của nghĩa vụ góp vốn

Tại thời điểm thành lập, tài sản của doanh nghiệp chủ yếu được hình thành từ nguồn vốn góp của các nhà đầu tư Điều này có nghĩa là tài sản trong doanh nghiệp ban đầu chỉ bao gồm các khoản đầu tư từ những người sáng lập và các bên liên quan.

Các vấn đề pháp lý liên quan

1.3.1 Các đối tƣợng có quyền góp vốn vào doanh nghiệp

Theo quy định của LDN 2014, các đối tượng có quyền góp vốn vào doanh nghiệp bao gồm những người có quyền thành lập doanh nghiệp và những người có quyền góp vốn, mua cổ phần hoặc phần vốn góp vào các loại hình doanh nghiệp như Công ty Cổ phần (CTCP), Công ty Trách nhiệm Hữu hạn (Công ty TNHH) và Công ty hợp danh (CTHD).

Theo quy định tại Điều 18 LDN 2014, tất cả các tổ chức và cá nhân, cả trong nước và nước ngoài, đều có quyền góp vốn thành lập doanh nghiệp, trừ những trường hợp bị cấm Các trường hợp cấm này được nêu rõ tại khoản 2 của điều luật.

Cơ quan nhà nước và đơn vị vũ trang nhân dân có quyền sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp, nhưng phải đảm bảo hai yếu tố: sử dụng tài sản nhà nước và kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình Nếu không thỏa mãn cả hai yếu tố này, họ vẫn có thể góp vốn thành lập doanh nghiệp như Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) và Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, miễn là lợi nhuận hàng năm được nộp về ngân sách nhà nước Quy định này nhằm đảm bảo tính minh bạch và ngăn chặn hành vi trục lợi từ tài sản chung của Nhà nước.

Theo Khoản 4 Điều 18 của Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ban hành ngày 26/11/2014, việc thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị được quy định rõ ràng Cụ thể, thu nhập từ hoạt động kinh doanh, góp vốn, mua cổ phần có thể được sử dụng cho các mục đích như: (i) Chia lợi nhuận cho một số hoặc tất cả cá nhân được quy định; (ii) Bổ sung vào ngân sách hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định pháp luật về ngân sách nhà nước; (iii) Thành lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn vị.

Theo quy định của pháp luật, cán bộ, công chức, viên chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc quản lý các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư, trừ khi có quy định khác Điều này có nghĩa là họ bị cấm góp vốn thành lập doanh nghiệp trong mọi trường hợp So với Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014 đã bổ sung quy định rằng viên chức không được quyền thành lập doanh nghiệp Quy định này nhằm hạn chế tình trạng cán bộ, công chức, viên chức lơ là công việc được giao và tránh lạm dụng quyền hạn trong lĩnh vực quản lý, bảo đảm sự công bằng và bình đẳng giữa các chủ thể khác.

Theo quy định tại LDN 2014, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng trong các cơ quan thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam có thể giữ chức vụ quản lý tại các doanh nghiệp mà họ được cử làm đại diện Điều này cho phép họ quản lý phần vốn góp của Nhà nước, như tại Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel và Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn Quy định này phản ánh sự tiến bộ và thực tế rằng nhiều đơn vị quân đội và công an đang tích cực tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh theo định hướng của Nhà nước.

Cán bộ lãnh đạo và quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước, ngoại trừ những người được ủy quyền quản lý vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác, phải tập trung thực hiện nhiệm vụ được giao Quy định này nhằm đảm bảo rằng họ không lợi dụng vị trí của mình để ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của các bên liên quan.

Vào ngày thứ năm, những người chưa thành niên, những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc những người mất năng lực hành vi dân sự, cũng như các tổ chức không có tư cách pháp nhân, cần được xác định rõ ràng Việc xác định đối tượng này là rất quan trọng để đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm pháp lý cho các cá nhân và tổ chức liên quan.

27 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức (Luật số 22/ 2008/QH12) ngày 13/11/2008; Điều 2 Luật Viên chức (Luật số 58/2010/QH12) ngày 15/11/2010

28 Khoản 1 Điều 37 Luật Phòng, chống tham nhũng (Luật số 55/2005/QH11) ngày 29/11/2005, sửa đổi, bổ sung năm 2012

29 Đào Thị Thu Hằng, tlđd (7), tr 38

Theo Bộ luật Dân sự 2015, tổ chức không có tư cách pháp nhân không được quyền thành lập doanh nghiệp, điều này khác với quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 Bộ luật Dân sự 2014 đã thể hiện sự tiến bộ trong việc quy định rõ ràng vấn đề này Chỉ khi có tư cách pháp nhân, tổ chức mới sở hữu tài sản độc lập và có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập Do đó, quy định này nhằm đảm bảo an toàn tài chính cho hoạt động kinh doanh là hợp lý.

Theo quy định mới trong Luật Doanh Nghiệp (LDN) 2014, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, hoặc đang thực hiện quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc và cơ sở giáo dục bắt buộc sẽ bị cấm thành lập doanh nghiệp So với LDN 2005, quy định này đã được bổ sung nhằm ngăn chặn những cá nhân có vấn đề pháp lý tham gia vào hoạt động kinh doanh Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng việc cấm hoàn toàn người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự thành lập doanh nghiệp là một điểm chưa hợp lý trong luật.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013, người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật Do đó, việc LDN 2014 cấm người bị truy cứu trách nhiệm hình sự góp vốn thành lập doanh nghiệp là một sự hạn chế quyền kinh doanh của họ Hơn nữa, giống như LDN 2005, LDN 2014 cũng cấm người chấp hành hình phạt tù thành lập doanh nghiệp, cho thấy đây là một quy định còn hạn chế trong luật doanh nghiệp.

Việc khuyến khích người chấp hành hình phạt tù góp vốn thành lập doanh nghiệp mà không tham gia quản lý là cần thiết, bởi vì điều này không chỉ giúp họ tạo ra thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống sau khi mãn hạn tù, mà còn giảm bớt gánh nặng cho gia đình và mang lại lợi ích cho xã hội Hơn nữa, việc không tham gia quản lý doanh nghiệp đảm bảo rằng họ không thể gây thiệt hại cho Nhà nước.

Luật Doanh Nghiệp 2014 không chỉ quy định các đối tượng có quyền góp vốn thành lập doanh nghiệp mà còn xác định rõ các đối tượng có quyền góp vốn, mua cổ phần và phần vốn góp vào Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn và Công ty Hợp danh, đồng thời loại trừ một số trường hợp cụ thể.

30 Điều 21, Điều 22, Điều 24 BLDS (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015

31 Điều 130 Luật Phá sản (Luật số 51/2014/QH13) ngày 19/06/2014

32 Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tlđd (4), tr 34

19 chức, cá nhân đó không rơi vào các trường hợp cấm quy định tại khoản 3 Điều 18 LDN 2014 Theo đó, các trường hợp cấm bao gồm:

Cơ quan nhà nước và đơn vị vũ trang nhân dân có quyền sử dụng tài sản nhà nước để góp vốn vào doanh nghiệp nhằm thu lợi cho mình Tuy nhiên, nếu thiếu một trong hai điều kiện là sử dụng tài sản nhà nước hoặc kinh doanh để thu lợi riêng, thì các đối tượng này vẫn được phép góp vốn, mua cổ phần, hoặc phần vốn góp vào các loại hình doanh nghiệp như CTCP, Công ty TNHH, và CTHD.

Theo quy định pháp luật về cán bộ, công chức, không phải tất cả cán bộ, công chức đều bị cấm góp vốn vào doanh nghiệp Cụ thể, các đối tượng bị cấm bao gồm người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan và vợ hoặc chồng của họ Doanh nghiệp bị cấm là những doanh nghiệp mà người đứng đầu hoặc cấp phó của họ trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước.

QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VỀ NGHĨA VỤ GÓP VỐN VÀO DOANH NGHIỆP - THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ

Cam kết góp vốn vào doanh nghiệp

Cam kết góp vốn vào doanh nghiệp là cơ sở xác lập nghĩa vụ góp vốn của nhà đầu tư Để góp vốn thành lập doanh nghiệp hoặc trong quá trình hoạt động, các bên cần đạt được thỏa thuận dưới dạng cam kết góp vốn Tùy thuộc vào thời điểm góp vốn, người thực hiện cam kết sẽ khác nhau: trong giai đoạn thành lập, các thành viên và cổ đông sáng lập sẽ thỏa thuận về nghĩa vụ góp vốn, trong khi khi doanh nghiệp đã hoạt động, việc thỏa thuận sẽ diễn ra giữa người góp vốn và doanh nghiệp nhận góp vốn Cam kết góp vốn thể hiện sự thống nhất ý chí giữa các bên về việc thực hiện nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp.

LDN 2014 không quy định rõ hình thức cam kết góp vốn, cho phép cam kết này được ghi nhận bằng văn bản hoặc lời nói Cam kết góp vốn bằng văn bản thường được gọi là cam kết góp vốn, thỏa thuận góp vốn hoặc hợp đồng góp vốn, và đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người góp vốn khi có tranh chấp xảy ra Việc có một cam kết góp vốn bằng văn bản sẽ đảm bảo tính rõ ràng và minh bạch hơn so với cam kết bằng lời nói Do đó, các bên liên quan nên thiết lập cam kết góp vốn bằng văn bản khi thỏa thuận về nghĩa vụ góp vốn.

Cam kết góp vốn theo LDN 2014 không quy định cụ thể nội dung, nhưng thường bao gồm các yếu tố như chủ thể góp vốn, mức góp vốn, tổng số vốn góp, tài sản góp vốn, giá trị tài sản, loại và mệnh giá cổ phần, cùng thời hạn góp vốn Các bên tham gia có quyền tự thỏa thuận nội dung cam kết, nhưng phải tuân thủ quy định của LDN 2014, đặc biệt là về tài sản và thời hạn góp vốn Điều này có nghĩa là không thể góp vốn bằng tài sản không được quy định hoặc vượt quá thời hạn tối đa cho phép Cam kết góp vốn đóng vai trò quan trọng trong việc xác định trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà đầu tư, đồng thời tạo cơ sở rõ ràng cho quyền lợi của các bên liên quan.

24 quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp.

Định giá tài sản góp vốn

Định giá tài sản góp vốn là quá trình đánh giá giá trị của tài sản tại một thời điểm nhất định, phù hợp với thị trường và theo các tiêu chuẩn, phương pháp cụ thể Mục đích của việc này là xác định chính xác giá trị tài sản góp vốn, từ đó phân định quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên, cổ đông, đồng thời đảm bảo trách nhiệm tài chính của công ty.

Theo Điều 37 LDN 2014, tài sản góp vốn bao gồm Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi và vàng không cần định giá, trong khi các tài sản khác phải được định giá và thể hiện bằng Đồng Việt Nam LDN 2014 quy định hai trường hợp định giá tài sản góp vốn: khi thành lập doanh nghiệp và trong quá trình hoạt động Khi thành lập, tài sản góp vốn phải được định giá bởi các thành viên, cổ đông sáng lập theo nguyên tắc nhất trí hoặc bởi tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp, và giá trị này cần được đa số chấp thuận Việc cho phép tổ chức thẩm định giá định giá tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp là một bước tiến bộ so với Điều 30 LDN 2005, khi mà chỉ cho phép định giá trong quá trình hoạt động Nếu gặp khó khăn trong việc tự định giá, các thành viên, cổ đông sáng lập có thể thuê tổ chức thẩm định giá.

Trong quá trình hoạt động, tài sản góp vốn được định giá bởi chủ sở hữu hoặc các thành viên trong Hội đồng thành viên (HĐTV) đối với Công ty TNHH và Công ty hợp danh (CTHD), hoặc Hội đồng quản trị (HĐQT) đối với Công ty cổ phần (CTCP) Việc định giá có thể được thực hiện thông qua sự thỏa thuận giữa người góp vốn và doanh nghiệp hoặc bởi tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2014 không chỉ rõ ai là chủ thể có thẩm quyền chấp thuận giá trị tài sản khi tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp thực hiện định giá Do đó, có thể suy đoán rằng chủ sở hữu, thành viên HĐTV và HĐQT có quyền phê duyệt giá trị định giá này Theo quan điểm của tác giả, những cá nhân này chính là những người có quyền quyết định về vấn đề này.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải (2011) trong luận văn cử nhân luật tại Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã phân tích vấn đề góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, bao gồm cả lý luận và thực tiễn, với trọng tâm là những quy định pháp lý liên quan và các vấn đề thực tiễn phát sinh trong quá trình góp vốn.

Trong bài viết của Nguyễn Võ Linh Giang (2015), tác giả đã phân tích quy định về định giá tài sản là quyền sở hữu trí tuệ khi góp vốn thành lập doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Cộng hòa Pháp Nghiên cứu này được đăng tải trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17 (297)/2015, trang 63.

Theo Điều 37 LDN 2014, trong quá trình hoạt động, các chủ thể doanh nghiệp và người góp vốn có trách nhiệm thỏa thuận định giá tài sản góp vốn Họ cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu giá trị tài sản góp vốn được định giá cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn Do đó, các chủ thể này có quyền chấp thuận giá trị tài sản do tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp xác định Để áp dụng pháp luật một cách thống nhất, LDN 2014 cần làm rõ vấn đề này.

Theo LDN 2014, việc định giá tài sản góp vốn không được vượt quá giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn, nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và đảm bảo trách nhiệm trả nợ của công ty Vốn điều lệ đóng vai trò quan trọng trong việc này, vì các chủ nợ sẽ xem xét khả năng tài chính của công ty trước khi cho vay Nếu vi phạm quy định định giá, các thành viên và cổ đông sáng lập sẽ phải chịu trách nhiệm bằng cách góp thêm số chênh lệch giữa giá trị định giá và giá trị thực tế, đồng thời chịu trách nhiệm cho thiệt hại phát sinh LDN 2014 đã quy định rõ ràng ai là người chịu trách nhiệm về việc định giá không đúng, khác với LDN 2005, nhưng thực tế vẫn có nhiều trường hợp không tuân thủ quy định này.

Dương, Thành, Trung và Hải đã thành lập Công ty TNHH Thái Bình Dương chuyên kinh doanh xúc tiến xuất khẩu, với vốn điều lệ 5 tỷ đồng được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Trong thỏa thuận góp vốn, Dương cam kết góp 800 triệu đồng bằng tiền mặt, chiếm 16% vốn điều lệ, trong khi Thành góp vốn bằng giấy nhận nợ của Công ty Thành Mỹ, với tổng giá trị 1,3 tỷ đồng, dự kiến sẽ là đối tác chính của công ty.

Các thành viên đã đồng ý định giá vốn điều lệ của công ty là 1,2 tỷ đồng, tương ứng với 24% tổng vốn Trung góp vốn bằng ngôi nhà của mình với giá trị thực tế khoảng 700 triệu đồng, nhưng do có quy hoạch mở rộng mặt đường, giá trị ngôi nhà được định giá là 1,5 tỷ đồng, chiếm 30% vốn điều lệ Hải cam kết góp 1,5 tỷ đồng bằng tiền mặt (30% vốn điều lệ), nhưng hiện tại chỉ tạm góp 500 triệu đồng Các bên đã thỏa thuận rằng khi công ty cần, Hải sẽ tiếp tục góp 1 tỷ đồng còn lại.

Trong tình huống này, các tài sản mà các thành viên cam kết góp như tiền mặt, căn nhà và giấy ghi nợ đều tuân thủ quy định của LDN 2014 về tài sản góp vốn Tuy nhiên, việc các thành viên định giá ngôi nhà của Trung ở mức 1,5 tỷ đồng do quy hoạch mở rộng mặt đường là không hợp lý, vì giá thực tế của ngôi nhà chỉ khoảng 700 triệu đồng Quy hoạch mở rộng mặt đường chưa được thực hiện tại thời điểm góp vốn, do đó không thể làm cơ sở để nâng giá trị ngôi nhà lên 1,5 tỷ đồng Vì vậy, các thành viên phải chịu trách nhiệm về việc định giá cao hơn giá trị thực tế của ngôi nhà tại thời điểm góp vốn.

Theo quy định của LDN 2014, các chủ thể cần phải trung thực và nghiêm túc trong việc định giá tài sản góp vốn để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong các quy định về định giá tài sản góp vốn theo LDN 2014.

Việc chứng minh vi phạm định giá tài sản góp vốn trong công ty gặp nhiều khó khăn, do thông tin về thực trạng góp vốn giữa các thành viên thường không dễ tiếp cận Khi công ty rơi vào tình trạng nợ nần sau một thời gian, giá trị tài sản có thể thay đổi đáng kể so với thời điểm góp vốn, điều này gây cản trở cho việc xác định sự gian dối trong định giá tài sản của các thành viên và cổ đông sáng lập.

Luật Đất đai 2014 không quy định rõ ràng về quy trình và chủ thể có quyền lựa chọn tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp, điều này gây khó khăn trong việc áp dụng vào thực tế.

Từ những phân tích, bình luận nêu trên về định giá tài sản góp vốn, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhƣ sau:

40 Nguyễn Thị Thanh Lê - Phạm Hoài Huấn (2014), Công ty tại Việt Nam - Tình huống - Tranh chấp - Bình luận, NXB Chính trị quốc gia, tr.43

41 Phạm Hoài Huấn (chủ biên), tlđd (21), tr 37

LDN 2014 cần bổ sung quy định về các chủ thể có quyền lựa chọn tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp, cùng với quy trình lựa chọn tổ chức này Điều này nhằm đảm bảo tính nghiêm túc và khách quan trong quá trình định giá tài sản góp vốn.

Theo quy định của LDN 2014, các thành viên, cổ đông sáng lập, và người góp vốn phải chịu trách nhiệm liên đới về thiệt hại do việc định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế Cần có quy định cụ thể hơn về giới hạn trách nhiệm của từng chủ thể và phạm vi thiệt hại để đảm bảo tính công bằng Nếu nguyên tắc nhất trí trong việc định giá tài sản được ghi nhận, tất cả các thành viên sẽ có trách nhiệm ngang nhau, bất kể số vốn góp Mặc dù LDN 2014 quy định trách nhiệm liên đới về chênh lệch giá trị tài sản, nhưng không đặt ra thời hạn thanh toán Điều này gây khó khăn trong việc xác định trách nhiệm khi công ty gặp khó khăn tài chính Do đó, tác giả nhấn mạnh rằng trách nhiệm phải được thực hiện ngay khi phát hiện vi phạm để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.

Thời hạn thực hiện nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp

Thời hạn thực hiện nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp là khoảng thời gian mà Luật Doanh nghiệp quy định để các chủ thể hoàn tất việc góp vốn Đối với Công ty TNHH, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định thời hạn 90 ngày kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp để các thành viên góp vốn Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp 2005 không quy định cụ thể thời hạn góp vốn, mà phụ thuộc vào cam kết giữa các thành viên Nghị định 102/2010 quy định rằng nếu góp vốn nhiều lần, thời hạn góp vốn cuối cùng không quá 36 tháng từ ngày cấp Giấy chứng nhận Quy định này tạo ra hai quan điểm khác nhau: một bên cho rằng đây là hướng dẫn hợp lý nhằm chấm dứt tình trạng nợ vốn không thời hạn, trong khi bên kia cho rằng nó hạn chế quyền tự do kinh doanh của các thành viên Tuy nhiên, Nghị định 102/2010 vẫn cho phép các nhà đầu tư thỏa thuận thời hạn góp vốn, miễn là không vượt quá 36 tháng.

46 Khoản 2 Điều 48, khoản 2 Điều 74 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014

47 Khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 65 Luật Doanh nghiệp (Luật số 60/2005/QH11) ngày 29/11/2005

48 Phạm Hoài Huấn (2011), “Vốn điều lệ của công ty từ quy định của Nghị định 102/2010/NĐ-CP”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, số 01 (186)/2011, tr.52

Bài viết của Nguyễn Việt Khoa (2011) trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 03 (275) đã phân tích quyền tự do kinh doanh trong các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn theo Luật Doanh nghiệp 2005 Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền tự do này trong việc thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh.

Nghị định 102/2010 đã góp phần hạn chế tình trạng vốn ảo nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, và LDN 2014 đã kế thừa điều này bằng cách quy định thời hạn góp vốn tối đa vào Công ty TNHH là 90 ngày kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Việc rút ngắn thời hạn này từ 36 tháng xuống 90 ngày thể hiện sự tiến bộ của LDN 2014, giúp bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và hạn chế tình trạng lợi dụng vốn ảo trong các giao dịch tiềm ẩn rủi ro Đối với Công ty Cổ phần (CTCP), Điều 112 LDN 2014 quy định rằng cổ đông sáng lập và các nhà đầu tư khác phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký trong thời hạn 90 ngày kể từ khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, hoặc trong thời hạn ngắn hơn theo quy định của Điều lệ công ty.

Luật Doanh Nghiệp 2014 đã mang lại sự linh hoạt cho cổ đông, cho phép họ thỏa thuận thời hạn góp vốn ngắn hơn trong Điều lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần Đối với Công ty TNHH, Điều 173 quy định rằng thành viên Hội đồng quản trị (TVHD) và thành viên Giám đốc (TVGV) phải góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết Tuy nhiên, giống như Luật Doanh Nghiệp 2005, Luật Doanh Nghiệp 2014 không quy định thời hạn cụ thể cho nghĩa vụ góp vốn của các thành viên mà để họ tự thỏa thuận về thời hạn này.

Luật Doanh nghiệp 2014 đã quy định rõ ràng về thời hạn thực hiện nghĩa vụ góp vốn của các thành viên, cổ đông, nhằm đảm bảo trật tự cho hoạt động kinh doanh Tuy nhiên, cần bổ sung quy định về thời hạn góp vốn vào hợp đồng thương mại để tăng cường tính nghiêm túc trong thực hiện nghĩa vụ của các thành viên, giảm thiểu thiệt hại và rủi ro cho chủ nợ, đồng thời đảm bảo sự đồng bộ trong các quy định pháp luật liên quan.

2.5 Thay đổi loại tài sản góp vốn

Thay đổi loại tài sản góp vốn là việc sử dụng tài sản khác thay thế cho tài sản đã cam kết để đầu tư vào doanh nghiệp, theo quy định tại Điều 35 Luật Doanh nghiệp 2014 Hiện tại, Luật Doanh nghiệp 2014 chỉ áp dụng quy định này cho Công ty Trách nhiệm Hữu hạn (CTTNHH).

50 Dương Anh Sơn, tlđd (22), tr 86

Luật Doanh Nghiệp (LDN) 2014 đã điều chỉnh quy định về việc thay đổi loại tài sản góp vốn, cho phép các nhà đầu tư tham gia góp vốn bằng tài sản khác nếu không thể thực hiện theo cam kết ban đầu So với LDN 2005, LDN 2014 chỉ yêu cầu sự đồng ý của đa số thành viên, giúp việc thay đổi loại tài sản góp vốn trở nên khả thi hơn Đối với Công ty TNHH một thành viên (CTTNHH 1TV), chủ sở hữu có quyền tự quyết định về việc thay đổi tài sản góp vốn miễn là giá trị tài sản thay thế đáp ứng đủ số vốn đã cam kết Tuy nhiên, để hỗ trợ các nhà đầu tư trong trường hợp không thể góp đúng tài sản như đã cam kết, LDN 2014 nên xem xét bổ sung quy định cho phép thay đổi loại tài sản góp vốn tại Công ty hợp danh (CTHD) và Công ty cổ phần (CTCP) với sự đồng ý của đa số thành viên hoặc cổ đông sáng lập.

2.6 Cơ chế giám sát việc thực hiện nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp

Luật Doanh Nghiệp 2014 không quy định rõ ràng cơ chế giám sát việc thực hiện nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp, trong khi việc không góp đủ vốn điều lệ đã đăng ký là hành vi bị cấm theo Điều 17 HĐQT có trách nhiệm giám sát và đôn đốc cổ đông thanh toán đúng hạn số cổ phần đã đăng ký Quy định này hợp lý do CTCP không giới hạn số lượng cổ đông tối đa, giúp tránh xung đột lợi ích giữa các cổ đông.

Theo Khoản 2 Điều 48 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014, các thành viên phải thực hiện góp vốn đúng loại tài sản đã cam kết trong vòng 90 ngày kể từ ngày nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Nếu muốn góp vốn bằng tài sản khác, cần có sự đồng ý của đa số thành viên còn lại Trong thời gian này, các thành viên có quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp đã cam kết.

HĐQT có trách nhiệm liên đới về thiệt hại do không thực hiện đúng quy định theo LDN 2014, nhưng không tập trung vào giám sát nghĩa vụ góp vốn Để nâng cao ý thức của các thành viên, LDN 2014 quy định hậu quả pháp lý đối với việc không tuân thủ cam kết góp vốn Trong khi LDN 2005 yêu cầu thông báo tiến độ góp vốn, thực tế cho thấy công ty là bên duy nhất nắm rõ thông tin này, dẫn đến khó khăn trong việc kiểm soát tính chính xác của thông báo Nghị định 102/2010 cho phép kiểm tra tiến độ góp vốn theo yêu cầu, nhưng quy định này chưa hiệu quả do sự thụ động của cơ quan đăng ký kinh doanh Do đó, việc giám sát thực hiện nghĩa vụ góp vốn theo LDN 2005 không được tiến hành thường xuyên và có vẻ như bị bỏ ngỏ.

Phân tích cho thấy việc thông báo và kiểm tra tiến độ góp vốn không hiệu quả trong quản lý doanh nghiệp Do đó, LDN 2014 được coi là hợp lý hơn so với LDN 2005 vì không quy định cơ chế giám sát cụ thể đối với nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp.

2.7 Vi phạm nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp và hậu quả pháp lý

Theo quy định của LDN 2014, việc xác định trách nhiệm của các nhà đầu tư trong việc góp vốn được dựa trên số vốn đã cam kết và thời hạn góp vốn của thành viên, chủ sở hữu Công ty TNHH, cũng như số cổ phần đã đăng ký mua và thời hạn thanh toán của cổ đông CTCP Do đó, các chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện việc góp vốn đúng và đủ theo cam kết đã thỏa thuận.

52 Khoản 4 Điều 112 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014

53 Khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 84 Luật Doanh nghiệp (Luật số 60/2005/QH11) ngày 29/11/2005

54 Khoản 9 Điều 18, khoản 8 Điều 23 Nghị định số 102/2010/ NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/10/2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp 2005

55 Nguyễn Công Phú (2011), “Tranh chấp nội bộ công ty”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2011, tr.12

56 Khoản 2 Điều 48, khoản 2 Điều 74, khoản 1 Điều 112, khoản 1 Điều 173 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH 13) ngày 26/11/2014

Theo quy định tại Điều 48 LDN 2014, trong vòng 90 ngày kể từ khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, các thành viên công ty TNHH 2TV phải thực hiện nghĩa vụ góp vốn Nếu không thực hiện, họ sẽ không còn là thành viên công ty và chỉ có quyền tương ứng với phần vốn đã góp Phần vốn chưa góp sẽ được chào bán theo quyết định của HĐTV Điều này nhằm khắc phục những bất cập của LDN 2005 về việc xác định tư cách thành viên khi chưa góp đủ vốn Ví dụ, ông S là thành viên của Công ty TNHH Phong Sơn với vốn góp 1 tỷ đồng nhưng chỉ góp 200 triệu đồng Khi công ty chia lợi nhuận, ông S được chia theo số vốn đăng ký 1 tỷ đồng, dẫn đến tranh chấp với thành viên khác cho rằng ông chỉ nên nhận lợi nhuận trên 200 triệu đồng đã góp.

Theo quy định của LDN 2005, không có hướng dẫn rõ ràng về quyền lợi của ông S trong trường hợp này, liệu quyền lợi của ông sẽ dựa vào số vốn đăng ký hay số vốn thực tế đã góp Ngược lại, LDN 2014 quy định rằng trong vòng 90 ngày kể từ khi nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, ông S sẽ có quyền lợi tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp đã cam kết là 1 tỷ đồng Tuy nhiên, nếu quá thời hạn này mà ông S không góp đủ số vốn đã cam kết, quyền lợi của ông sẽ chỉ tương ứng với số vốn thực tế đã góp là 200 triệu đồng.

LDN 2014 quy định rằng các thành viên của công ty TNHH 2TV chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn cam kết sẽ phải chịu trách nhiệm tài chính tương ứng với phần vốn góp mà họ đã cam kết.

Cơ chế giám sát việc thực hiện nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp

Luật Doanh Nghiệp 2014 không quy định rõ ràng về cơ chế giám sát việc thực hiện nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp, và việc không góp đủ vốn điều lệ như đã đăng ký bị cấm theo Điều 17 Tuy nhiên, Luật chỉ đưa ra một số quy định về trách nhiệm giám sát nội bộ trong công ty cổ phần, trong đó Hội đồng Quản trị có trách nhiệm theo dõi và đôn đốc cổ đông thanh toán đủ và đúng hạn số cổ phần đã đăng ký Quy định này hợp lý nhằm tránh xung đột lợi ích giữa các cổ đông, đặc biệt khi công ty cổ phần không giới hạn số lượng cổ đông tối đa.

Theo Khoản 2 Điều 48 của Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ban hành ngày 26/11/2014, các thành viên phải thực hiện nghĩa vụ góp vốn đúng loại tài sản đã cam kết trong vòng 90 ngày kể từ khi nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Nếu muốn góp vốn bằng tài sản khác, cần có sự đồng ý của đa số thành viên còn lại Trong thời gian này, các thành viên sẽ có quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp đã cam kết.

HĐQT có trách nhiệm liên đới về thiệt hại do không thực hiện nghĩa vụ góp vốn theo quy định của LDN 2014, nhưng không chú trọng vào giám sát việc thực hiện nghĩa vụ này Để nâng cao ý thức của các thành viên, LDN 2014 quy định hậu quả pháp lý cho những vi phạm, tạo ra cơ chế gián tiếp giám sát nghĩa vụ góp vốn Trong khi LDN 2005 yêu cầu công ty thông báo tiến độ góp vốn, thực tế cho thấy việc này không cần thiết, vì chỉ có công ty mới nắm rõ tình hình góp vốn Cơ quan đăng ký kinh doanh gặp khó khăn trong việc kiểm soát tính trung thực của các thông báo, đặc biệt khi số lượng doanh nghiệp ngày càng tăng Nghị định 102/2010 cho phép kiểm tra tiến độ góp vốn theo yêu cầu của thành viên, nhưng quy định này chưa hiệu quả do sự thụ động của cơ quan khi không có yêu cầu từ công ty Do đó, giám sát thực hiện nghĩa vụ góp vốn theo LDN 2005 trở nên không thường xuyên và thiếu hiệu lực.

Phân tích cho thấy việc thông báo và kiểm tra tiến độ góp vốn không hiệu quả trong quản lý doanh nghiệp Do đó, LDN 2014 được coi là hợp lý hơn LDN 2005 vì không quy định cụ thể cơ chế giám sát nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp.

Vi phạm nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp và hậu quả pháp lý

Theo quy định của LDN 2014, việc xác định trách nhiệm góp vốn của các nhà đầu tư dựa trên số vốn đã cam kết và thời hạn góp vốn của thành viên, chủ sở hữu Công ty TNHH, cũng như số cổ phần đã đăng ký mua và thời hạn thanh toán của cổ đông Công ty Cổ phần Do đó, các chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện việc góp vốn đúng hạn và đầy đủ theo cam kết đã đưa ra.

52 Khoản 4 Điều 112 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014

53 Khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 84 Luật Doanh nghiệp (Luật số 60/2005/QH11) ngày 29/11/2005

54 Khoản 9 Điều 18, khoản 8 Điều 23 Nghị định số 102/2010/ NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/10/2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp 2005

55 Nguyễn Công Phú (2011), “Tranh chấp nội bộ công ty”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2011, tr.12

56 Khoản 2 Điều 48, khoản 2 Điều 74, khoản 1 Điều 112, khoản 1 Điều 173 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH 13) ngày 26/11/2014

Theo quy định tại Điều 48 LDN 2014, thành viên của công ty TNHH 2TV phải thực hiện nghĩa vụ góp vốn trong vòng 90 ngày kể từ khi nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Nếu không thực hiện nghĩa vụ này, họ sẽ không còn là thành viên công ty và chỉ được hưởng quyền lợi tương ứng với phần vốn đã góp Phần vốn chưa góp sẽ được chào bán theo quyết định của Hội đồng thành viên Quy định này nhằm khắc phục những bất cập của LDN 2005 về việc thành viên đã góp một phần vốn có mất tư cách thành viên hay không Ví dụ, ông S là thành viên của Công ty TNHH Phong Sơn với vốn góp 1 tỷ đồng, nhưng thực tế chỉ góp 200 triệu đồng Khi công ty chia lợi nhuận, ông S được chia trên số vốn đăng ký 1 tỷ đồng, dẫn đến tranh chấp với thành viên khác về quyền lợi chia lợi nhuận.

Theo quy định của LDN 2005, không có hướng dẫn rõ ràng về việc xác định quyền lợi của ông S dựa trên số vốn đăng ký hay số vốn thực tế góp Trong khi đó, LDN 2014 quy định rằng trong vòng 90 ngày kể từ ngày nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, ông S sẽ có quyền lợi tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp đã cam kết là 1 tỷ đồng Tuy nhiên, nếu sau thời hạn này ông S không thực hiện góp đủ số vốn đã cam kết, quyền lợi của ông sẽ chỉ tương ứng với số vốn thực tế đã góp là 200 triệu đồng.

Luật Doanh Nghiệp 2014 quy định rằng các thành viên của công ty TNHH 2 thành viên trở lên, chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết, sẽ phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty.

Bài viết của Nguyễn Thị Vân Anh (2010) phân tích thực tiễn giải quyết tranh chấp trong quá trình thực hiện Luật Doanh nghiệp, đồng thời đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện Luật Doanh nghiệp 2005 Nghiên cứu này được đăng tải trên Tạp chí Luật học, số 9, góp phần làm rõ những vấn đề pháp lý trong lĩnh vực doanh nghiệp.

Theo Điều 74 LDN 2014, trong vòng 90 ngày kể từ khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, chủ sở hữu CTTNHH 1TV phải góp đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết Nếu vi phạm, họ sẽ chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính phát sinh trước khi công ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ Chủ sở hữu cũng phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ tài chính và thiệt hại do không góp, không góp đủ hoặc không góp đúng hạn vốn điều lệ Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, hạn chế lạm dụng trách nhiệm hữu hạn để lừa đảo và tạo ra môi trường kinh doanh trong sạch, lành mạnh.

Theo quy định tại LDN 2014, chủ sở hữu và thành viên Công ty TNHH phải điều chỉnh vốn điều lệ trong vòng 30 ngày hoặc 60 ngày, tùy thuộc vào loại hình công ty, nếu không thực hiện nghĩa vụ góp vốn Mặc dù Nghị định 102/2010 cho phép ghi nhận số vốn thực góp thấp hơn số vốn cam kết, nhưng LDN 2005 không quy định rõ về vấn đề này Do đó, có nhiều ý kiến cho rằng cần bổ sung quy định giảm vốn điều lệ đối với Công ty TNHH khi thành viên không góp đủ vốn như đã cam kết, nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý vốn của công ty.

58 Khoản 4 Điều 48 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014

59 Phạm Duy Nghĩa (2006), “Giấc mơ nữa triệu doanh nghiệp và một đạo luật chung: Luật Doanh nghiệp

2005 từ một góc nhìn so sánh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7 (219)/2006, tr 54

60 Khoản 4 Điều 48, khoản 3 Điều 74 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH 13) ngày 26/11/2014

61 Phạm Hoài Huấn, tlđd (48), tr 59

Theo quy định của Luật Doanh Nghiệp (LDN) 2014, việc không góp đủ vốn cam kết có thể dẫn đến việc thành viên bị khai trừ khỏi công ty Đối với Công ty TNHH, nếu thành viên góp vốn (TVGV) không thực hiện nghĩa vụ góp vốn đúng hạn, số vốn chưa góp sẽ được coi là khoản nợ, và họ có thể bị khai trừ theo quyết định của Hội đồng thành viên (HĐTV) Thành viên hợp danh (TVHD) cũng sẽ bị khai trừ nếu không góp vốn sau khi công ty đã yêu cầu hai lần Hơn nữa, trong vòng hai năm sau khi chấm dứt tư cách thành viên, họ vẫn phải chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình đối với các khoản nợ phát sinh trước đó Đối với Công ty Cổ phần (CTCP), nếu cổ đông không thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký trong thời hạn quy định, họ sẽ không còn là cổ đông và không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần chưa thanh toán LDN 2014 cũng yêu cầu công ty điều chỉnh vốn điều lệ trong vòng 30 ngày sau khi hết thời hạn thanh toán.

62 Trần Quỳnh Anh (2010), “Hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về công ty trách nhiệm hữu hạn”,

Tạp chí Luật học, số 9 (124)/2010, tr 13

63 Điểm d khoản 3 Điều 177 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014

64 Điều 180 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014

Theo quy định tại khoản 1 Điều 112 LDN 2014, nếu công ty không đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ, các thành viên HĐQT và người đại diện theo pháp luật sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới về thiệt hại phát sinh Bên cạnh đó, cổ đông chưa thanh toán hoặc thanh toán không đủ số cổ phần đã đăng ký mua sẽ chịu trách nhiệm tương ứng với tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã đăng ký đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty trong thời hạn quy định Điều này thể hiện sự hợp lý của LDN 2014 so với LDN 2005, khi mà chỉ quy định cổ đông sáng lập phải chịu trách nhiệm trong phạm vi giá trị cổ phần chưa góp đủ Việc thanh toán đầy đủ số cổ phần đăng ký không chỉ phản ánh khả năng tài chính của công ty mà còn tạo dựng niềm tin với khách hàng, đảm bảo rằng các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính sẽ được bảo đảm từ số cổ phần đã đăng ký.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 112 LDN 2014, cổ đông vi phạm nghĩa vụ góp vốn phải chịu trách nhiệm tài chính của công ty trong vòng 90 ngày kể từ khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Đối với thành viên, chủ sở hữu Công ty TNHH, họ chỉ chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết cho các nghĩa vụ tài chính phát sinh trước khi công ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ Nếu Công ty TNHH 2 thành viên cố tình trì hoãn việc đăng ký điều chỉnh vốn, các thành viên chưa góp đủ vốn sẽ phải gánh chịu rủi ro tài chính Ngược lại, đối với Công ty TNHH 1 thành viên, việc hoàn tất sớm thủ tục đăng ký thay đổi vốn sẽ có lợi cho chủ sở hữu Do đó, để bảo vệ quyền lợi của các thành viên và đảm bảo sự thống nhất trong quy định của LDN 2014, cần quy định rõ ràng rằng thành viên, chủ sở hữu Công ty TNHH phải chịu trách nhiệm tài chính trong vòng 90 ngày theo phần vốn góp đã cam kết.

65 Khoản 4 Điều 48, khoản 3 Điều 74 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH 13) ngày 26/11/2014

Luật Doanh Nghiệp 2014 quy định rằng trong vòng 38 ngày kể từ khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, các thành viên Hội đồng thành viên (HĐTV) và chủ sở hữu công ty có trách nhiệm đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ Nếu không thực hiện đúng hạn, họ sẽ phải chịu hậu quả pháp lý liên quan đến nghĩa vụ góp vốn, nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và tạo sự ổn định cho môi trường kinh doanh Tuy nhiên, khác với Công ty TNHH và Công ty Cổ phần, Luật Doanh Nghiệp 2014 không yêu cầu Công ty hợp danh (CTHD) phải đăng ký thay đổi vốn điều lệ khi có thành viên vi phạm nghĩa vụ góp vốn, điều này cần được nghiên cứu và hoàn thiện thêm.

Luật Doanh Nghiệp 2014 quy định rõ ràng về nghĩa vụ góp vốn vào doanh nghiệp, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan Cam kết góp vốn minh bạch giúp giải quyết tranh chấp hiệu quả trong quá trình thực hiện nghĩa vụ này Định giá tài sản góp vốn là yếu tố quan trọng để xác định giá trị chính xác tại thời điểm định giá, từ đó phân định quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên, cổ đông, cũng như đảm bảo trách nhiệm tài chính của công ty.

Luật Doanh Nghiệp 2014 đã quy định rõ ràng về cách thức chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn, bao gồm tài sản có đăng ký và không đăng ký Luật cũng ghi nhận việc thay đổi loại tài sản góp vốn trong Công ty TNHH 2 thành viên, đồng thời đề cập đến các hành vi vi phạm nghĩa vụ góp vốn và hậu quả pháp lý mà thành viên, cổ đông phải chịu Bên cạnh những tiến bộ như cho phép tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá tài sản góp vốn, luật vẫn còn một số hạn chế, như thiếu quy định cụ thể về thời hạn thực hiện nghĩa vụ góp vốn và chủ thể có quyền lựa chọn tổ chức thẩm định giá Tác giả đã đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp về nghĩa vụ góp vốn, góp phần ổn định môi trường pháp lý và hỗ trợ sự phát triển của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập.

Luật Doanh Nghiệp (LDN) 2014 là đạo luật chủ yếu điều chỉnh các vấn đề pháp lý liên quan đến doanh nghiệp, trong đó có nghĩa vụ góp vốn Nghĩa vụ này không chỉ quan trọng trong quá trình thành lập mà còn trong suốt hoạt động của doanh nghiệp, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan Nghiên cứu nghĩa vụ góp vốn giúp thiết lập môi trường kinh doanh lành mạnh và bền vững, thu hút nhà đầu tư và thúc đẩy phát triển kinh tế Bài viết phân tích các quy định của LDN 2014 về nghĩa vụ góp vốn, làm nổi bật những điểm tiến bộ và chỉ ra các vấn đề còn tranh cãi, chưa thống nhất Tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định này.

Luật Doanh nghiệp 2014 không nên cấm những người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự góp vốn thành lập doanh nghiệp Việc cấm này chỉ nên áp dụng đối với những cá nhân đã phạm tội có thể dẫn đến việc Tòa án cấm hành nghề kinh doanh Hơn nữa, Luật Doanh nghiệp 2014 cần công nhận quyền góp vốn của những người đang chấp hành hình phạt tù, đồng thời quy định rõ rằng tổ chức không có tư cách pháp nhân không được phép góp vốn, mua cổ phần hay phần vốn góp vào các loại hình doanh nghiệp như CTCP, Công ty TNHH, CTHD, nhằm đảm bảo an toàn tài chính cho hoạt động kinh doanh.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:19

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
10. Bùi Xuân Hải (2011), Luật Doanh nghiệp - Bảo vệ cổ đông - Pháp luật và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Doanh nghiệp - Bảo vệ cổ đông - Pháp luật và thực tiễn
Tác giả: Bùi Xuân Hải
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2011
11. Cao Đình Lành (2008), “Tiếp cận quản trị công ty cổ phần trên phương diện kết hợp hài hòa lợi ích giữa các bên”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02 (238)/2008, tr. 35-40 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiếp cận quản trị công ty cổ phần trên phương diện kết hợp hài hòa lợi ích giữa các bên”, "Tạp chí Nhà nước và pháp luật
Tác giả: Cao Đình Lành
Năm: 2008
12. Dương Anh Sơn (2006), “Cần thiết phải có cơ chế giám sát vốn điều lệ trong Luật Doanh nghiệp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 84/2006, tr.81-86 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cần thiết phải có cơ chế giám sát vốn điều lệ trong Luật Doanh nghiệp”, "Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
Tác giả: Dương Anh Sơn
Năm: 2006
13. Đinh Văn Mậu - Phạm Hồng Thái (2001), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB Tổng hợp Đồng Nai Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
Tác giả: Đinh Văn Mậu - Phạm Hồng Thái
Nhà XB: NXB Tổng hợp Đồng Nai
Năm: 2001
14. Đào Thị Thu Hằng (2016), Pháp luật về chủ thể kinh doanh, NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật về chủ thể kinh doanh
Tác giả: Đào Thị Thu Hằng
Nhà XB: NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2016
15. Huỳnh Viết Tấn (2011), Luật trong kinh doanh (Luật Kinh tế) - Diễn giải, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật trong kinh doanh (Luật Kinh tế) - Diễn giải
Tác giả: Huỳnh Viết Tấn
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2011
16. Lê Thanh Thập (2010), “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Luật học, số 07 (122)/2010, tr. 29-36 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Lê Thanh Thập
Năm: 2010
17. Lê Đức Hiển - Trương Quốc Hưng (2017), “Hoàn thiện pháp luật về góp vốn kinh doanh bằng giá trị nhãn hiệu”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số 5 (302)/2017, tr. 26-31 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện pháp luật về góp vốn kinh doanh bằng giá trị nhãn hiệu”, "Tạp chí Dân chủ và pháp luật
Tác giả: Lê Đức Hiển - Trương Quốc Hưng
Năm: 2017
18. Lê Học Lâm - Lê Ngọc Đức (2011), Luật Kinh doanh, NXB Lao động - Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Kinh doanh
Tác giả: Lê Học Lâm - Lê Ngọc Đức
Nhà XB: NXB Lao động - Xã hội
Năm: 2011
19. Nguyễn Nhƣ Phát (2016), “Quyền tự do thành lập doanh nghiệp theo Hiến pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10 (342)/2016, tr. 28-32 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền tự do thành lập doanh nghiệp theo Hiến pháp”, "Tạp chí Nhà nước và pháp luật
Tác giả: Nguyễn Nhƣ Phát
Năm: 2016
20. Nguyễn Minh Đoan (2017), Tài liệu hướng dẫn môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật, NXB Chính trị quốc gia Sự Thật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu hướng dẫn môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật
Tác giả: Nguyễn Minh Đoan
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia Sự Thật
Năm: 2017
21. Nguyễn Thị Dung (2010), “Hoàn thiện quy định về góp vốn và xác định tƣ cách thành viên công ty theo Luật Doanh nghiệp 2005”, Tạp chí Luật học, số 9 (124)/2010, tr. 28-37 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện quy định về góp vốn và xác định tƣ cách thành viên công ty theo Luật Doanh nghiệp 2005”, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Nguyễn Thị Dung
Năm: 2010
22. Nguyễn Thị Hải (2011), Góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên - Lý luận và thực tiễn, Luận văn cử nhân luật, Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên - Lý luận và thực tiễn
Tác giả: Nguyễn Thị Hải
Năm: 2011
23. Nguyễn Thị Thanh Lê - Phạm Hoài Huấn (2014), Công ty tại Việt Nam - Tình huống - Tranh chấp - Bình luận, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công ty tại Việt Nam - Tình huống - Tranh chấp - Bình luận
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Lê - Phạm Hoài Huấn
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2014
24. Nguyễn Võ Linh Giang (2015), “Quy định về định giá tài sản là quyền sở hữu trí tuệ khi góp vốn thành lập doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Cộng hòa Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17 (297)/2015, tr. 60-64 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quy định về định giá tài sản là quyền sở hữu trí tuệ khi góp vốn thành lập doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Cộng hòa Pháp”, "Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
Tác giả: Nguyễn Võ Linh Giang
Năm: 2015
25. Nguyễn Thị Liễu Hạnh (2014), Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật, Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Liễu Hạnh
Năm: 2014
26. Nguyễn Việt Khoa - Từ Thanh Thảo (2011), “Quyền tự do kinh doanh trong các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn theo Luật Doanh nghiệp 2005”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 03 (275)/2011, tr. 49- 56 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền tự do kinh doanh trong các quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn theo Luật Doanh nghiệp 2005”, "Tạp chí Nhà nước và pháp luật
Tác giả: Nguyễn Việt Khoa - Từ Thanh Thảo
Năm: 2011
27. Nguyễn Công Phú (2011), “Tranh chấp nội bộ công ty”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2011, tr. 10-15 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tranh chấp nội bộ công ty”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Nguyễn Công Phú
Năm: 2011
28. Nguyễn Thị Vân Anh (2010), “Thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện pháp luật doanh nghiệp và một số đề xuất nhằm hoàn thiện Luật Doanh nghiệp 2005”, Tạp chí Luật học, số 9 (124)/2010, tr. 3-9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện pháp luật doanh nghiệp và một số đề xuất nhằm hoàn thiện Luật Doanh nghiệp 2005”, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Nguyễn Thị Vân Anh
Năm: 2010
29. Phạm Hoài Huấn (chủ biên) (2015), Luật Doanh nghiệp Việt Nam - Tình huống - Dẫn giải - Bình luận, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Doanh nghiệp Việt Nam - Tình huống - Dẫn giải - Bình luận
Tác giả: Phạm Hoài Huấn (chủ biên)
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2015

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w